Nghiên cứu về nâng cao năng lực cạnh tranh của các Doanh nghiệp may mặc Việt Nam

Mục lục Trang Lời mở đầu . 1 NỘI DUNG2 Phần 1: Những vấn đề chung về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp may mặc2 1. Quan niệm về năng lực cạnh tranh 2 2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp may mặc 2 Phần II: Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp may mặc Việt Nam 3 1. Những khó khăn các doanh nghiệp may mặc VN gặp phải trước khi VN gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO 3 2. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, những cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp may mặc4 3. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp may mặc VN . 6 3.1. Năng lực cạnh tranh xét bởi các yếu tố chỉ tiêu có thể nhận biết . 6 3.2. Năng lực cạnh tranh tiếp cận qua các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh 15 Phần III:Phương hướng và các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của may mặc Việt Nam 24 1. Về phía nhà nước và địa phương . 24 2.Về phía các doanh nghiệp may mặc 29 KẾT LUẬN35 TÀI LIỆU THAM KHẢO . 37

doc38 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3063 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu về nâng cao năng lực cạnh tranh của các Doanh nghiệp may mặc Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
may mặc ASEAN theo hiệp định EPA là quy tắc xuất sứ cộng gộp ASEAN-Nhật Bản ,bằng cách dùng nguyên liệu vải nhập khẩu từ các nước ASEAN hoặc Nhật Bản để sản xuất.Ngành may mặc Việt Nam tuy kim ngạch xuất khẩu cao nhưng hầu hết nguyên phụ liệu vẫn phải nhập khẩu với tỷ lệ rất lớn có lúc gần 80%nguyên phụ liệu phải nhập khẩu , mà chủ yếu từ các nước ngoài ASEAN . Để thực hiên tốt yêu cầu này từ phía Nhật Bản các doanh nghiệp sẽ phải gặp nhiều khó khăn trong việc chủ động nguồn nguyên phụ liệu. Nhưng nếu cuộc đàm phán thành công thì hàng may mặc Việt Nam sẽ có thể cạnh tranh với hàng hóa không chỉ từ các nước ASEAN khác mà còn từ Trung Quốc về giá cả ( do hàng Trung Quốc không được giảm thuế ) .Điều nàu cũng góp phần làm tăng tính cạnh tranh của toàn cầu của ngành dệt may Việt Nam .Cuộc đàm phán dự kiến sẽ kết thúc vào cuối năm 2008 . Việc bỏ quota vào thị trường Mỹ là một thuận lợi nhưng thị trường Mỹ từ lâu đã được chia phần. Nếu tính theo sản lượng xuất khẩu vào thị trường Mỹ năm 2005 thì TQ chiếm 26% thị phần, Ấn Độ 5%, Pakistan 4,5%, VN chỉ chiếm 1,7% thị phần Thị trường trong nước Các doanh nghiệp may mặc Việt Nam quá chú trọng đến thị trường xuất khẩu mà đã bỏ qua thị trường nội địa mặc dù nhu cầu của thị trường này cũng ngày càng tăng theo sự tăng trưởng kinh tế. Theo Hiệp hội Dệt may VN (Vitas), mỗi năm, thị trường dệt may nội địa chỉ tăng trưởng 15%, trong khi ngoài hơn 80 triệu dân, VN còn có hơn 4 triệu khách du lịch mỗi năm, nên các DN may mặc cần quan tâm đến thị trường này. Sống tốt tại thị trường nội địa không phải là điều dễ dàng, hàng nội vẫn chịu phần thua thiệt khi cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu. 2 dòng sản phẩm ngoại đang "thịnh" trên thị trường nội địa là hàng thời trang nữ của Trung Quốc và hàng thời trang cao cấp của một số nước xung quanh. Trong mảng thời trang nam, trẻ em, đồng phục... các doanh nghiệp VN dần khẳng định vị thế. "Cái yếu của các doanh nghiệp VN là hàng thời trang cho phái nữ chưa cạnh tranh được với hàng ngoại. Cần tập trung hơn đến khâu thiết kế mẫu mã sản phẩm", ông Ân nói thêm “Vấn đề cạnh tranh với các sản phẩm thời trang ngoại nhập cao cấp thực tế không đáng lo, thậm chí chúng ta nên khuyến khích họ vào. Cái đáng lo của DN trong nước hiện nay là đối phó với hàng lậu từ Trung Quốc và hàng nhái”- Chủ tịch Vitas, ông Lê Quốc Ân khẳng định. Theo ông Ân, hiện tượng này đã tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh, gây khó khăn cho các DN trong nước khi phát triển thị trường trong thời gian qua. Tuy nhiên, đó chỉ là nguyên nhân khách quan, còn lý do chủ quan vẫn là do các DN chưa thật sự quan tâm đến sân nhà nên số DN gặt hái thành công chỉ đếm trên đầu ngón tay. dự báo năm 2008, dòng vốn đầu tư của nước ngoài vào ngành dệt may sẽ tăng mạnh, tạo cơ hội để các DN dệt may cạnh tranh, nhưng cũng có nhiều thách thức. Phải tìm cách để giành lại sân chơi của thị trường khá béo bở này, nên các DN đều có chiến lược riêng. “Giá cả không phải là số một khi đặt lên bàn cạnh tranh, quan trọng nhất là chất lượng sản phẩm thông qua việc đầu tư cho khâu thiết kế mẫu mã, đầu tư máy móc, trang thiết bị chuyên nghiệp và quảng bá thương hiệu” - ông Phan Văn Kiệt, Giám đốc Điều hành Công ty May Việt Tiến - nói. Năm 2007, Việt Tiến đứng đầu về doanh thu nội địa, chiếm 25% tổng doanh thu, tốc độ tăng trưởng tăng 30%-40% so với năm 2006. Để tiếp tục khai thác sân nhà, Việt Tiến đã đầu tư 40 nhà thiết kế mới để chuẩn bị cho ra mắt hai nhãn hiệu thời trang cao cấp ngay trong đầu năm 2008 này theo phân khúc thị trường rõ rệt, đó là Fan-Fciar và Manhattan. Fan-Fciar sẽ theo dòng sản phẩm thời trang công sở nam, còn Manhattan tung ra sản phẩm công sở cho giới trẻ. Phải vận động, cải tiến, nhưng điều quan trọng nhất, theo ông Lê Quốc Ân thì DN phải tổ chức lại thị trường nội địa một cách chính quy hơn, phải phân khúc thị trường theo từng đẳng cấp khác nhau, đặc biệt là phải có chiến lược marketing phù hợp.  