CHƯƠNG 1: SƠ LƯỢC VỀ CÔNG TY I. Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần dược Phú Thọ
1. Lịch sử hình thành
1.1 Chức năng và nhiệm vụ
Công ty cổ phần dược Phú Thọ là doanh nghiệp mới được chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước thành công ty cỏ phần kể từ ngày 01/11/2003 với nganh nghề sản xuất kinh doanh chính là thu mua ,reo trồng chế biến các loại dược liệu ,cây con làm thuốc ;sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu các loại dược phẩm dược liệu ,hoá chât,hoá dược,nguyên phụ liệu lam thuốc vật tư thiết bị y tế ,hoá mỹ phẩm ,thực phẩm làm thuốc,đào tạo và đào tạo lại nghề dược và một số ngành nghề khác có liên quan tới nghề dược; tư vấn, chăm sóc và dịch vụ bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân.
Trụ sở công ty đặt tại :số 2201 đại lộ Hùng Vương phường Gia Cẩm thành phố Việt Trì .
Số điên thoại :0210846400
Fax:0210846400
Năm 1958 thành lập công ty với tên gọi liên hiệp các xí nghiệp dược Phú Thọ doanh nghiệp tồn tại và phát triển với tên gọi đó thì 10 năm sau 1968 công ty sát nhập lại và chuyển thành liên hiệp các xí nghiệp dược Vĩnh Phú.
Giai đoạn 1992 –1996 công ty lại thêm một lần nữa đỏi tên thành công ty dược vật tư y tế Vĩnh Phú .
Năm 1997 tỉnh Vĩnh Phú tác thành 2 tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ công ty lại một lần nữ đổi tên với tên gọi mới là công ty dược vật tư y tế Phú Thọ
Thực hiện chủ chương cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước của uỷ ban nhân dân tỉnh nói riêng củng như của nhà nước nói chung,công ty sớm nhận thấy đây là một cơ hội tốt để phát triển sản xuất kinh doanh nên đã mạnh dạn chuyển đổi hình thức sở hữu thành công ty cổ phần dược Phú Thọ theo quyết định số 3553/QĐ-CT ngày 23/10/2003 của UBND tỉnh Phú Thọ
Ngày đầu mới thành lập cũng như nhiều doanh nghiệp khác công ty gặp không ít khó khăn về vốn về cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất bên cạnh đó việc sản xuất kinh doanh thuốc đòi hỏi phải có qui trình sản xuất ,bảo quản và quản lí nghiêm ngặt lên lại càng nhiều khó khăn nhưng bằng sự đoàn kết nhất trí trên dưới một lòng cùng với trình độ quản lí kinh doanh của bộ máy lãnh đạo đã đưa công ty vượt qua mọi khó khăn ,tồn tại và phát triển cho tới ngày nay.
1.2 Ngành nghề kinh doanh chính
Công tychuyờn sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu trưc tiếp cỏc loại thuốc chữa bệnh và nguyờn liệu làm thuốc chất lượng cao, với kinh nghiệm của hơn 40 năm sản xuất dược phẩm, hiện nay công ty sản xuất trờn 150 loại thuốc được lưu hành gồm cỏc loại thuốc tiờm, dịch truyền, thuốc viờn nộn, viờn nang, viờn bao phớm, thuốc tra mắt, thuốc nhỏ mũi, cỏc loại thuốc mỡ, cao xoa, xiro, rượu thuốc và cỏc loại chế phẩm khỏc
Sản xuất kinh doanh đúng ngành nghề đó đăng ký, chịu trỏch nhiệm trước nhà nước, trước khỏch hàng, trước phỏp luật về sản phẩm và dịch vụ do công ty thực hiện
Xõy dựng chiến lược phỏt triển kế hoạch 5 năm và hàng năm phự hợp với nhiệm vụ, nhu cầu của công ty và nhu cầu của thị trường
Đổi mới hiện đại cụng nghệ và phương thức quản lý, sử dụng thu nhập từ chuyển nhượng tài sản để tỏi đầu tư đổi mới thiết bị cụng nghệ của công ty
Thực hiện cỏc nghĩa vụ đối với người lao động đảm bảo quyền lợi cho người lao động theo qui định của bộ luật lao động
Chăm lo phỏt triển nguồn nhõn lực để đảm bảo thực hiện chiến lược và nhiệm vụ kinh doanh của công ty, chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, điều kiện sống của người lao động theo qui định của bộ luật lao động
Thực hiện cỏc qui định của nhà nước về bảo vệ tài nguyờn, mụi trường, quốc phũng và an ninh quốc gia
Nộp thuế và cỏc khoản nộp ngõn sỏch nhà nước theo qui định của phỏp
1.3 Cơ cấu tổ chức bộ máy
+ Tổng và phó tổng giám đốc công ty
Chủ tịch HĐQT kiêm tổng giám đốc có nhiệm vụ quản lí điều hành công ty theo luật doanh nghiệp và điều lệ của công ty tổng giám đốc phụ trách chung toàn diện các mặt hoat động SXKD toàn công ty .phó tổng giam đốc kinh doanh phụ trách khâu kế hoạch toàn công ty ;chỉ đạo phòng KHNV ,thị trường ,xuất nhập khẩu . phó tổng giám đốc phụ trách công tác sản xuất,kỹ thuật ,chất lượng;có trách nhiệm chỉ đạo các đơn vị đảm bảo chất lượng sản phẩm sản xuất tại các xí nghiệp của công ty
+ Phòng tổ chức hành chính: Tham mưu với tổng giám đốc để xếp sắp bộ máy hoạt động cố hiệu quả cao;xây dưng qui chế trả lương ,xây dựng kế hoạch thu ,nộp các khoản trích nộp theo lương .
+ Phòng KHNV :Tham mưu giúp tổng giám đốc qui hoạch ,kế hoạch ngắn hạn và dài hạn của doanh nghiệp,có kế hoạch và biện pháp để ổn định công xuất và hiệu quả sản xuất của XN GMP;hàng tháng ,hàng quí lập kế hoạch sản xuất kinh doanh của toàn công ty
+ Phòng KTTC: Tham mưu giúp tổng giám đốc trong công tác quản lí tài sản vật tư ,tiền vốn toàn doanh nghiệp;phải giam sát được việc thực hiện chế dộ quản lí kinh doanh,quản lí tài chính;phải phân tích được hoạt động kinh tế toàn doanh nghiệp tham mưu với lãnh đạo toàn công ty để việc quản lý ,sử dụng đồng vốn có hiệu quả cao nhất.
+ Phòng nghiên cứu công nghệ : nghiên cứu xây dựng, cải tiến quy trình, quy phạm các mặt hàng sản xuất tại doanh nghiệp
theo dõi việc đưa các mặt hàng mới vào sản xuất lập kế hoạch theo dõi độ ổn định của thuốc .
+ Phòng kiểm tra chất lượng: kiểm tra chất lượng các loại dược phẩm,dược liệu , vật tư dạng thuốc . tổ chức lưu mẫu và theo dõi độ ổn định của thuốc.
+ Phòng thị trường: tích cực mở rộng thị trường tiêu thụ, nhậy bén nắm bắt được nhu cầu của thị trường và khả năng tiêu thụ của sản phẩm. Chủ động khai thác triệt để thị trường nhằm tăng doanh thu.
+ Phòng xuất nhập khẩu: căn cứ nhu cầu thị trường và điều kiện cụ thể của doanh nghiệp để lập phương án xuất nhập khẩu hàng hoá.
+Trung tâm đào tạo: lập kế hoạch tuyển sinh, xây dựng quy chế tuyển sinh hàng năm, quản lý học viên, đôn đốc họcviên học tập nội quy.
+ Tổng kho : cập nhật thẻ kho, kiểm tra đối chiếu các mặt hàng bảo quản không để thất thoát hàng hoá.
2. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty.
2.1 lao động của công ty
Mọi doanh nghiệp nhà nước sau khi chuyển sang cơ chế thị trường đều phải tự mỡnh thay đổi cho phự hợp để cú thể tồn tại và phỏt triển trong cơ chế mới này. Do đó hầu hết cỏc doanh nghiệp hiện nay đều đang cố gắng chuyờn mụn hoỏ, trỡnh độ hoỏ đội ngũ cỏn bộ cụng nhõn lao động nờn họ tỡm cỏch giảm biờn chế những người khụng cú năng lực hoặc giải quyết chế độ cho những người đó đủ năm cụng tỏc
Doanh nghiệp chuyờn chế biến và sản xuất cỏc loại thuốc tõn dược, là một loại hàng hoỏ đặc biệt cú liờn quan trực tiếp đến sức khoẻ và tớnh mạng con người, do đó ngoài việc chỳ trọng vào lắp đặt cỏc thiết bị mỏy múc hiện đại, doanh nghiệp cũn phải cú đội ngũ cụng nhõn cú tay nghề cao, cú tri thức, cú trỡnh độ chuyờn mụn vững vàng. Chớnh vỡ vậy khi tuyển cụng nhõn vào đũi hỏi khắt khe hơn cỏc doanh nghiệp khỏc, trỡnh độ của cụng nhõn ớt nhất phải học hết lớp 12 và phải qua cỏc khoỏ học về chuyờn mụn do doanh nghiệp tổ chức do đó cỏc cụng nhõn sản xuất thuốc đều phải cú sự am hiểu nhất định về dược phẩm. Để ngày càng nõng cao kiến thức cho cụng nhõn hàng năm doanh nghiệp luụn mở cỏc khoỏ học bồi dưỡng, thi lờn lương cho cụng nhõn nhằm trang bị cho họ những thụng tin cập nhật cú liờn quan đến nghiệp vụ chuyờn mụn của họ
Hiện nay công ty cổ phần dược phẩm Phú Thọ cú khoảng 462 cỏn bộ cụng nhõn viờn trong đó 292 người là lao động nữ chiếm 63,2% tổng số cỏn bộ cụng nhõn viờn toàn công ty và 170 người là lao động nam chiếm 36,8% tổng số lao động trong công ty.