Về năng suất lao động Giới phân tích khẳng định, giá lao động Việt Nam rẻ nhất khu vực châu Á, từ 0,16-0,35 USD/giờ (Indonesia là 0,32 USD/giờ, Trung Quốc 0,70 USD/giờ, Ấn Độ 0,58 USD/giờ...). Tuy nhiên, năng suất lao động của ngành dệt may Việt Nam nói chung chỉ bằng 2/3 mức bình quân các nước ASEAN, chi phí nguyên phụ liệu (phần lớn phải nhập khẩu) và khâu trung gian cao làm sản phẩm thiếu tính cạnh tranh. Năng suất lao động của Việt Nam so với các nước ASEAN thấp hơn 2 - 15 lần, mức tiêu hao năng lượng và nguyên liệu trên một đơn vị sản phẩm cao hơn 1,2 - 1,5 lần. Tỷ lệ giá trị gia tăng trong giá trị sản xuất công nghiệp giảm từ 42,5% (năm 1995) xuống 39,05% (năm 2000) chứng tỏ ngành Công nghiệp phát triển mạnh theo hướng gia công, lắp ráp. Nhóm sản phẩm công nghiệp có khả năng cạnh tranh cao như hàng dệt may thường chủ yếu cạnh tranh ở giá bán thấp hơn sản phẩm nhập khẩu do có ưu thế về tài nguyên tự nhiên và nhân lực, lại có mức bảo hộ cao ở thị trường nội địa. Năng suất lao động ngành may mặc chưa cao nhân công thiếu là những vấn đề đang làm đau đầu các doanh nghiệp và các nhà quản lý. Lợi nhuận Tuy kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc vẫn tăng cao hàng năm nhưng lợi nhuận thu được không cao, nhiều giai đoạn còn gặp tình trạnh tăng trưởng âm. Nguyên nhân của tình trạng này là do chi phí để sản xuất sản phẩm may mặc còn cao, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu chỉ làm gia công. Công nghiệp phụ trợ của ngành may mặc Việt Nam còn quá yếu giá thành sản phẩm của Việt Nam bao giờ cũng bị đội lên cao do từng cái kim, cái chỉ đều phải nhập từ nước ngoài .Ngành may mặc hiện phải nhập khẩu hầu hết nguyên phụ liệu cho sản xuất máy móc thiết bị nhập gần 100%, vải 70%, sợi trên 50%, phụ liệu may khoảng 50%. Có thể thấy được thiệt thòi của ngành may qua trường hợp khách hàng nước ngoài đặt hàng, DN may tự lo nguyên phụ liệu và giao hàng tại cảng VN. Đơn giá may một áo sơmi theo trường hợp này trung bình khoảng 4 USD/áo. Trong 4 USD này, số tiền DN được hưởng khoảng 1,4 USD, gồm tiền công may, chi phí quản lý, giá quota và một số rất ít nguyên phụ liệu trong nước sản xuất được. Còn 2,6 USD thuộc về các nhà cung cấp vải và nguyên phụ liệu, hầu hết là của nước ngoài, do phía mua hàng nước ngoài chỉ định các DN trong nước phải mua. Theo ông Nguyễn Đình Trường, Tổng giám đốc Công ty May Việt Tiến, chi phí cho một đơn vị sản phẩm đều cao hơn từ 15-20% mặt hàng tương tự của Trung Quốc, Bangladesh, Pakistan Ngoài ra một số chi phí khác ở Việt Nam cũng còn cao hơn rất nhiều so với khu vực. Đối với chi phí điện, tiền điện hiện nay của Việt Nam là 7 cents/KWh, cao hơn phí điện năng của Trung Quốc (4,8 - 6). Chi phí cơ sở hạ tầng cũng ở mức cao, Trung Quốc là 10-12 USD/m2/50 năm, thấp hơn nhiều so với mức chi phí hiện tại của Việt Nam là 20-60 USD/m2/50 năm. Riêng các dự án in nhuộm và hoàn tất, vấn đề cung cấp nước sạch và xử lý nước thải có ý nghĩa quyết định. Giá nước sạch tại Việt Nam hiện nay là 25-30 cents/m3, trong khi giá của Trung Quốc là 13 cents. Do vậy nên để có thể thu được lợi nhuận cao thì phải chú trọng hơn nữa vào khâu nguyên phụ liệu. Chỉ có chủ động được nguyên phụ liệu thì doanh nghiệp mới có khả năng cạnh tranh tốt với hàng hóa may mặc xuất khẩu của các nước xuất khẩu khác và mới có thể thu được lợi nhuận cao. Vốn Số vốn cần cho đầu tư của tập đoàn từ nay đến 2010 và 2015 là rất lớn. Đặc biệt là nguồn vốn đầu tư các dự án nguyên phụ liệu. Nếu chỉ sử dụng nguồn vốn của các đơn vị thành viên thì chắc chắn không đáp ứng đủ. Vì thế, Vinatex phải kêu gọi các nguồn vốn đầu tư của nước ngoài và vốn nhàn rỗi của các thành phần kinh tế cùng tham gia. Ngành dệt may đang kêu gọi sự đầu tư của tư nhân cho chương trình tăng tốc, đầu tư trang thiết bị, công nghệ... để ngành dệt may trong nước theo kịp với các nước xuất khẩu dệt may khác. Trong những năm qua, Vinatex đã tập trung đầu tư mở rộng và đầu tư chiều sâu để hiện đại hóa sản xuất. Từ năm 2001 đến nay đã được thực hiện đầu tư với số vốn gần 9.000 tỷ đồng tương đương 560 triệu USD, trong đó vay vốn từ Quỹ đầu tư phát triển của Nhà nước chiếm 28,5%, vốn vay thương mại chiếm 53,8%, vay nước ngoài 5,7%. Các dự án đầu tư lớn gồm các cụm công nghiệp sợi – dệt – nhuộm Hòa Khánh - Đà Nẵng; cụm công nghiệp phố Nối B Hưng Yên, cụm công nghiệp Hòa Khánh, cụm công nghiệp Nhơn Trạch-  Đồng Nai, cụm công nghiệp Bình An – Bình Dương. Đặc biệt, trong thời gian gần đây, Vinatex đã đầu tư nhiều dây chuyền sản xuất công nghệ cao như dây chuyền sợi chất lượng cao để làm chỉ may của dệt Phong Phú, vải Denim của Dệt may Hà Nội, áo Veston cao cấp xuất khẩu của May Nhà Bè, May Việt Tiến, May 10… Tuy đã có bước phát triển nhanh nhưng ngành dệt may nói chung, Vinatex nói riêng phát triển vẫn được đánh giá là chưa tương xứng với tiềm năng, năng lực sản xuất vẫn còn nhỏ bé so với các nước trong khu vực. Chính vì vậy, với 11 dự án đang kêu gọi vốn đầu tư từ các tổ chức kinh tế, nhà đầu tư nước ngoài trên là bước đi tiếp tục của Vinatex trong chiến lược phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh. Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam, trong những năm qua đã có 534 dự án có vốn đầu tư nước ngoài từ 28 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào ngành dệt may Việt Nam với tổng vốn đăng kí là 3,215 tỷ USD. Bảng thống kê cho thấy, Đài Loan đầu tư nhiều nhất về giá trị vào ngành dệt may Việt Nam là 1,690 tỷ USD vốn đăng ký, với 156 dự án. Trong đó, có 45 dự án đầu tư vào ngành dệt, 93 dự án đầu tư vào ngành may, còn lại đầu tư vào ngành phụ liệu. Tiếp đến là Hàn Quốc, mặc dù tính về số dự án là 177 dự án, nhiều hơn Đài Loan, nhưng tính về tổng vốn đăng ký lại đứng sau Đài Loan với 1,003 tỷ USD. Trong đó, đầu tư vào ngành dệt là 40 dự án, ngành may là 122 dự án, còn lại là đầu tư vào ngành phụ liệu. Ở mức độ vốn đăng ký lên trên 100 triệu USD có Hongkong và Nhật Bản, còn lại là dưới mức 100 triệu USD, trong đó Đức và Thái Lan có tổng vốn đăng ký ít nhất với 9 triệu USD. Bảng thống kê cũng cho thấy, số dự án của các nước đầu tư vào Việt Nam chủ yếu là ngành may, sau đó là ngành dệt, cuối cùng là phụ liệu. Điều này cũng dễ hiểu bởi Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm may mặc, nên các nước tập trung đầu tư vào ngành này. Còn ngành phụ liệu, xu hướng ở Việt Nam chủ yếu là nhập khẩu nguyên vật liệu cho ngành dệt may (trên 80%) nên các nhà đầu tư chưa tập trung mạnh vào lĩnh vực này vì lợi nhuận không cao bằng ngành may Trong đó các nhà đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong chương trình tăng tốc này vì theo giải thích của ông Ân, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp đến 40% giá trị kim ngạch xuất khẩu khẩu của ngành dệt may Việt Nam. doanh nghiệp nhà nước có vốn tự có từ 25-30%, vốn ngân sách cấp 13-15%, vốn vay khoảng 60% nhưng với chính sách ưu đãi của nhà nước nên khả năng vay vốn khá thuận lợi, do vậy có điều kiện để trang bị thêm cơ sở vật chất cải tiến trang thiết bị công nghệ và tiếp cận thị trường xuất khẩu. Còn doanh nghiệp tư nhân hoạt động chủ yếu dựa vào vốn tự có nên nguồn vốn nhỏ, khâu vay vốn còn gặp nhiều khó khăn về thế chấp, thời hạn vay... nên đã hạn chế rất nhiều khả năng đầu tư phát triển sản xuất Năng lực cạnh tranh được xem xét dưới góc độ các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh Về chất lượng sản phẩm Mặc dù kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam mỗi năm đạt gần 6 tỷ USD nhưng lợi nhuận trong đó rất ít, chủ yếu từ gia công. Nguyên nhân chủ yếu là nguyên liệu đầu vào, mẫu mã thiết kế và cả thị trường phân phối đều do nước ngoàiquyếtđịnh.Có thể thấy lâu nay, ngành dệt may đang "đi trên đôi chân của người khác". Bởi lẽ, 95% nhu cầu xơ bông, 70% nhu cầu sợi tổng hợp, 40% nhu cầu sợi xơ ngắn, 40% nhu cầu vài dệt kim và 60% nhu cầu vải dệt thoi cho cả một ngành công nghiệp hoàn toàn phải nhập khẩu từ nước ngoài.Cơ cấu mặt hàng đơn giản kiểu cách mẫu mã, bao bì đơn điệu, chưa đáp ứng được sự thay đổi nhu cầu thường xuyên của thị trường quốc tế. Là những doanh nghiệp được tổ chức ở quy mô vừa và nhỏ, vốn ít, trình độ tay nghề của công nhân chưa cao nên chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm còn hạn chế. Số doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu trực tiếp không nhiều, phần lớn là xuất khẩu ủy thác hoặc gia công sản phẩm cho các tỉnh bạn nên thường không chủ động về thị trường và giá cả.Một số hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, của các cá nhân, tổ chức nhập hàng không rõ nguồn gốc, dán mác xuất xứ Việt Nam để xuất khẩu vào thị trường Mỹ, làm mất uy tín hàng dệt - may Việt Nam .Các doanh nghiệp may mặc Việt Nam cần nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm hướng tới phục vụ nhóm khách hàng trung cấp và cao cấp. Chất lượng sản phẩm ở đây không còn theo nghĩa đơn thuần là độ bền sản phẩm mà cần hiểu theo hướng có tính thẩm mỹ cao, đảm bảo sức khoẻ cho người tiêu dùng không bị tác động của chất tẩy, nhuộm độc hại có trong sản phẩm may mặc hoặc không gây ô nhiễm môi trường sinh thái khi sản xuất và tiêu dùng. Đây là quan niệm mới về chất lượng sản phẩm giúp cho hàng may mặc Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu. Giá bán Sự cạnh tranh không ngừng của các nước xuất khẩu may mặc khác đã làm cho giá bán trung bình của hàng hóa may mặc Việt Nam phải giảm xuống rất nhiều cho dù chi phí cho sản xuất không hề giảm mà còn tăng lên không ngừng do nhiều nguyên nhân.. Ta có thể thấy cụ thể giá bán trung bình của hàng may mặc Việt Nam qua các năm theo bảng thống kê sau: Năm 95-99 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Giá trung bình (USD/1spdm) 2,25-2,4 2,14 1,89 1,83 1,77 1,75 1,79 Chỉ trong vòng vài năm mà giá cả trung bình của các sản phẩm may mặc giảm gần một nửa trong khi chi phí cho sản xuất ngày càng tăng cao. Việc leo thang của giá xăng dầu cùng với sự tăng giá vùn vụt của các mặt hàng tiêu dùng .Tiền lương của công nhân thì vẫn phải tăng lên để có thể giữ các lao động lành nghề lại doanh nghiệp vì hiện nay xu hướng bỏ việc ở ngành này để chuyển sang các ngành khác là rất lớn. Tuy vậy theo Bộ Thương mại, hiện hầu hết các chủng loại hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu đều có giá cao hơn 5 - 7%, thậm chí 10% so với các đối thủ Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh. Vì vậy may mặc Việt Nam cần phải xây dụng chiến lược theo định hướng thị trường tầm trung không phải hàng cao cấp vì không thể cạnh tranh được với các nhãn hiệu có tiếng trên thế giới cũng không phải sản xuất hàng thấp cấp vì sẽ không cạnh tranh được về giá với các doanh nghiệp Trung Quốc . Hệ thống