Lực lượng lao động trực tiếp là 238 người chiếm 51,51%, lao động quản lý phục vụ 224 người chiếm 48,49%. Tuổi đời bỡnh quõn cụng nhõn viờn là 38,7 thu nhập bỡnh quõn là 1,076tr đồng/1người, 1 thỏng
Về vấn đề tổ chức lao động trong công ty cú 6 bậc thợ khỏc nhau từ bậc 1 đến bậc 6 mỗi bậc được chia làm 3 nhúm, mỗi nhúm thợ ứng với một điều kiện làm khỏc nhau. Do đó, tuỳ theo điều kiện làm việc khỏc nhau mà mỗi nhúm thợ cú một hệ số lương khỏc nhau. Trong đó thợ bậc 6 chiếm 5%, thợ bậc 5 chiếm 31%, thợ bậc4 chiếm 38%, thợ bậc 3 chiếm 20%, thợ bậc 2 chiếm 4%, thợ bậc 1 chiếm 2%
Từ thực trạng về lao động bỏo cỏo ở trờn ta thấy vấn đề lao động của công ty cú nhiều ưu điểm và cũng cú nhiều tồn tại
Trước hết ta thấy đây là một công ty với nhiệm vụ chớnh là sản xuất thuốc vậy mà lưc lượng lao động trực tiếp là 238 người chiếm 51,51%, lao động quản lý phục vụ chiếm tới 48,49% gần bằng với lao động trực tiếp. Tỷ lệ này khụng phự hợp với đơn vị sản xuất, nguyờn nhõn chủ yếu là do công ty đã từng là một doanh nghiệp nhà nước bị ảnh hưởng bởi cỏch quản lý của thời kỳ bao cấp nờn bộ mỏy quản trị cũn cồng kềnh. Do đó để cho phự hợp với cơ chế kinh tế thị trường cũng như bao doanh nghiệp nhà nước khỏc công ty đang tiếp tục làm cho gọn nhẹ bộ mỏy quản trị
75 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2471 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty cổ phần dược Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Năm 2000, doanh thu chỉ đạt 60 tỷ đồng, kể từ khi thành lập phòng thị trường, doanh thu tăng lên nhanh chóng, năm 2001 đạt 78 tỷ đồng, năm 2003 đạt 73 tỷ đồng, và năm 2004 vừa qua doanh thu lên tới 80 tỷ đồng.
Tổ chức đưa sản phẩm mới vào thị trường bằng sự phối hợp các kênh phân phối với sự hỗ trợ của quảng cáo.
Công tác hỗ trợ bán hàng:
Có chính sách giá linh hoạt góp phần tăng doanh số bán và mở rộng thị trường, đã có mặt bằng giá chung nhưng có tỷ lệ chiết khấu áp dụng cho các khách hàng tuỳ theo khối lượng mua, phương thức thanh toán, khách hàng mới hay khách hàng truyền thống, cung đường của khách... nếu là khách hàng ở xa thì Công Ty có thể vận chuyển đến tận nơi hoặc hỗ trợ cước phí vận chuyển cho khách hàng.
Phương thức thanh toán linh hoạt, khách hàng có thể trả bằng tiền mặt, séc, chuyển khoản, ngân phiếu. Khách hàng truyền thống, khách hàng mua với khối lượng lớn, trả tiền ngay đều được giảm giá, ngoài ra Công Ty còn hỗ trợ cước phí vận chuyển với các khách hàng ở xa và mua với khối lượng lớn.
Thái độ phục vụ văn minh và lịch sự, Công Ty luôn tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng khi mua các sản phẩm, thủ tục mua bán đơn giản và nhanh gọn.
Công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm:
Ban lãnh đạo Công Ty rất quan tâm đến việc kiểm tra chất lượng sản phẩm, thể hiện ở chỗ: Bên cạnh việc đào tạo cán bộ kiểm nghiệm giỏi, nắm vững các phương pháp kiểm nghiệm mới thì Công Ty cũng rất chú trọng đầu tư các trang thiết bị kiểm nghiệm hiện đại cho phòng KCS. Nhưng điều quan trọng hơn cả là ý thức đảm bảo chất lượng sản phẩm được Công Ty quán triệt đến từng phòng ban, phân xưởng, đến từng tổ sản xuất, từng người lao động. Do đó, công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm đã được nâng lên thành trách nhiệm chung của mọi thành viên trong Công Ty chứ không riêng gì phòng KCS. Đó mới chính là thành công lớn nhất của Công Ty trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm, tạo được lòng tin đối với khách hàng.
2. Những hạn chế còn tồn tại
Công tác nghiên cứu thị trường:
Việc tổ chức nghiên cứu thị trường còn yếu, phương pháp thu thập thông tin còn đơn điệu mới chỉ dựa vào những thông tin từ các cửa hàng, đại lý; công cụ sử dụng chủ yếu bằng cảm tính và sự phán đoán của một số ít cán bộ lãnh đạo. Công tác kế hoạch hoá thị trường còn bị động, kế hoạch hoá chưa cao.
Thị trường tiêu thụ của Công Ty mới chỉ giới hạn ở phạm vi trong nước, chưa có sản phẩm xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Không những thế bản thân thị trường nội địa Công Ty vẫn chưa khai thác được hết, mới chỉ tập trung ở một số tỉnh miền Bắc và miền Trung, thị trường miền Nam hiện vẫn con đang là một thách thức lớn đối với Công Ty
Đội ngũ nhân lực:
Thiếu đội ngũ cán bộ làm chuyên môn trong công tác tiêu thụ. Lực lượng bán hàng của Công Ty có nhiều người là công nhân chuyển ra đứng bán ở các cửa hàng, không qua đào tạo, tuyển chọn, do vậy có sự hạn chế trong hoạt động bán hàng.
Công tác hỗ trợ tiêu thụ:
Công tác hỗ trợ tiêu thụ như quảng cáo, khuyến mại mới được thực hiện lẻ tẻ chưa thành một hệ thống để hỗ trợ cho nhau giữa các khâu nên hiệu quả còn nhiều hạn chế. Hình thức quảng cáo đơn điệu, gần như không có, các hoạt động khác như hội nghị khách hàng, lấy ý kiến khách hàng chưa được quan tâm đúng mức.
Tầm quan trọng của các đại lý bán trực tiếp: chưa được nhìn nhận một cách thoả đáng, bỏ lỡ cơ hội khai thác khả năng cạnh tranh của sản phẩm do đội ngũ này tạo nên.
Chất lượng sản phẩm và bao bì:
Chất lượng sản phẩm ổn định nhưng không tạo ra được nhiều khác biệt so với đối thủ cạnh tranh đặc biệt là hàng ngoại. Những sáng tạo trong việc trình bày bao bì, nhãn mác rất ít, các sản phẩm truyền thống của Công Ty thường được trình bày trên cơ sở hàng hoá cùng loại của đối thủ cạnh tranh. Các sản phẩm mới cũng dựa vào hàng ngoại cùng chủng loại để thiết kế bao bì, nhãn mác.
Công tác bảo quản thành phẩm ở kho:
Hệ thống kho tàng của Công Ty chưa đạt tiêu chuẩn Thực hành tốt tồn trữ thuốc GSP (Good Stories Practise), Công Ty vẫn chưa xây dựng được mức tồn kho an toàn với các loại thuốc cần thiết. Mặt khác, công tác quản lý kho mới chỉ đơn thuần là lao động chân tay thủ công, chưa ứng dụng khoa học hiện đại (máy móc tự động hoá) vào trong quản lý. Những hạn chế này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc quản lý, bảo quản thuốc, đặc biệt là các loại thuốc dễ hư hỏng trong điều kiện khí hậu của nước ta.
3. Nguyên nhân
Những tồn tại trên đây chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân trong đó phải kể đến một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Thông tin giữa thị trường và sản xuất chưa được xử lý một cách nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu thị trường.
Máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất được đầu tư cải tiến từng phần do khả năng của Công Ty có hạn, nên hầu hết không đồng bộ làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
Đội ngũ nhân viên làm công tác tiêu thụ đã có nhiều cố gắng song do còn thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm nên chưa đạt hiệu quả như mong muốn.
Phòng thị trường chưa làm hết chức năng của mình, chỉ đơn thuần là làm công tác xuất-bán hàng. Hoạt động nghiên cứu thị trường chỉ được coi là hoạt động phụ so với việc tiêu thụ sản phẩm, bán hàng. Bộ phận thị trường ngoài nhiệm vụ điều tra về giá cả và tình hình mua bán còn phải còn phải thực hiện nhiệm vụ giao hàng và đôi khi nhiệm vụ giao hàng lại trở thành nhiệm vụ chính của bộ phận này. Nguyên nhân chính là do hạn chế về kinh phí hỗ trợ cho hoạt động này.
Thiếu vốn luôn là một trong những khó khăn thường trực của Công Ty .
ChươngIII một số giảI pháp cho hoạt động tiêu thụ của công ty cổ phần dược phú thọ
I. Mục tiêu, phương hướng phát triển của công ty cổ phần dược phú thọ trong thời gian tới
1. Những thuận lợi và khó khăn của công ty trong thời gian tới
Sau hơn 40 năm xây dựng và phát triển với biết bao thăng trầm, giờ đây công ty cổ phần dược Phú thọ đã có một vị trí khá vững chắc trên thị trường dược Việt Nam. Nhưng không bao giờ tự bằng lòng với chính mình, công ty luôn vận động phát triển để theo kịp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế và để có thể thích ứng với môi trường kinh doanh luôn biến đổi không ngừng. Công ty cũng nhận thức được rằng trong thời gian tới để tiếp tục khẳng định vị trí của mình thì bên cạnh những thuận lợi đã có, công ty sẽ phải đối mặt với không ít khó khăn và thách thức.
1.1. Thuận lợi
Chủ quan:
Về nguồn nhân lực: công ty có đội ngũ cán bộ quản lý nắm vững trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trẻ khỏe, năng động. Sự năng động và khả năng thích ứng với điều kiện mới của ban giám đốc trong thời gian khó khăn nhất thể hiện tinh thần dám nghĩ dám làm, đã đưa lại một kết quả khả quan cho sự phát triển lâu dài của công ty . Ngoài ra, việc tổ chức những lớp bồi dưỡng, đào tạo lại cán bộ đã tạo cho công ty một đội ngũ cán bộ quản lý có chất lượng để phù hợp với yêu cầu mới là một tầm nhìn xa trong chiến lược con người của công ty. Bên cạnh đó đội ngũ công nhân phần lớn có tay nghề cao, có trách nhiệm với công việc, đoàn kết gắn bó tạo nên một tập thể vững mạnh.
Về sản phẩm: Các sản phẩm truyền thống của công ty như kháng sinh thông thường, vitamin khá phong phú về chủng loại, chất lượng đảm bảo, được người tiêu dùng tín nhiệm. Nghiên cứu phát triển sản phẩm mới cũng là một trong những thế mạnh của công ty . Năm 2003, với 10 loại thuốc mới do công ty tự nghiên cứu và được bộ y tế cấp giấy phép, công ty đã đưa vào sản xuất 6 loại và được người tiêu dùng chấp nhận. Các sản phẩm mới này ra đời với chất lượng tương đương hàng ngoại nhập nhưng giá lại rẻ hơn rất nhiều đã thu hút được sự chú ý đặc biệt trong ngành Dược. Có lẽ đây là một hình thức cạnh tranh tích cực, hiệu quả nhất bởi vì “Đổi mới luôn là động lực thúc đẩy sự phát triển”.
Khách quan:
Những năm gần đây, mức sống của người dân ngày càng cao, nhu cầu về dược phẩm cũng ngày càng tăng lên, thị trường sản phẩm tân dược đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Tiền thuốc bình quân đầu người ở nước ta hiện nay là 5,4 USD/năm và theo dự báo của các chuyên gia thì trong những năm tới con số này sẽ tăng lên rất nhiều: khoảng 8-10 USD/năm vào năm 2007 và 12-15 USD/năm vào năm 2010. Đây là một trong những thuận lợi chung của công ty. Hơn nữa, nhờ sự đầu tư đúng đắn của các doanh nghiệp dược phẩm trong nước mà hàng nội đã ngày càng có uy tín, được nhân dân tin dùng (đối với các mặt hàng thuốc thông thường). Mặt khác, công tác quản lý Nhà nước đã đi vào nề nếp. Hệ thống văn bản pháp qui về dược được rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường. Bộ Y tế đang xúc tiến soạn thảo Bộ Luật Dược Việt Nam-là những chuẩn mực trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của ngành Dược Việt Nam, phù hợp với hệ thống luật lệ chung trong nước và thông lệ quốc tế. Công tác phòng chống thuốc thuốc giả, thuốc kém chất lượng tiếp tục được đầy mạnh. Tình hình thuốc giả trên thị trường cơ bản được ngăn chặn. Tỷ lệ thuốc giả giảm dần qua từng năm, từ 7,1% năm 1990 chỉ còn 0,08% năm 2004. Trên đây là những tín hiệu đáng mừng để công ty có những mạnh dạn trong việc xác định các kế hoạch chiến lược trong sản xuất kinh doanh của mình.
1.2. Khó khăn
Chủ quan:
Về phương diện tổ chức quản lý: Bộ máy quản lý của công ty còn khá cồng kềnh, bố trí chưa hợp lý, do đó hiệu quả hoạt động không cao. Trình độ cán bộ quản lý trong giai đoạn tự hoàn thiện cho nên có những vấn đề bất cập. Đó là khả năng cập nhật phương tiện thông tin hiện đại còn thấp, do đó không phát huy được hiệu quả đồng bộ hoá trong quản lý thông tin. Số lượng phòng ban nhiều đôi khi gây nên sự chồng chéo, không thống nhất quan điểm trong quản lý, làm mất đi sự linh hoạt trong việc giải quyết công việc, giảm hiệu quả quản lý. Việc bố trí lao động gián tiếp còn chưa hợp lý, có nhiều chỗ còn dư thừa lao động gián tiếp như phòng bảo vệ, phòng quản lý công trình... làm chi phí cố định tăng cao nhưng hiệu quả kinh tế thấp, gây ra lãng phí lớn cho công ty , ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu giảm giá thành sản phẩm.
Về cơ sở hạ tầng và trình độ công nghệ: Cơ sở hạ tầng được xây dựng từ khi mới thành lập, từ đó đến nay đã trải qua nhiều lần sửa chữa nên không đồng bộ, chắp vá. Nhiều bất hợp lý còn tồn tại trong việc bố trí các bộ phận trong công ty : Phân xưởng cơ khí nằm ngay cạnh phòng tài vụ, phòng tổ chức, phòng kế hoạch cung ứng và máy tiện nằm sát dãy nhà hành chính của xí nghiệp không có hệ thống cách âm, mỗi khi khởi động và làm việc tạo nên một tiếng ồn lớn, một độ rung lớn làm ảnh hưởng trực tiếp đến cán bộ nhân viên các phòng này. Bên cạnh đó, máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất chính được đầu tư cải tiến từng phần do khả năng tài chính của công ty có hạn, cho nên hầu hết không đồng bộ, gây khó khăn cho vận hành, làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, mức tiêu hao nguyên liệu, nhiên liệu lớn.
Về vốn: công ty phải huy động thêm các nguồn vốn khác trong đó vốn đi vay chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng vốn kinh doanh của công ty . Điều này dẫn đến bất lợi trong việc giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của công ty trên thị trường bởi vì với số vốn vay hàng năm công ty phải trả lãi vay ngân hàng một số tiền không nhỏ. Bên cạnh đó,vốn ít nên công ty không có đủ kinh phí để đầu tư chiều sâu, không đủ để mua sắm những dây chuyền sản xuất hiện đại, do đó mà chất lượng thuốc không có những cải thiện lớn, đầu tư cho bao bì mẫu mã còn thấp. Mặt khác cũng vì thiếu vốn nên công ty không có đủ kinh phí để đầu tư nhiều cho các hoạt động quảng cáo, khuyến mại... như các công ty dược phẩm có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là những hoạt động rất cần thiết nhằm hỗ trợ cho công tác tiêu thụ sản phẩm.
Khách quan:
Chưa bao giờ tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm lại được đặt ra cao như hiện nay, nhất là khi sản phẩm được đưa ra thị trường quốc tế. Trong ngành Dược thì đó là tiêu chuẩn ISO 9002, tiêu chuẩn Thực hành tốt sản xuất thuốc GMP (Good Manufacturing Practise), tiêu chuẩn Thực hành tốt phân phối thuốc GDP (Good Distribution Practise), tiêu chuẩn Thực hành tốt tồn trữ thuốc GSP (Good Stories Practise)... Để đáp ứng được những tiêu chuẩn này, công ty phải có sự đầu tư rất lớn cả về thiết bị công nghệ và cả về con người, điều này đòi hỏi công ty phải có nguồn tài chính dồi dào nhưng như trên đã nói, khó khăn chung hiện nay của công ty cũng như các doanh nghiệp dược Việt Nam khác là thiếu vốn.
Trong nền kinh tế thị trường với xu thế quốc tế hoá, tự do hoá thương mại, cuộc cạnh tranh đang diễn ra hết sức gay gắt giữa các doanh nghiệp dược phẩm trong nước với nước ngoài. Rõ ràng đây là cuộc đấu không cân sức giữa các công ty, xí nghiệp dược phẩm trong nước với các công ty nước ngoài. Chúng ta thua họ cả về vốn kinh doanh, về kinh nghiệm và trình độ quản lý, về marketing-đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, về độ đa dạng và chất lượng của sản phẩm... Bên cạnh đó, mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp dược phẩm trong nước cũng không kém phần quyết liệt. Mọi công ty, xí nghiệp đều hết sức nỗ lực trong việc tranh giành nhau thị trường tiêu thụ. Do vậy, nếu công ty không biết tận dụng triệt để những lợi thế của mình thì công ty không thể tồn tại và phát triển được.