phân phối Một thực trạng hiện nay là các DN Việt Nam phụ thuộc khá lớn vào hệ thống phân phối của các tập đoàn kinh doanh nước ngoài. Điều đó đồng nghĩa với việc bị chi phối về sản xuất. Phân phối chính là sức cạnh tranh, ai nắm được hệ thống phân phối thì sẽ chi phối hoạt động sản xuất Hiện nay, mỗi doanh nghiệp dệt may nước ta vẫn chưa có một bộ máy bán lẻ chuyên nghiệp, cả ngành cũng chưa có một hệ thống chuyên phân phối, bán lẻ hàng dệt may. Đây là điểm yếu nhất. Mỗi một công ty lại kéo theo hàng chục chi nhánh, mỗi chi nhánh lại mở ra hàng mấy chục cửa hàng bán lẻ. Điều này không hoàn toàn có lợi cho doanh nghiệp bởi nó sẽ là yếu tố hạn chế sự tập trung tối đa của doanh nghiệp vào chuyên môn sản xuất . Nếu tập đoàn dệt may Việt Nam thiết lập được một hệ thống chuyên bán lẻ chịu trách nhiệm phân phối hàng dệt may sẽ giải quyết được gánh nặng lớn cho các thành viên. Khi đó, các doanh nghiệp sẽ không phải tự tổ chức bán lẻ nữa mà sẽ chuyển thẳng sản phẩm sang cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn. Hệ thống cửa hàng bán lẻ của doanh nghiệp sẽ được tinh giản, doanh nghiệp sẽ tập trung tối đa cho khâu sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Vấn đề là công tác tổ chức của công ty chuyên bán lẻ đó, cần quy tụ được những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực này bởi việc phân phối thành hay bại sẽ ảnh hưởng đến tương lai của một sản phẩm cũng như của mỗi doanh nghiệp Đẩy mạnh phát triển hệ thống phân phối là chiến lược của Tập đoàn Dệt may VN trong năm 2008 Tập đoàn dệt may Việt Nam (Vinatex) sẽ xây dựng thêm 90 siêu thị và cửa hàng thời trang tự chọn trên cả nước từ nay đến năm 2010 - bà Nguyễn Thị Hồng Hương - Giám đốc Công ty kinh doanh hàng thời trang (Vinatex) đã cho biết như vậy tại buổi gặp mặt báo chí ngày 9/1.  Siêu thị mới nhất của Vinatex sẽ khai trương vào ngày 15/1 tại số 1/2 Lãnh Binh Thăng, Q.11, TP.HCM trên diện tích 2.500m2. Trong 3 năm qua, Vinatex đã tập trung nguồn lực để củng cố và mở rộng hệ thống phân phối của tập đoàn trên cả nước nhằm giành lại thị phần nội địa. Đến nay, Vinatex đã xây dựng được 11 siêu thị và 17 cửa hàng tự chọn. Ngoài thế mạnh là kinh doanh hàng dệt may từ những công ty thành viên lớn như Việt Tiến, Việt Thắng, Phương Đông..., các siêu thị của Vinatex còn kinh doanh các mặt hàng giày dép, túi xách, đồ dùng sử dụng từ nguồn nguyên liệu dệt may. Công nghệ Trong điều kiện cạnh tranh, công nghệ là biến số chiến lược quyết định sự phát triển KT-XH. Thực trạng công nghệ của nước ta lạc hậu, hệ số sử dụng thiết bị còn thấp mới đạt khoảng 70% nên có thể thấy bất cập là: Với DN, không đầu tư công nghệ tiên tiến, dùng nhân công rẻ thì lợi nhuận, doanh thu, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao. Tuy nhiên, hệ luỵ xấu là để tăng được 10% doanh thu thì DN phải tuyển công nhân tăng với tốc độ 10%. Sau vài năm tăng trưởng, DN lấy đâu ra người để tuyển. Khủng hoảng thiếu nhân lực có tay nghề hiện là vấn đề lớn của nhiều doanh nghiệp . Hơn thế nữa, nếu phải tuyển nhiều công nhân, phí tổn cho công nghệ lạc hậu cao, chi phí cao khiến DN hết lợi thế cạnh tranh sẽ buộc phải phá sản; Với Chính phủ, trước kia thu hút đầu tư bằng cách xây dựng nhiều KCN. DN có nhiều vốn, tạo nhiều việc làm là được cấp đất. Nếu thừa đất không sao, nhưng đáng tiếc là nhiều nơi đã hết đất (Đồng Nai, Bình Dương…). Do đó, nếu không lựa chọn DN có công nghệ cao khi cấp phép thì rất nhiều khó khăn sẽ xảy ra: khi DN có công nghệ thấp bị phá sản thì KCN sẽ bị trống, công nhân thất nghiệp, cạnh tranh vĩ mô giảm… Áp lực cạnh tranh trên thị trường vẫn chưa tác động đáng kể đến hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Đó là kết quả cuộc khảo sát về đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp Việt Nam do Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) và Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) phối hợp thực hiện. Mục tiêu của khảo sát này là đánh giá các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp của Nhà nước trong lĩnh vực phát triển khoa học, công nghệ, tìm ra các "lỗ hổng" về chính sách trong lĩnh vực này để điều chỉnh kịp thời, giúp các doanh nghiệp công nghiệp tăng cường khả năng đổi mới công nghệ. Kết quả khảo sát 100 doanh nghiệp (35 doanh nghiệp ngành hóa chất và 65 doanh nghiệp ngành dệt may) tại Tp.HCM và Hà Nội cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp đang sử dụng dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị đồng bộ thuộc thế hệ từ những năm 80 của thế kỷ 20. 69% doanh nghiệp phụ thuộc vào nguyên vật liệu; 53% doanh nghiệp phụ thuộc vào thiết bị, công nghệ nhập khẩu của nước ngoài và chỉ có 19% doanh nghiệp lệ thuộc vào bí quyết công nghệ. Điều này cho thấy, tốc độ triển khai công nghệ mới trong các doanh nghiệp khá chậm. Mức độ đầu tư cho đổi mới công nghệ của doanh nghiệp chỉ đạt khoảng 3% doanh thu/năm. Trung bình 1 doanh nghiệp đầu tư khoảng 5 tỷ đồng/năm cho đổi mới công nghệ, chủ yếu là mua thiết bị, cải tiến máy móc phần cứng… Theo khảo sát, hầu hết các doanh nghiệp tiến hành đổi mới công nghệ một cách thụ động, mang tính tình huống, do nhu cầu khách quan nảy sinh trong quá trình sản xuất mà không có kế hoạch dài hạn về đổi mới công nghệ. Phương thức đổi mới công nghệ được sử dụng nhiều nhất là nguồn công nghệ nhập khẩu từ nước