Công ty cổ phần dược Phú Thọ nói riêng và ngành Dược Việt Nam nói chung đang phải đối mặt với một thực tế là: Thuốc nội đang dần mất vị trí và bị lấn át bởi thuốc ngoại nhập theo nhiều con đường hợp pháp và không hợp pháp (Theo con đường này, giá thuốc thường rất rẻ). Hiện nay thuốc sản xuất trong nước chỉ mới chiếm được khoảng 30% thị phần thị trường thuốc Việt Nam. Như vậy có thể nói thuốc ngoại nhập đang làm chủ thị trường thuốc ở nước ta. Ngay cả đối với một số loại thuốc thông thường giá cả thuốc sản xuất trong nước thấp hơn nhiều so với thuốc ngoại. Thậm chí, cùng một dạng thuốc và cùng hàm lượng, giá thuốc nội chỉ bằng 1/10 giá thuốc ngoại nhưng vẫn không thể cạnh tranh nổi với thuốc ngoại. Điều này có thể hiểu được bởi vì thói quen, tâm lý thích dùng thuốc ngoại từ lâu đã ăn sâu vào tiềm thức của nhiều người. Và để thay đổi nhận thức này thì không phải là chuyện đơn giản, có thể giải quyết được trong một sớm một chiều.
Ngoài ra cho tới nay, Bộ Y tế vẫn chưa có một qui hoạch thống nhất cho toàn ngành Dược, vẫn chưa có bộ luật riêng cho ngành Dược. Hệ thống văn bản pháp luật nói chung và ngành Dược nói riêng đang được hoàn thiện nhưng chưa đồng bộ. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành chưa hài hòa, còn chồng chéo đã tạo ra không ít khó khăn cho các doanh nghiệp dược trong việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
2. Mục tiêu, phương hướng phát triển của ccông ty trong thời gian tới
2.1. Mục tiêu, phương hướng phát triển
Như chúng ta đều biết, thuốc là một trong những yếu tố rất quan trọng trong công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ của nhân dân. Việc cung ứng đầy đủ về số lượng, chủng loại, đảm bảo về chất lượng, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân là trách nhiệm của ngành Dược Việt Nam nói chung và của công ty nói riêng. Vì vậy bên cạnh việc mở rộng sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu kinh tế thì công ty cũng có những mục tiêu xã hội mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải thực hiện, đặc biệt là những doanh nghiệp trong ngành y tế. Đối với công ty cổ phần dược Phú Thọ thì mục đích kinh doanh, lợi nhuận luôn đi sau mục đích phục vụ nhân dân.
Trên cơ sở nhận thức được những thuận lợi và khó khăn nêu trên, công ty đã đề ra phương hướng phát triển cụ thể trong những năm tới như sau:
Đảm bảo sản xuất cung ứng thuốc có chất lượng, giá cả phù hợp, cơ cấu chủng loại thuốc phù hợp với nhu cầu của thị trường. Đặt trọng tâm vào việc sản xuất, tiêu thụ thuốc chữa bệnh cho nhân dân.
Củng cố thị trường truyền thống vươn tới và chiếm lĩnh thị trường miền Nam, bước đầu xuất khẩu sản phẩm ra thị trường nước ngoài, trước hết là thị trường khu vực ASEAN.
Phát triển và không ngừng hoàn thiện mạng lưới phân phối thuốc, đảm bảo cân đối giữa cung và cầu về các loại thuốc giữa các khu vực thị trường của công ty.
Bảo đảm chất lượng thuốc trong sản xuất, dự trữ và lưu thông một cách tốt nhất để đảm bảo việc sử dụng thuốc hợp lý, an toàn và có hiệu quả của người dân.
Quan tâm hơn nữa đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực: Hợp lý về cơ cấu, đủ về số lượng, đạt về chất lượng, nâng cao trình độ phẩm chất chính trị, tay nghề chuyên môn, xây dựng tác phong lao động trong sản xuất.
II. Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty cổ phần dược Phú Thọ
1. Tổ chức tốt công tác nghiên cứu thị trường
Trong bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào, vấn đề tìm kiếm thị trường, bạn hàng luôn giữ vai trò quan trọng hàng đầu. Để xâm nhập và chiếm lĩnh một thị trường nào đó trước hết công ty phải điều tra nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường là nhằm giúp công ty có thể nắm bắt được những thông tin cần thiết để phục vụ cho quá trình lập kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty như: loại thuốc nào thị trường đang có nhu cầu, sức mua của thị trường, đối tượng khách hàng, tình hình cạnh tranh trên thị trường...
Trên cơ sở thu nhận những thông tin đó, công ty xem xét khả năng của mình để quyết định nên hay không nên tiến hành tổ chức sản xuất sản phẩm và xâm nhập vào các thị trường mới này. Việc nghiên cứu thị trường có một vai trò quan trọng như vậy, tuy nhiên trong thời gian qua công ty chưa làm tốt công tác này, không xác định được chính xác nhu cầu của năm kế hoạch mà chỉ dựa trên số lượng tiêu thụ của năm trước để lên kế hoạch sản xuất cho năm sau. Vì vậy, đã có lúc dẫn đến tình trạng sản xuất diễn ra quá dồn dập, hàng hoá không đủ bán cho khách, nhưng có lúc hàng hoá ứ đọng tồn kho nhiều mà thuốc là loại hàng hoá có hạn dùng, nếu để lâu quá sẽ bị kém chất lượng, ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ của người dân. Nguyên nhân là do phòng thị trường của công ty chưa làm hết chức năng của mình, chỉ đơn thuần là làm công tác xuất-bán hàng và đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu thị trường vẫn còn thiếu kiến thức chuyên môn, thiếu kinh nghiệm. Để khắc phục tình trạng này và giúp công ty chủ động hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, em có một số ý kiến sau:
Cần xác định rõ nhiệm vụ chính của phòng thị trường là:
Thu thập, phân tích và xử lý thông tin để xác định và hiểu rõ về thị trường, tiềm năng của thị trường, thị trường mục tiêu cũng như xu hướng biến động của thị trường để giúp ban giám đốc đưa ra các quyết định về kế hoạch sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm, cân đối giữa sản xuất và tiêu thụ.
Căn cứ vào tình hình biến động của thị trường để đề xuất về số lượng tiêu thụ và giá bán ra.
Bộ phận nghiên cứu thị trường phải đưa ra được các thông tin cần thiết cho các khu vực thị trường riêng biệt bằng việc mô tả chính xác về thị trường đó như:
Thời điểm khách hàng mua hàng, số lượng mua, qui cách chủng loại sản phẩm ?
Giá bán cho từng loại qui cách sản phẩm ?
Phương thức giao hàng và thanh toán nào là phù hợp ?
Các yêu cầu có liên quan đến khách hàng là gì ?
Để hoạt động nghiên cứu thị trường có hiệu quả, công ty cần bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu thị trường cho phù hợp với yêu cầu mới. Mặt khác, công ty cũng cần đầu tư, trang bị những phương tiện quản lý hiện đại, đưa những phần mềm ứng dụng vào trong công tác nghiên cứu thị trường.
Để có được những thông tin về tình hình thị trường, công ty không chỉ dựa vào những số liệu thống kê từ những năm trước mà cần tăng cường các phương pháp điều tra trưng cầu, phỏng vấn kết hợp với các phương pháp khác. Ngoài ra, công ty cần quan hệ chặt chẽ với các cơ quan thông tin về thị trường như Cục quản lý Dược Việt Nam, Tổng công ty dược Việt Nam...; tham khảo thêm các thông tin về thị trường trên các loại sách báo, tạp chí chuyên ngành như Tạp chí Dược học, Báo Sức khoẻ và đời sống...
2. Xây dựng và hoàn thiện chiến lược thị trường
Quan điểm trong chiến lược kinh doanh của công ty là giữ vững thị trường mục tiêu bằng các sản phẩm truyền thống, dùng doanh thu ở thị trường này để tài trợ cho việc nghiên cứu sản phẩm mới, dùng sản phẩm mới để mở rộng thị trường. Quan điểm này xem ra khá phù hợp trong điều kiện hiện nay của công ty , tuy nhiên cần nâng nó lên thành một chiến lược thị trường hoàn chỉnh có như vậy thì mới khai thác được hết tính ưu việt của nó.
2.1. Đối với thị trường truyền thống
Các tỉnh miền Bắc là thị trường quen thuộc của công ty , với một hệ thống các khách hàng lớn là các công ty dược phẩm trung ương và địa phương, các đại lý của công ty , các hiệu thuốc, nhà thuốc tư nhân, các bệnh viện và cơ sở y tế. Những sản phẩm truyền thống của công ty như thuốc kháng sinh thông thường, vitamin các loại đã tạo được sự tín nhiệm ở những thị trường này, do đó công ty cần khai thác triệt để lợi thế này. Bên cạnh đó, công ty cần phải: Thông qua kết quả của hoạt động nghiên cứu thị trường để nắm bắt kịp thời nhu cầu của người tiêu dùng. Khảo sát phân tích những biến động của thị trường, phân đoạn từng thị trường để đưa ra những chính sách tiêu thụ hợp lý, không ngừng cải tiến sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu.
Hiện nay, công ty đang thực hiện phương thức bán hàng linh hoạt về mọi phương diện: trong phương tiện thanh toán, phương thức thanh toán, thời hạn thanh toán. Tuy nhiên hiện tượng nợ đọng còn khá nhiều làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của công ty . Có thể khắc phục hiện tượng này bằng cách thay đổi phương thức trao hàng xé nhỏ hợp đồng để kết hợp thu tiền, nắm chắc đối tượng khách hàng để “chọn mặt gửi hàng” sao cho số dư nợ giảm đến mức thấp nhất.
Trong thị trường truyền thống, mặc dù sản phẩm của công ty đã có một chỗ đứng nhất định nhưng thực sự cường độ cạnh tranh ở đây lại rất cao. . Mặt khác, do đặc thù khí hậu của nước ta nên nhu cầu về các loại thuốc kháng sinh thông thường, vitamin rất lớn, các doanh nghiệp đều nhận ra điều đó nên họ tập trung khai thác mạnh mẽ. Thêm vào đó, các hãng nước ngoài cũng ồ ạt xâm nhập vào Việt Nam làm cho thị trường cạnh tranh càng quyết liệt. Để có thể giữ vững thị trường hiện tại, tạo cơ sở mở rộng thị trường thì việc xây dựng một chiến lược thị trường là hết sức cần thiết. Hiện nay, công việc này đang được xúc tiến nhưng tiến độ còn chậm, cần đẩy nhanh tiến độ công việc hơn nữa bằng cách tăng cường khai thác sức mạnh tập thể đội ngũ cán bộ quản trị kết hợp với những trang thiết bị hiện đại sẵn có.
Ngoài việc nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm để tăng khả năng cạnh tranh thì công ty cần phải có chính sách phù hợp với mạng lưới phân phối của mình, đây là lực lượng có tác động rất lớn đến khối lượng hàng bán ra trên thị trường vì những lý do sau: Các thuốc kháng sinh thông thường nội địa có nhiều đặc điểm giống nhau, sự cách biệt về giá không lớn, thói quen dùng thuốc của người dân là tiện đâu mua đó, mua theo kinh nghiệm, khi mua thì hỏi ý kiến người bán là chính và không mấy băn khoăn về giá khi mua. Vì vậy, để tăng nhanh khối lượng hàng hóa bán ra cần thực hiện một số biện pháp sau:
Thứ nhất: Nâng cao chất lượng sản phẩm, tìm tòi sáng tạo trong việc trình bày bao bì nhãn mác để kích thích tiêu thụ đồng thời để tránh được hiện tượng nhái mẫu mã lợi dụng uy tín của xí nghiệp của một số cơ sở khác.
Thứ hai: Động viên các thành viên của mạng lưới phân phối (Trình bày cụ thể ở phần sau)
Thứ ba: công ty nên lập thêm các đại diện, chi nhánh tiêu thụ tại các trung tâm, các khu vực thị trường để vừa làm nhiệm vụ phân phối, vừa quản lý mạng lưới bán hàng, vừa bán và giới thiệu sản phẩm, vừa nghiên cứu thị trường tại khu vực đó.
Thứ tư: công ty cần khai thác triệt để những chính sách quản lý của Nhà nước như là một “barrie” để ngăn chặn đối thủ mới xâm nhập nhằm giảm cường độ cạnh tranh.
2.2. Đối với thị trường mới
công ty đang xúc tiến để mở rộng thị trường tại phía Nam và xuất khẩu sản phẩm ra thị trường khu vực ASEAN. Đây là những thị trường còn nhiều bỡ ngỡ đối với công ty , tiềm năng có nhiều nhưng thách thức cũng lắm... Do vậy để xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường miền Nam, công ty cần phải lập ra một chiến lược cụ thể và phải tìm hiểu xem nhu cầu khách hàng trong đó cần loại thuốc gì mà hiện này thị trường miền Nam đang trống.
Đối với thị trường khu vực ASEAN, công ty có được những thuận lợi nhất định. Tuy nhiên, công ty muốn thâm nhập và giữ được thị trường ở các nước ASEAN, điều trước hết là sản phẩm của công ty phải có sức cạnh tranh về chất lượng và giá cả. Sau nữa là các sản phẩm này phải đủ sức vượt qua các hàng rào phi thuế quan, trong đó có những qui định về chất lượng. Do đó nâng cao chất lượng sản phẩm là nhiệm vụ hàng đầu, bên cạnh đó công ty cần phải làm tốt công tác điều tra nghiên cứu thị trường, có như vậy thì sản phẩm của công ty mới có thể có mặt và đứng vững trên thị trường ASEAN.
3. Động viên các thành viên của mạng lưới phân phối
Những trung gian tiêu thụ luôn cần được động viên kích thích để hoàn thành tốt nhất công việc của họ, đó là tiêu thụ sản phẩm và mở rộng thị trường, và như vậy là đã hoàn thành một mục tiêu của công ty . Hiện nay, công ty đang áp dụng hình thức chiết khấu giá cho các đại lý bán buôn là 3% nếu doanh số nếu doanh thu dưới 50 triệu đồng/tháng, 5% nếu doanh thu từ 50-150 triệu đồng/tháng và 7% nếu lớn hơn 150 triệu đồng/tháng. Còn đối với các công ty dược phẩm trung ương và địa phương, công ty áp dụng tỷ lệ chiết khấu từ 5%-10% tuỳ theo trị giá lô hàng họ lấy. Việc áp dụng mức chiết khấu thay đổi theo doanh số bán hàng đối với các đại lý bán buôn và theo trị giá hàng mua đối với các công ty dược phẩm là điều rất hợp lý trong việc tổ chức tiêu thụ sản phẩm của công ty . Tuy nhiên, công ty cần xem xét và áp dụng các biện pháp kích thích mang tính cụ thể hơn đối với các thành viên khác nhau:
Với các đại lý bán buôn của công ty : công ty nên áp dụng chính sách chiết khấu giá theo định mức tiêu thụ như hiện nay. Điều này khiến cho các đại lý phải tự có biện pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của công ty nhằm có lợi nhuận cao hơn. Bên cạnh đó, công ty nên xem xét đưa thêm hình thức tặng quà lưu niệm miễn phí (trên các món quà đó có in tên, biểu tượng của công ty như là: khay đếm thuốc, lịch treo tường, lịch để bàn, các bao gói thuốc bằng giấy hoặc nilông...), để các đại lý này tặng lại cho các khách hàng. Như vậy, khách hàng sẽ thích thú hơn với việc mua hàng của các đại lý của công ty . Hơn nữa, đó cũng là một hình thức quảng cáo gián tiếp sản phẩm của công ty.
Với các công ty dược phẩm trung ương và địa phương: Bên cạnh việc tiếp tục duy trì tỷ lệ chiết khấu như hiện nay, công ty cần phải thiết lập mối quan hệ chặt chẽ, mang tính chất ổn định, lâu dài với các đối tượng này vì họ là những đầu mối tiêu thụ lớn ở địa phương. Mọi vấn đề liên quan tới vấn đề tiêu thụ sản phẩm của công ty đều phải được thoả thuận bằng hợp đồng kinh tế. Khó khăn hiện nay đối với nhiều doanh nghiệp là vấn đề vốn kinh doanh. Do vậy, biện pháp kích thích tốt nhất đối với đối tượng khách hàng này-bản thân cũng là những đơn vị kinh doanh mà công ty nên áp dụng là giao hàng trước, trả tiền sau. Làm như vậy, các công ty dược phẩm sẽ nhập hàng của công ty nhiều hơn vì họ sẽ chiếm dụng được vốn của công ty trong một thời gian nhất định.
Với các hiệu thuốc, nhà thuốc tư nhân, các cửa hàng bán lẻ: Đây là nhóm khách hàng rất quan trọng vì họ trực tiếp tiếp xúc với người sử dụng sản phẩm của công ty. Họ không chỉ là những người bán hàng kiếm lời mà còn là người giới thiệu, quảng cáo, vận động người sử dụng dùng sản phẩm của công ty . Điều đặc biệt là mọi ý kiến phản hồi của khách hàng đều tập trung ở những điểm bán lẻ như thế này. Mà như chúng ta đều biết, ý kiến phản hồi của khách hàng về sản phẩm của công ty cũng như của đối thủ cạnh tranh có ý nghĩa rất lớn đối với công ty. Vì vậy, công ty nên:
Tăng mức chiết khấu đối với những điểm bán có doanh thu cao (cao hơn so với các điểm bán khác), nếu những điểm bán lẻ này được công ty trực tiếp phân phối.
Có thưởng nếu họ thu thập được những ý kiến đóng góp hữu ích của người sử dụng, có nghía là ở một chừng mực nào đó, những ý kiến đóng góp này có thể được áp dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh và mang lại hiệu quả kinh tế cho công ty .
Lồng ghép việc quảng cáo vào các biện pháp kích thích. Ví dụ như hỗ trợ cho các điểm bán này bảng hiệu, tủ bày thuốc trên đó có các tên, biểu tượng của công ty hoặc các sản phẩm đặc trưng của công ty.