ngoài. Tỷ lệ cán bộ kỹ thuật trong doanh nghiệp chỉ đạt khoảng 7%. Áp lực cạnh tranh trên thị trường vẫn chưa tác động đáng kể đến hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Đó là kết quả cuộc khảo sát về đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp Việt Nam do Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) và Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) phối hợp thực hiện. Mục tiêu của khảo sát này là đánh giá các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp của Nhà nước trong lĩnh vực phát triển khoa học, công nghệ, tìm ra các "lỗ hổng" về chính sách trong lĩnh vực này để điều chỉnh kịp thời, giúp các doanh nghiệp công nghiệp tăng cường khả năng đổi mới công nghệ. Với ngành dệt may, sự yếu kém về thông tin khiến các doanh nghiệp dệt may bị lệ thuộc về đơn hàng, nguồn nguyên liệu đến cả công nghệ. doanh nghiệp muốn đổi mới công nghệ chỉ biết tìm thông tin trên mạng mà không biết cách và không có "địa chỉ" để thẩm định xem công nghệ đó có phù hợp hay không. Theo các chuyên gia khảo sát, ngành dệt may cần hình thành Trung tâm tư vấn thông tin làm đầu mối cung cấp thông tin về thị trường khách hàng, công nghệ, giải pháp cải tiến… giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong sản xuất, tiêu thụ và điều phối thị trường Bên cạnh đó, Nhà nước cần tiếp tục ban hành các chính sách miễn, giảm thuế thu nhập đối với các viện nghiên cứu bán kết quả nghiên cứu công nghệ, hoạt động chuyển giao công nghệ và đào tạo liên quan đến công nghệ. Khuyến khích doanh nghiệp lập quỹ nghiên cứu đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm, cho phép tính chi phí nghiên cứu khoa học vào giá thành sản xuất. Đặc biệt, cần sớm cho ra đời Quỹ đầu tư mạo hiểm của Chính phủ để hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Thương hiệu Khâu thiết kế chưa thực sự được coi trọng trong ngành dệt may. Phần lớn, mẫu mã hàng ngày được sưu tầm từ catalogue nước ngoài. Đặc biệt, DN dệt may chưa có chiến lược tiếp thị với sản phẩm”. Một áo sơmi sản xuất ở Việt Nam với giá xuất khẩu khoảng 4 usd với các hiệu GAP, J.C. Penney, Target, Sears... có giá không dưới 19-20 USD/áo. Không có thương hiệu riêng, chưa tự thiết kế mẫu, không có kênh phân phối hàng riêng là những trở ngại đã được nhận diện cả chục năm qua nhưng vẫn chưa được DN ngành may khắc phục. Ngoài Công ty May Việt Tiến là đơn vị có doanh thu nội địa cao nhất, nhìn chung từ trước đến nay hạn chế của các doanh nghiệp (DN) dệt may là mạnh về xuất khẩu thì ít chú ý đến thị trường nội địa hoặc ngược lại. Vì vậy ngay từ năm 2007, một số DN đã xây dựng thương hiệu, định hình nhóm hàng chủ đạo của từng đơn vị với phương châm khẳng định thương hiệu tại thị trường nước ngoài và chính thương hiệu này phải được người tiêu dùng trong nước ưa chuộng. Mặt khác, phải xem thị trường nội địa bình đẳng như thị trường xuất khẩu tất cả đều phải là sản phẩm chất lượng cao, thương hiệu mạnh. Để triển khai chiến lược này, các DN thuộc Vinatex đã đầu tư gần 2.000 tỉ đồng để mở rộng sản xuất. Ở Việt Nam hiện nay nhắc một số thương hiệu cũng đã được định hình.Như khi nhắc đến veston, người tiêu dùng trong và ngoài nước nhớ ngay đến thương hiệu Novelty, Cavaldy của may Nhà Bè . Tương tự, một số thương hiệu đã được khẳng định tại cả hai thị trường xuất khẩu và nội địa là Mollis, Pop (Tổng Công ty Phong Phú), Three Camels, Brilliant (Dệt Việt Thắng), Lencii (Dệt Thái Tuấn), Lenviet (Công ty Len VN), Nosi, Jump, Bloom (Dệt may Hà Nội), San Sciaro, Manhattan (May Việt Tiến), Pharaon Series, MMTeen (May 10), F-house, F-Jeans (May Phương Đông)... Ngành dệt may VN tuy có những bước tiến vượt bậc nhưng thực sự vẫn chưa có nhiều nhà sản xuất VN tạo dựng được thương hiệu mạnh vươn ra ngoài thế giới.Các DN dệt may cần sử dụng hiệu quả bản sắc thương hiệu: “Thương hiệu là chiến lược dài hạn (khác quảng cáo, giới thiệu sản phẩm... là chiến lược ngắn hạn), chỉ khi nào lãnh đạo công ty hiểu được điều này thì mới đeo đuổi được việc xây dựng thương hiệu lâu dài Nguồn nhân lực. Lao động ngành dệt may hiện nay chủ yếu tự học, tự đào tạo theo phương thức kèm cặp trong các nhà máy xí nghiệp là chính. Ngành công nghiệp này có ít trường đào tạo, mỗi năm cho ra lò khoảng 2.000 công nhân. Số công nhân này chẳng thấm vào đâu so với nhu cầu tuyển dụng, hơn nữa nếu nhận về, doanh nghiệp vẫn phải đào tạo lại. Chính vì thế, các nhà máy, công ty may vẫn lựa chọn phương thức tự đào tạo tại đơn vị. Tại Công ty may Hưng Yên, hằng năm công ty này tuyển dụng hàng trăm lao động phổ thông, sau đó cho học qua trung tâm dạy nghề và bố trí thợ giỏi kèm việc trong khoảng 3 tháng. Sau thời gian này, lao động giỏi có thể tự đứng máy, thao tác chuyền như một công nhân lành nghề, lâu năm. Một số đơn vị liên doanh như Kyung Việt, VIT Garment... cũng chấp nhận tuyển dụng nông dân rồi tự đào tạo thành công nhân của mình. Làm như thế, doanh nghiệp sẽ đào tạo được theo thế mạnh của mình và tiết kiệm kinh phí đào tạo, trả lương trong thời gian học việc của công nhân. Theo ông Nguyễn Tiến Thông, Giám đốc Công ty Vinatex, hiện công ty có trên 100.000 lao động, hàng năm phải bổ sung khoảng 10.000 lao động, cũng chủ yếu theo phương thức tự đào tạo như vậy. Vì đào tạo không bài bản nên số lao động thay thế hàng năm chất lượng không cao, năng suất lao động thấp hơn nhiều so với lao động đã công tác lâu năm. Tuy nhiên, để hoàn thành các đơn hàng, bắt buộc doanh nghiệp phải liên tục tuyển dụng lao động mới, thực hiện làm 3 ca, 4 kíp để đảm bảo tiến độ giao hàng. Và vì thế, vấn đề chất lượng lao động ngành dệt may lại rơi vào vòng luẩn quẩn: đào tạo không bài bản, chất lượng lao động không cao dẫn đến năng suất thấp. Theo ước tính, ngành dệt may Việt Nam hiện có khoảng 700 doanh nghiệp lớn làm hàng xuất khẩu với tổng số lao động trong ngành hơn 2 triệu người. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu xuất khẩu đạt 5 tỉ USD, thì số lao động toàn ngành sẽ phải tăng thêm khoảng 5% và đây sẽ là thách thức lớn đối với ngành dệt may. Ngoài ra còn vấn đề công nhân nghỉ việc hàng loạt,nguồn nhân lực để thực hiện những hợp đồng lớn không bảo đảm.,tỷ lệ di chuyển của lao động trong các doanh nghiệp dệt may luôn ở mức quá cao từ 18 - 27 % (so với tổng số lao động), thậm chí có doanh nghiệp dệt may mức biến động lên đến 30-40%, tỷ lệ tuyển mới (so với tổng số lao động) trên mức 35%. Mức biến động này đang tăng lên đến mức báo động.Do đặc thù của ngành dệt may là sản xuất theo mùa nên chuyện biến động về lao động là không thể tránh khỏi. Nếu doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng mùa đông thì chắc chắn đơn hàng trong mùa hè sẽ giảm. Một doanh nghiệp có 5.000-6.000 công nhân thì hàng năm trung bình khoảng 1.000-2.000 công nhân thường xuyên ra, vào. Tỷ lệ công nhân ra đi thường chiếm 10-20% số công nhân hiện có của công ty. Con số này có thể còn cao hoặc thấp hơn, tùy vào mức độ biến động của đơn hàng. Bên cạnh đó, chủ trương của Nhà nước phân tán ngành may về các tỉnh cũng góp phần làm cho thị trường lao động dệt may thêm phần nóng bỏng. Công nhân dệt may lại chủ yếu là đến từ các tỉnh, nếu tại đó đã có nhà máy rồi thì tâm lý chung là họ muốn trở về đấy để làm, vì như thế sẽ tiện cho việc ăn ở hơn.. Thông thường lương của công nhân "ăn" theo sản phẩm, tức là "làm được bao nhiêu ăn bấy nhiêu". Do đặc thù sản xuất theo mùa vụ, khi đơn hàng không có, doanh nghiệp có muốn cũng không thể trả lương cao cho công nhân được. Mặt khác, giá gia công trên thế giới không tăng, khi về đến VN có khi lại giảm, doanh nghiệp không thể nâng mức lương cho công nhân. Các khoản chi cho điện, nước, nhất là vật giá tiêu dùng đã tăng vọt khi giá xăng dầu lên, không chỉ doanh nghiệp gặp khó khăn mà tiền lương của công nhân cũng không đủ trang trải.Hầu hết các công nhân bỏ việc để tìm đến các công việc khác có thu nhập cao hơn như ngân hàng , khách sạn . Để giải quyết những khó khăn trước mắt về lao động và có thể đảm bảo giao hàng đúng hẹn, nhiều doanh nghiệp đã chấp nhận lỗ để nâng lương cho công nhân. Phần III: Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp may mặc Việt Nam Về phía nhà nước và các địa phương Đảm bảo tài chính cho hoạt động xuất khẩu, cải cách hệ thống tài chính tín dụng Tăng cường khả năng cung cấp tín dụng ngân hàng Việc vay tín dụng ngân hàng tuy đã có nhiều cải thiện thuận lợi hơn trước nhờ nới lỏng các điều kiện thế chấp nhưng vẫn còn phức tạp, nhu cầu vốn của dài hạn của doanh nghiệp chưa được đáp ứng , lãi suất vốn vay còn cao. Để cải tiến khả năng đáp ứng nhu cầu tín dụng ngân hàng của doanh nghiệp xuất khẩu may mặc cần đẩy nhanh cải cách hệ thống ngân hàng theo hướng : Tăng cường sức ép cạnh tranh bằng cách tạo sân chơi bình đẳng trong kinh doanh ngân hàng. Nới rộng quyền kinh doanh cho các ngân hàng ngoài quốc doanh, mở rộng việc cấp phép hoạt động cho các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Xúc tiến việc cổ phần hóa các ngân hàng quốc doanh và phát hành cổ phiếu của ngân hàng cổ phần , tham gia thị trường chứng khoán nhằm nâng cao năng lực tài chính cho các ngân hàng. Tăng cường năng lực quản lý ngân hàng , áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong hoạt động. Hiện đại hóa công nghệ nhất là trong khâu thanh toán , kết nối mạng trong cùng hệ thống và với các ngân hàng khác để đẩy nhanh thời gian thanh toán Chuyển đổi phương thức hoạt động của các quỹ hỗ trợ phất triển và quỹ tín dụng xuất khẩu Đây là các quỹ do các bộ thương mại và bộ tài chính lập ra nhằm hỗ trợ tài chính và tín dụng xuất khẩu . Tuy vậy hoạt động của các quỹ này chưa dựa trên nguyên tắc thị trường : đối tượng cho vay tín dụng hoặc hỗ trợ được xem xét dựa trên căn cứ là ngành kinh doanh và quyết dịnh đầu tư của cấp quản lý mà không dựa trên kết quả xuất khẩu . Lãi xuất cho vay cũng tương tự như vậy , được xác định tùy theo mặt hàng , do cơ quan hành chính quyết định ít phụ thuộc vào tình hình tài chính , khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp hoặc dự án cụ thể . Để các quỹ này hoạt động theo định hướng thị trường nhiều hơn , hiệu quả hơn và đáp ứng tốt hơn hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu cần nghiên cứu chuyển hướng hoạt động của các quỹ này thành ngân hàng chính sách hoặc sát nhập với ngân hàng chính sách đã được thành lập và đang hoạt động. Thúc đẩy xúc tiến thương mại Nhà nước cần có thêm một số các biện pháp để thúc đẩy hoạt động xúc tiến thuơng mại hỗ trợ các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu : Tăng ngân sách cho xúc tiến thương mại, áp dụng các hình thức đấu thầu cung cấp các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu nhằm giảm bớt tình trạng thiếu hiệu quả. Phát triển thương mại điện tử. tạo thuận lợi cho việc sử dụng các phương thức thanh toán điện tử an toàn . Tăng cường hoạt động tuyên truyền cho người tiêu dùng và các doanh nghiệp các vấn đề liên quan đến thương mại điện tử. Nhà nước cần hỗ trợ cung cấp thông tin về các thị trường xuất khẩu cho các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu .Đẩy mạnh ký kết các hiệp định hợp tác song phương hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu . Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp mở văn phòng đại diện, chi nhánh, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, trung tâm xúc tiến thương mại, tổ chức hội chợ triển lãm giới thiệu hàng hoá, thời trang. Khuyến khích và có cơ chế hỗ trợ để các doanh nghiệp chủ động ra nước ngoài tìm kiếm thị trường, xác lập hệ thống kênh phân phối, tiêu thụ sản phẩm tại các thị trường lớn. Các biện pháp nhằm giúp giảm chi phí vận tải cho các doanh nghiệp xuất khẩu may mặc Vận tải đường bộ: Nhờ có sự nâng cấp nhanh chóng cơ sở hạ tầng và mạng lưới đường bộ tại Việt Nam thời gian qua cùng với sự cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường vận tải , ngành vận tải đường bộ Việt Nam đã giảm dáng kể thời gian vận chuyển . Tuy nhiên chi phí vận tải đường bộ Việt Nam cũng tăng lên đáng kể chủ yếu là do sự tăng lên của giá xăng dầu, chi phí phương tiện vận chuyển , các loại phí cùng với các chi phí chính thức trên tuyến vận chuyển. Vận tải biển :Mức độ cạnh tranh ngày càng cao cùng với khối lương hàng xuất nhập khẩu ngày càng tăng đã khiến vận tải biển quốc tế có dịch vụ tốt hơn, thời gian vận chuyển được rút ngắn. Tuy nhiên so với các nước trong khu vực , vận tải biển Việt Nam vẫn có mức chi phí cao hơn. Các công ty vận tải đường biển của Việt Nam vẫn chưa gia nhập vào mạng lưới đại lý của các hãng vận tải quốc tế. Hơn nữa thủ tục hành chính tại các cảng Việt Nam khá phức tạp, để cập cảng Việt Nam mộ tàu phải nộp đến 36 loại giấy tờ và trình 27 loại giấy tờ khác làm cho tổng số loại giấy tờ cần trình báo lên đến 63 loại . Điều này làm tàu phải mất từ 1-2 ngày để chờ được cập bến, đây là thời gian chết của các công ty vận tải gây tốn kém cho các công ty vì chi phí cho thời gian chờ khoảng 7-8000 USD/Tàu /ngày. Chi phí vận tải của các công ty vận tải tăng dẫn đến việc các doanh nghiệp xuất khẩu may mặc phải chịu một mức giá vận tải cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh , làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.Vì vậy để hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu may mặc nói riêng và các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung nhà nước cần có các biện pháp nhằm làm giảm chi phí vận tải giúp các doanh nghiệp có cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh . Cần có các biện pháp nhằm rà soát định kỳ các khoản phí, lệ phí vận tải nói chung và nói riêng cho đường bộ, hàng hải .Về đường bộ, cần cho phép nhập khẩu và lưu hành những loại phương tiện vận tải tiết kiệm nhiên liệu. Tính toán về việc hạn chế tốc độ, mức phí , khoảng cách đặt các trạm thu phí và kiểm soát giao thông , cách bán vé và thu phí giao thông .Về đường biển, tăng đầu tư cho đội tầu bằng cách thu hút vốn tư nhân,ngoài ra các đội tàu nên tham gia các hiệp hội và tổ chức vận tải quốc tế .Và một việc cần làm ngay đó là giảm bớt các thủ tục giấy tờ ở cảng biển cho các tàu có thể nhập cảng nhanh chóng. Hoàn thiện hệ thống thuế Theo báo cáo về môi trường kinh doanh 2006 của Ngân hàng thế giới WB thì chi phí giao dịch về thời gian cho thương mại quốc tế của nước ta kể cả xuất khẩu và nhập khẩu đều có khoảng cách khá xa so với với singapore là một nước trong cùng khu vực,thời gian chờ cho xuất khẩu của Việt Nam gấp đến 6 lần và thời gian chờ nhập khẩu gấp 4.5 lần. Nền kinh tế Thương mại quốc tế Số chứng từ xuất khẩu Số chữ ký cho xuất khẩu Thời gian xuất khẩu (ngày) Số chứng từ nhập khẩu Số chữ ký cho nhập khẩu Thời gian nhập khẩu Singapore 5 2 6 6 2 8 Việt Nam 6 12 35 9 15 36 Về thuế suất , mặc dù hiệu quả thuế giá trị gia tăng của Việt Nam có thể được so sánh với NewZealand và Singapore là hai nước được đánh giá là có hệ thống thuế giá trị gia tăng được thiết kế và quản lý tốt nhưng trên thực tế việc nộp thuế nói chung tại Việt Nam tốn nhiều thời gian và tiền bạc hơn hẳn singapore thậm chí còn không bằng các nước đông nam á khác như Lào và Campuchia. Nền kinh tế Chi phí nộp thuế Số lần thanh toán Thời gian (số giờ trongnăm) Tổng số thuế phải trả (% giá trị lợi nhuận gộp) Campuchia 27 97 31,1 Lào 31 180 24,7 Singapore 16 30 19,5 Việt Nam 44 1050 31,5 Theo báo cáo môi trường kinh doanh 2006 của Ngân hàng thế giới WB Nhiều doanh nghiệp Việt Nam phải mất từ 3-6 tháng để nhận tiền hoàn thuế, công tác hoàn thuế được thực hiện chậm, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp . Năng kực và đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận cán bộ còn hạn chế gây nhiều bất bình trong dư luận và gâp khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu . Vì vậy nhà nước cần có nhiều biện pháp nhằm cải thiện hệ thống pháp lí về thuế quan, xóa bỏ những quy định hạn chế đã trở nên lạc hậu .