4. Nâng cao chất lượng sản phẩm và đẩy mạnh nghiên cứu phát triển sản phẩm mới.
Chất lượng luôn là một công cụ cạnh tranh quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp nhưng nó đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm bởi vì thuốc là mặt hàng có liên quan trực tiếp đến sức khoẻ và tính mạng của người tiêu dùng. Nhận thức được điều này, công ty đã rất chú trọng đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Phương châm của công ty là “Không chất lượng không tồn tại” được quán triệt cụ thể đến từng phân xưởng, đến từng người lao động. So với các đối thủ cạnh tranh thì đây là một trong những thành công đáng kể của công ty trong việc tạo được sự tín nhiệm đối với người tiêu dùng.
Nhìn chung, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng các sản phẩm của công ty chất lượng chưa cao hơn hẳn so với các sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là so với hàng ngoại nhập. Vì vậy chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường Việt Nam và khó thâm nhập vào thị trường nước khác. Do đó sản phẩm của công ty muốn chiếm được thị phần ngày càng lớn ngay trên thị trường nội địa, vươn tới thị trường các nước khác, trước mắt là thị trường ASEAN thì không có con đường nào khác là phải nâng cao chất lượng.
Để nâng cao chất lượng sản phẩm, công ty cần thực hiện một số biện pháp sau:
Một là: Làm tốt công tác nghiên cứu và thiết kế công thức thuốc. Muốn vậy phải đầu tư về mặt con người đi đôi với việc trang bị các phòng thí nghiệm hiện đại để phục vụ cho hoạt động nghiên cứu.
Hai là: Tiếp tục đầu tư đổi mới trang thiết bị, nên chú trọng đầu tư có trọng điểm, đầu tư để đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất; mạnh dạn thay thế một số máy móc, dây chuyền công nghệ đã cũ và lạc hậu; đầu tư mua sắm các dây truyền, máy móc có thể sản xuất ra những sản phẩm mới, phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng.
Đối với công ty , cần đổi mới công nghệ theo phương án đầu tư các dây chuyền sản xuất đạt tiêu chuẩn GMP (Good Manufacturing Practise: Thực hành tốt sản xuất thuốc), trước tiên nên đầu tư vào dây chuyền sản xuất thuốc kháng sinh là loại mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn, đồng thời nên đầu tư một dây chuyền sản xuất dịch truyền đồng bộ để đảm bảo chiếm lĩnh thị trường dịch truyền trong nước bằng ưu thế chất lượng.
Ba là: Kiểm tra nghiêm ngặt qui trình sản xuất, đảm bảo chất lượng nguyên liệu dùng trong sản xuất bởi vì nguyên liệu làm thuốc có vai trò rấ quan trọng trong việc hình thành chất lượng dược phẩm, làm tốt ở khâu này sẽ giúp giảm thiểu sản phẩm lỗi, sản phẩm kém chất lượng.
Bốn là: Bên cạnh việc đầu tư trang thiết bị kiểm nghiệm hiện đại, đào tạo cán bộ kiểm nghiệm giỏi, nắm vững các phương pháp kiểm nghiệm mới thì ở mỗi công đoạn của quá trình sản xuất, mỗi phân xưởng phải tự chịu trách nhiệm về chất lượng của sản phẩm do phân xưởng mình làm ra và trong mỗi phân xưởng tổ sản xuất sau sẽ kiểm tra chất lượng của tổ sản xuất đứng trước. Ví như trong phân xưởng sản xuất thuốc viên thì tổ xay rây sẽ kiểm tra chất lượng của tổ nguyên vật liệu, tổ pha chế sẽ kiểm tra chất lượng của tổ xay rây, tổ dập viên (hoặc bao viên) sẽ kiểm tra chất lượng của tổ pha chế...và cứ thế cho đến khi đóng gói, giao nhận thành phẩm. Điều quan trọng là ý thức
Năm là: Đào tạo và sử dụng đội ngũ công nhân có trình độ kỹ thuật, tay nghề cao, đội ngũ cán bộ quản lý am hiểu về nghiệp vụ kinh doanh, có kiến thức về kinh tế thị trường, có kỹ năng ứng xử và giải quyết các tình huống trong hoạt động kinh doanh. Bởi vì con người là yếu tố quyết định nhất, là chìa khoá dẫn đến thành công trong kinh doanh.
Song song với vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm, công ty cũng cần phải đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu phát triển sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của người tiêu dùng. Xét trong điều kiện thị trường dược Việt Nam hiện nay, các loại thuốc truyền thống có rất nhiều đơn vị sản xuất, thì nghiên cứu phát triển sản phẩm mới là một hướng đi đúng của công ty để đẩy mạnh tiêu thụ và thâm nhập vào các thị trường mới. Sản phẩm mới của công ty có thể đươc nghiên cứu phát triển theo các hướng sau:
Sản phẩm cải tiến trên cơ sở cũ: Thuốc Ealmzin, Coderin... những sản phẩm này có thể đổi mới bằng hình thức bao gói. Cụ thể là chuyển từ đóng lọ thuốc rời sang đóng vỉ, tạo ra sự thuận tiện cho người sử dụng, hết đến đâu mua đến đó, nhiều người trước kia chỉ cần dùng với số lượng nhỏ nhưng phải mua cả một lọ. Công ty nên chuyển dần những sản phẩm có qui cách đóng gói lớn sang qui cách đóng gói nhỏ hơn; từ ống nhọn đầu sang ống cổ bồng; hoặc chuyển từ viên nén sang viên nang, viên bao phim...nhằm tạo sự thuận tiện cho người sử dụng.
Sản phẩm được sản xuất hoàn toàn theo mẫu của nước ngoài: Được nghiên cứu, thử nghiệm và cho ra đời tại công ty như: thuốc chống lao Pyrazynamind, Ethabatol, thuốc giảm đau Ibufrofen... Trong những năm gần đây, hầu như năm nào công ty cũng cho ra đời một số sản phẩm mới. Năm 2003, công ty đã tự nghiên cứu thành công 10 loại thuốc mới và được Bô y tế cấp giấp phép, trong đó công ty đã đưa vào sản xuất 6 loại và được người tiêu dùng chấp nhận.
5. Phấn đấu giảm giá thành sản phẩm
Giá cả là một trong 4 tham số cơ bản của marketing hỗn hợp, nó là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định mua hàng của khách hàng. Vì thế bên cạnh việc nâng cao chất lượng thì hạ giá thành sản phẩm cũng là một yếu tố thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty . Trước đây, Bác Hồ đã từng nói: “Nếu sản xuất nhiều và tốt nhưng giá đắt quá ít người mua thì hàng ứ đọng, hoạt động sản xuất sẽ bế tắc. Vì vậy, sản xuất đã tốt lại phải rẻ”. Mà muốn cho sản phẩm rẻ thì không có con đường nào khác là phấn đấu hạ giá thành sản phẩm.
Tuy nhiên, thuốc tân dược là một mặt hàng có liên quan trực tiếp đến sức khoẻ và tính mạng của người sử dụng, cho nên vấn đề chất lượng sản phẩm phải được đặt lên hàng đầu. Giá bán hạ là một vấn đề quan trọng nhưng chất lượng sản phẩm mới là yếu tố quan trọng nhất để người tiêu dùng quyết định có mua sản phẩm của công ty hay không. Trong nhiều trường hợp sản phẩm có giá bán hơi cao nhưng chất lượng rất tốt thì sản phẩm đó vẫn được người tiêu dùng chấp nhận. Do đó song song với các biện pháp nhằm giảm giá thành sản phẩm thì công ty phải luôn quan tâm và chú trọng đến chất lượng sản phẩm.
Muốn giảm giá thành sản phẩm trước hết cần phải:
Nghiên cứu cơ cấu giá thành, tức là nghiên cứu tỷ trọng của mỗi khoản mục trong giá thành toàn bộ của sản phẩm, từ đó xác định trọng điểm hạ giá thành.
Phân tích kỹ các khoản mục giá thành để tìm ra nguyên nhân làm tăng hoặc giảm giá thành, phát hiện các khả năng tiềm năng để hạ giá thành.
Đề ra những biện pháp giảm giá thành và phải tính toán ảnh hưởng của các biện pháp đó.
Để giảm giá thành sản phẩm, công ty nên tập trung giải quyết tốt những vấn đề sau:
Khuyến khích tiết kiệm nguyên vật liệu trong sản xuất bằng cách xây dựng định mức sử dụng nguyên vật liệu cho từng loại sản phẩm, bởi vì đây là cơ sở để đánh giá mức độ lãng phí hay tiết kiệm trong việc sử dụng nguyên vật liệu từ đó có mức thưởng phạt hợp lý.
Quản lý chặt chẽ khâu thu mua nguyên vật liệu, chú ý tìm kiếm những nguồn nguyên liệu rẻ hơn nhưng vẫn đảm bảo chất lượng cho sản xuất. Nên tăng cường sử dụng các loại dược liệu sản xuất trong nước mà chất lượng không thua kém gì nguyên liệu nhập khẩu. Đặc biệt công ty cần đẩy mạnh nghiên cứu tự sản xuất nguyên liệu dùng trong sản xuất.
Nâng cao năng suất lao động bằng cách cải tiến tổ chức sản xuất, nâng cao trình độ cơ giới hoá, tự động hoá, khai thác tối đa công suất của máy móc thiết bị.
Tăng nhanh vòng chu chuyển của hàng hoá, cần có những biện pháp hữu hiệu để giảm thời gian lưu kho của hàng hoá nhằm làm giảm chi phí lưu kho. Điều này đòi hỏi các cán bộ phòng kế hoạch cung ứng phải nghiên cứu kỹ nhu cầu thị trường, về từng loại sản phẩm của công ty, về thời gian sản xuất để lập kế hoạch sản xuất từng loại sản phẩm sao cho hợp lý nhất, với thời gian lưu kho ngắn nhất mà vẫn đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường.
Bố trí và sử dụng lao động một cách hợp lý, xây dựng bộ máy quản lý gọn nhẹ, có hiệu quả vì hiện nay bộ máy điều hành của công ty còn khá cồng kềnh với 11 phòng ban mà chỉ có 4 phân xưởng sản xuất. Giảm bớt các khoản chi phí hành chính không cần thiết, tiết kiệm đúng mức chi phí phục vụ cho hội nghị, họp hành.
6. Tăng cường hoạt động quảng cáo
Quảng cáo trong ngành Dược có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi vì bên cạnh mục đích thương mại thì việc thông tin, giới thiệu cho khách hàng nắm được những tiêu chí về thuốc như: công dụng, cách dùng, liều dùng, hạn dùng, chỉ định, chống chỉ địnhẳ là rất cần thiết. Muốn người dân sử dụng thuốc hợp lý, an toàn và hiệu quả thì quảng cáo là một trong những biện pháp thông tin phù hợp nhất. Bên cạnh đó, nó còn giúp cho người bệnh lựa chọn được loại thuốc phù hợp với mình. Bởi vì như chúng ta biết hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất một loại thuốc có công hiệu và tác dụng tương đương hoặc gần giống nhau, rồi tình trạng nhái tên goi, nhãn hiệu, mẫu mã của nhau. Do đó, nếu như công ty không thông tin,quảng cáo chỉ cho khách hàng thấy được những điểm đặc trưng, khác biệt của sản phẩm của công ty so với sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh thì việc khách hàng nhầm lẫn là điều khó tránh khỏi. Mặt khác, có tăng cường quảng cáo thì mới kích thích được nhu cầu tiêu dùng của khách hàng, từ chỗ chưa biết gì về công ty , sau khi đọc/nghe/xem quảng cáo nhiều lần thì sẽ quen thuộc với sản phẩm của công ty , từ đó tiến tới sử dụng thử rồi quen dần với nhãn hiệu của công ty . Như vậy, quảng cáo là một công cụ rất quan trọng để đẩy mạnh tiêu thụ.
Tuy nhiên hiện nay hoạt động quảng cáo của công ty chưa được quan tâm đầu tư đúng mức. Các hoạt động quảng cáo phần lớn mới chỉ dựa vào cảm tính. Công ty quan sát thị trường rồi đưa ra những quyết định quảng cáo cho các mặt hàng. Phương tiện quảng cáo chủ yếu của công ty là báo chí nhưng thời gian không nhiều và không thường xuyên, chỉ tập trung vào những dịp cuối năm hay những dịp công ty đưa sản phẩm mới vào thị trường. Còn các phương tiện truyền hình, phát thanh thì rất ít.
Thiết nghĩ để đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty thì hàng năm cùng với kế hoạch mua-bán hàng hoá, công ty nên lập ra kế hoạch quảng cáo, kế hoạch phải lập thường xuyên cho từng năm và từng thời kỳ trong năm.
Trong mỗi kế hoạch quảng cáo của công ty, cần xác định những nội dung cơ bản sau:
Xác định mục tiêu quảng cáo: Quảng cáo để tăng cường lượng bán hay củng cố uy tín của sản phẩm, uy tín của công ty để cạnh tranh.
Xác định danh mục mặt hàng quảng cáo: Trên cơ sở từng mục tiêu quảng cáo, công ty cần xác định danh mục mặt hàng quảng cáo trong kế hoạch quảng cáo của mình.
Xác định đối tượng quảng cáo của công ty: Với mục tiêu và mặt hàng quảng cáo nhất định, công ty cần xác định đối tượng quảng cáo ở đây là các trung gian phân phối hay người sử dụng.
Xác định hình thức và phương tiện quảng cáo: Trong thời gian tới đây, công ty cần mở rộng quảng cáo trên truyền hình, đài phát thanh, áp phích ở các nơi bán hàng, sử dụng triệt để tác dụng của các biển hiệu quảng cáo.
Dự kiến chi phí quảng cáo: công ty cần xác định kế hoạch định mức chi phí ổn định: tỷ lệ chi phí cần cho những mặt hàng mới là chủ yếu, chiếm khoảng 40% tổng chi phí quảng cáo của công ty, những mặt hàng truyền thống đã khá quen thuộc với người tiêu dùng, do đó chi phí quảng cáo thấp hơn, khoảng 30% tổng chi phí và còn 30% là dùng vào việc nâng cao uy tín của công ty .
Kế hoạch quảng cáo sẽ giúp công ty thực hiện công tác quảng cáo thường xuyên, kịp thời và đạt hiệu quả cao nhất.
III. Kiến nghị
1. Về phía doanh nghiệp
Như phần trên đã nêu, nâng cao chất lượng sản phẩm là một trong những yếu tố quyết định nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty . Và cũng đã đưa ra một số biện pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty (5 biện pháp). Nhưng đó mới chỉ là những biện pháp mang tính chất cục bộ, chưa có tính hệ thống hay nói cách khác những biện pháp đó mới chỉ là “điều kiện cần”, phải tìm ra “điều kiện đủ” thì mới toàn diện. Vậy “điều kiện đủ” đó là gì? Giải pháp nào là giải pháp quan trọng nhất, khoa học nhất, khái quát nhất, có tính hệ thống và thực tiễn nhất để nâng cao chất lượng thuốc của xí nghiệp?
Theo em, giải pháp đó là đào tạo và giáo dục về chất lượng, quản lý chất lượng toàn diện (TQM) và từng bước áp dụng nó trong công ty ... (Total Quality Management = TQM = Quản lý chất lượng toàn diện = Quản lý chất lượng đồng bộ = Quản lý chất lượng tổng hợp).
Như tiến sĩ Kaoru Iskikawa-một chuyên gia hàng đầu của Nhật Bản về quản lý chất lượng: “Quản lý chất lượng bắt đầu bằng đào tạo và kết thúc cũng bằng đào tạo”. Do vậy, muốn nâng cao chất lượng thuốc của công ty phải giáo dục, đào tạo những tri thức cơ bản nhất, chung nhất về chất lượng và quản lý chất lượng cho mọi bộ phận (không riêng gì bộ phận sản xuất mà là tất cả các bộ phận trong công ty), mọi cán bộ công nhân viên trong công ty. Phải thiết lập một hệ thống đào tạo cũng như tạo ra phương thức hoạt động sao cho chương trình đào tạo về chất lượng và quản lý chất lượng phù hợp và gắn liền với việc nâng cao trình độ cho cả các nhân viên mới và cả các cấp lãnh đạo và thực sự thúc đẩy công việc của từng người ngay tại cương vị công tác của họ và tại mọi khâu hoạt động.
Phải tạo lập ý thức về chất lượng để mỗi người, mỗi bộ phận có thể biết hành động từ cái đơn giản nhất, cái có thể làm được, phát huy được tất cả mọi công cụ và khả năng hiện có để từng bước nâng cao chất lượng thuốc của công ty. Không chờ đến lúc công ty được Nhà nước đầu tư lớn, công ty đạt tiêu chuẩn GMP (Thực hành tốt sản xuất thuốc) mới nâng cao chất lượng. Do vậy, trong việc nghiên cứu thiết kế công thức chế phẩm phải tính đến đảm bảo sinh khả dụng và độ ổn định của thuốc. Và điều này là có thể làm được trong điều kiện hiện nay của công ty .
Trong công ty cần tổ chức sắp xếp lại các bộ phận, phòng ban trong hệ thống đảm bảo chất lượng sao cho: Có một hệ thống tổ chức với cơ cấu hợp lý: Đủ số lượng cán bộ với chất lượng cần thiết. Nhiệm vụ của từng bộ phận, mối quan hệ, qui trình làm việc phải rõ ràng, hợp lý và được qui định bằng văn bản. Các bộ phận cấu thành phải giám sát lẫn nhau, trong đó phòng đảm bảo chất lượng điều hoà và giám sát được mọi hoạt động đảm bảo chất lượng của công ty .
Thiết lập một hệ thống đảm bảo chất lượng trên cơ sở khoa học và thực tiễn không tốn tiền đầu tư, có thể tạo ra hiệu quả lớn. Bởi vì tổ chức chính là sức mạnh. Và điều này công ty hoàn toàn có thể làm được.
Có thể nói các doanh nghiệp sản xuất thuốc của Việt Nam nói chung và công ty cổ phần dược Phú Thọ nói riêng muốn nâng cao chất lượng sản phẩm của mình ngang tầm khu vực và thế giới cũng chưa có con đường nào hay hơn là Nghiên cứu và triển khai áp dụng quản lý chất lượng đồng bộ để đẩy doanh nghiệp lên và khi đạt GMP (Thực hành tốt sản xuất thuốc) hoặc ISO 9000 sẽ xin chứng nhận.
Quan điểm này cũng phù hợp với quan điểm của giáo sư Masao Nagao-chuyên gia tư vấn Nhật Bản: “Tôi tin rằng các nhà sản xuất có thể sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt nếu họ tuân thủ Quản lý chất lượng đồng bộ hoặc ISO 9000, hoặc tuân thủ cả hai. Iso 9000 cho chúng ta biết: Cần phải làm gì để đảm bảo chất lượng. Trong khi đó, Quản lý chất lượng đồng bộ hướng dẫn chúng ta cần phải làm gì và làm thế nào đối với các yếu tố chất lượng, giá thành, cung ứng và an toàn. Như chúng ta đã biết, không phải dễ dàng gì để được chứng nhận phù hợp ISO 9000. Bởi vì muốn được như vậy thì ít nhất phải có hệ thống chất lượng đáp ứng các yêu cầu của ISO 9000. Trong khi đó, các công ty có thể thực hiện một số hoạt động Quản lý chất lượng đồng bộ nếu họ muốn, bất chấp họ đang ở mức độ quản lý chất lượng đồng bộ nào” (Trích trong Quản lý chất lượng toàn diện của Phạm Bá Cửu và Nguyễn Văn Chiên, NXB thành phố HCM năm2000). Em cho rằng tiến tới và cần phải áp dụng Quản lý chất lượng đồng bộ là bước phát triển tất yếu của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và công ty nói riêng trong nền kinh tế thị trường.
2. Về phía Nhà nước
Nhà nước cần có những giải pháp kịp thời và đồng bộ để tạo lập môi trường hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp. Bởi vì thị trường dược ở Việt Nam hiện nay còn tồn tại quá nhiều bất cập như:
Thuốc giả, thuốc nhập lậu, thuốc quá hạn, thuốc kém chất lượng vẫn được bày bán trên thị trường đã gây ra những thiệt hại to lớn về tài chính cũng như uy tín của những đơn vị sản xuất thuốc chân chính.
Thị trường thuốc phát sinh những cạnh tranh gay gắt, quyết liệt, không cân sức và đôi khi không lành mạnh giữa thuốc nhập khẩu và thuốc sản xuất trong nước, giữa thuốc của công ty nước ngoài, giữa các doanh nghiệp sản xuất trong nước với nhau.
Tình trạng nhái mẫu mã tên thuốc còn phổ biến: thuốc trong nước nhái mẫu mã thuốc nước ngoài, thuốc nước ngoài nhái mẫu mã thuốc nước ta, thuốc trong nước nhái mẫu mã của nhau. Một số công ty, công ty trong nước lưu hành thuốc trên thị trường không đúng với mẫu mã, nhãn hiệu đã trình bày trong hồ sơ xin phép tại Bộ Y tế. Trên hộp thuốc không in tiếng Việt, chỉ ghi bằng tiếng nước ngoài... thậm chí lưu hành cả những thuốc chưa được cấp số đăng ký trên thị trường.
Nhiều đơn vị cùng nhập khẩu, sản xuất một mặt hàng dẫn đến có tình trạng cạnh tranh không lành mạnh về giá cả.
ở một nước phải nhập khẩu hầu hết nguyên liệu làm thuốc như ở nước ta hiện nay thì tình trạng bị động, phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nước ngoài là điều khó tránh khỏi. Các doanh nghiệp dược nói chung, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất thiếu vốn lưu động, thiếu vốn đầu tư để mở rộng khả năng kinh doanh của đơn vị mình...
Trên đây, mới chỉ là một số tồn tại đã gây ra không ít khó khăn, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp dược nói chung và công ty
Để khắc phục những tồn tại này, theo em Nhà nước cần thực hiện đồng bộ những giải pháp sau:
Nhanh chóng hoàn thiện hệ thống luật, qui chế quản lý dược: trình Quốc hội thông qua để ban hành Luật Dược, trên cơ sở đó rà soát lại toàn bộ hệ thống qui chế, các thường qui kỹ thuật và hệ thống tiêu chuẩn về dược.
Tổ chức lại và tăng cường hệ thống kiểm tra Nhà nước về chất lượng thuốc. Trao quyền xử lý cho cơ quan trực tiếp kiểm tra chất lượng thuốc trên thị trường để gắn trách nhiệm với quyền lực trong việc quản lý thị trường, tạo hiệu quả trong việc răn đe các đối tượng có ý định làm ăn phi pháp.
Xử lý nghiêm khắc các trường hợp nhập lậu, làm thuốc giả, thuốc nhái mẫu mã nhãn hiệu.
Đa dạng hoá các thành phần kinh tế, đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá nhằm huy động nguồn vốn trong nước thông qua việc bán cổ phần, bán khoán hoặc cho thuê doanh nghiệp. Khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao năng lực nghiên cứu để tạo ra sản phẩm mới. Khuyến khích sử dụng thuốc trong nước có chất lượng tốt, ưu tiên mua thuốc sản xuất trong nước đạt tiêu chuẩn GMP cho chăm sóc sức khỏe ban đầu và cho nhu cầu bệnh viện từ nguồn ngân sách nhà nước, coi đây là biện pháp hỗ trợ sản xuất thuốc nội địa.
Chú trọng đầu tư phát triển các vùng dược liệu, các vùng nuôi trồng cây, con làm thuốc để tạo ra nguồn nguyên liệu trong nước dồi dào và có chất lượng cao phục vụ cho các đơn vị sản xuất, nhằm khắc phục tình trạng bị động vào nguồn nguyên liệu của nước ngoài và tiết kiệm ngoại tệ cho Nhà nước.
Đưa công tác chỉ đạo và vận động sử dụng thuốc hợp lý, an toàn, hiệu quả thành công tác trọng tâm và thường xuyên của ngành Y tế. Đẩy mạnh công tác truyền thông đại chúng về thuốc. Kiểm soát chặt chẽ hoạt động quảng cáo và xúc tiến thương mại về thuốc.
Hiện đại hóa hệ thống đảm bảo chất lượng thuốc. Nâng cao năng lực các phòng kiểm nghiệm thuốc để có thể kiểm nghiệm đa số dược phẩm lưu thông trên thị trường.
Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra và tăng cường công tác hậu kiểm trong hoạt động kinh doanh, đẩy mạnh công tác tự kiểm tra của các cơ sở.
Xây dựng chính sách ưu tiên cho các doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, đổi mới công nghệ, doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xuất khẩu như: cho vay vốn dài hạn, lãi suất ưu đãi, miễn giảm thuế trong thời gian đầu...
Nhà nước nên tạo điều kiện hỗ trợ cho vay vốn ưu đãi để dần dần nâng cấp cải tạo, xây dựng mới cơ sở vật chất của doanh nghiệp.
Tăng cường hệ thống tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn để đầu tư cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thuận lợi trong thanh toán thương mại.
Việc qui hoạch lại mạng lưới cung ứng phân phối thuốc tạo ra các kênh phân phối gắn với việc tổ chức sắp xếp các doanh nghiệp trong phạm vi cả nước để dần dần xoá bỏ sự chồng chéo, lập lại trật tự kinh doanh trong cung ứng thuốc là việc làm cần thiết, phải có sự chỉ đạo thống nhất từ trung ương tới địa phương.
Kết luận
Trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt, vấn đề bức xúc và trở nên cấp thiết đối với các doanh nghiệp là làm thế nào để tiêu thụ được sản phẩm của đơn vị mình. Bởi vì chỉ khi sản phẩm được tiêu thụ, doanh nghiệp mới thu hồi được vốn để thực hiện quá trình sản xuất, tái sản xuất mở rộng và thực hiện các mục tiêu của mình. Nói cách khác, tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh nhưng lại là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Trong thời gian qua, công ty đã không ngừng lớn mạnh và khẳng định vị trí của mình trên thị trường dược Việt Nam. Sản phẩm của công ty được người tiêu dùng tín nhiệm, kết quả sản xuất kinh doanh tương đối tốt, doanh thu năm sau cao hơn năm trước, đời sống của cán bộ công nhân viên ngày càng được cải thiện. Có được kết quả như vậy một phần là do công ty đã biết tổ chức tốt hoạt động tiêu thụ. Tuy nhiên, công ty cũng phải đối đầu với nhiều khó khăn trong giai đoạn mới: Thứ nhất, môi trường kinh doanh đã thay đổi, cung lớn hơn cầu. Thứ hai, yêu cầu của khách hàng ngày càng đòi hỏi cao hơn. Thứ ba, sự cạnh tranh diễn ra không chỉ trong mỗi nước, cạnh tranh đã mang tính toàn cầu.
“Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty cổ phần dược Phú Thọ” là kết quả của quá trình nghiên cứu của em trong thời gian thực tập tại công ty kết hợp với những kiến thức đã tích luỹ được tại nhà trường. Em hy vọng rằng với những biện pháp và kiến nghị đưa ra trong luận văn này sẽ góp phần giúp cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty ngày càng hoàn thiện hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty cổ phần dược Phú Thọ.doc