Đảm bảo tính đồng bộ giữa các chính sách pháp luật hải quan và pháp luật trong các lĩnh vực quản lý chuyên ngành liên quan đến xuất khẩu và thủ tục hải quan để đảm bảo tính minh bạch tránh phiền hà lúng túng khi áp dụng.Thúc đẩy nhanh viẹc áp dụng hải quan điện tử nhằm đảm bảo tiết kiệm chi phí và thời gian cho doanh nghiệp vùa đảm bảo kiểm tra giám sát được về mặt tài chính và an ninh là hướng đi cần được chú ý và quan tâm đặc biệt Cần có thêm các chính sách khuyến khích phát triển các vùng nguyên liệu phụ liệu Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng các vùng nguyên liệu .Tạo hành lang pháp lý thông thoáng nhằm kêu gọi các nước có điều kiện đầu tư vào VN để sản xuất nguyên liệu, phụ liệu, sản xuất vải, sản xuất sợi ở VN. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích sự ra đời của các trung tâm nguyên phụ liệu may mặc , như các chính sách miễn giảm thuế với nguyên phụ liệu. Hiện nay bộ thương mại cũng đã đồng ý với hiệp hội dệt may Việt Nam về vấn đề này. Hiện nay các cơ quan liên quan cần đẩy nhanh các thủ tục để thành lập các trung tâm giao dịch nguyên phụ liệu dệt may Về phía các doanh nghiệp may mặc Phát triển và liên kết với các nơi sản xuất nguyên liệu phụ liệu sao cho quá sản xuất trở thàn một chuỗi liên kết dọc Xu hướng chung của các quốc gia là sẽ sản xuất những mặt hàng nào có hiệu quả (lợi thế) hơn và nhập khẩu những mặt hàng nào mà việc sản xuất ở trong nước kém hiệu quả. Từ đó đặt ra vấn đề trong công tác tổ chức sản xuất là các doanh nghiệp nên hợp nhất theo chiều dọc việc sản xuất nguyên phụ liệu may mặc và cơ cấu sản xuất của ngành sẽ cần phải hoàn thiện theo chiến lược sản xuất ấy. Tại thời điểm này, mặc dù đã có rất nhiều ý kiến ủng hộ việc thực hiện nhanh giải pháp thành lập chuỗi doanh nghiệp dệt –may tuy vậy việc liên kết chuỗi tức là doanh nghiệp phải đồng sức, đồng lòng, nếu vẫn giữ quan điểm "mạnh ai nấy làm" thì sẽ không thể thành công và mô hình liên kết chuỗi không phát huy được hiệu quả. Chuỗi liên kết đòi hỏi tinh thần hợp tác rất cao của mỗi doanh nghiệp thành viên.. Bên cạnh những biện pháp chủ động của ngành để đạt được kim ngạch xuất khẩu 9,5 tỉ USD vào năm 2008, Hiệp hội dệt may VN cần có sự hợp tác chặt chẽ với các nước trong khu vực ASEAN. Chủ tịch Hiệp hội dệt may VN Lê Quốc Ân cho hay: “Chúng ta có thể nhập vải của Thái Lan, Philippines, Indonesia với thuế suất bằng 0 để sản xuất hàng may mặc ở VN, rồi xuất trở lại sẽ có tính cạnh tranh cao và làm phong phú nguồn nguyên liệu của chúng ta.Mặt khác, chúng ta phải kêu gọi các nước có điều kiện đầu tư vào VN để sản xuất nguyên liệu, phụ liệu, sản xuất vải, sản xuất sợi ở VN. Hiện đã có nhiều tập đoàn lớn trong khối ASEAN đến VN đầu tư và nghiên cứu đầu tư mạnh hơn Thúc đẩy sản xuất nâng cao năng suất lao động, thu hút và đào tạo nguồn lao động Con người là yếu tố quan trọng, trước cả nguồn vốn, thiết bị, công nghệ cần đi tìm người giỏi, chứ không để người giỏi tìm đến mình. Bộ phận nhân sự của Việt Tiến đã tìm đến các trường đại học, trung tâm dạy nghề để tuyển chọn rồi tài trợ trực tiếp cho sinh viên giỏi. Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý sản xuất, thiết kế, kinh doanh, lao động có tay nghề cao cho ngành dệt may, cho các trung tâm dệt may và các địa phương, khắc phục tình trạng tranh giành lao động ở một số địa phương. Các doanh nghiệp cần có sự liên kết với các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực nhằm giải quyết tình trạng nguồn nhân lực vừa thiếu lại vừa yếu .Có thể liên kết theo một số các mô hình sau : Mô hình liên kết giữa nhà trường nghề và các doanh nghiệp bên ngoài. Có thể kể đến hình thức giữa công ty và nhà trường ký với nhau một khế ước cung cấp nhu cầu và bảo đảm việc làm cho các sinh viên tốt nghiệp Mô hình liên kết dạy nghề giữa nhà trường và các cơ sở doanh nghiệp được thành lập trong nhà trường. Các doanh nghiệp có thể thu nạp cơ sở đào tạo để cơ sở trực tiếp cung cấp cho doanh nghiệp những nhân viên hoặc công nhân hợp qui cách. Gọi “thu nạp” nghĩa là công ty cung cấp tài chính cho cơ sở đào tạo và đưa ảnh hưởng của mình sâu trong nội bộ cơ sở đào tạo. Các cơ sở phải bồi dưỡng và huấn luyện cho doanh nghiệp những nhân viên hoặc công nhân mới, phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thay vì bỏ tiền ra để tự thực hiện các chương trình đào tạo, thì thực hiện thu nạp các cơ sở đào tạo và biến nó thành nơi bồi dưỡng và huấn luyện phục vụ cho công ty mình. Mô hình liên kết dạy nghề giữa doanh nghiệp và nhà trường nghề thành lập tại doanh nghiệp. Nhiều công ty, có sức hút và tầm nhìn xa, trực tiếp mở mang các loại giáo dục để phục vụ cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và trở thành đối thủ có sức cạnh tranh mạnh mẽ đối với các cơ sở đào tạo truyền thống Về phía mình, doanh nghiệp có thể tham gia vào ngay từ quá trình đào tạo và từ đây đã có các biện pháp quản lý và tác động đến nguồn nhân lực sẽ phục vụ cho mình nhằm tăng chất lượng và độ ổn định của nguồn nhân lực tương lai của tổ chức. Thường xuyên và định kỳ đào tạo lại đội ngũ lao động hiện có. Nguyên tắc là các doanh nghiệp hợp tác và phối hợp với nhau trong đào tạo và sử dụng các cơ sở đào tạo làm đầu mối liên kết. Nhờ đó mà tăng qui mô các lớp đào tạo và giảm chi phí để các doanh nghiệp có số lượng lao động không lớn cũng thường xuyên được thụ hưởng các chương trình đào tạo. Các doanh nghiệp cần coi đầu tư cho đào tạo là một khoản đầu tư dài hạn hoạch toán như tính toán một dự án đầu tư. Các doanh nghiệp dệt may sẽ đánh giá lựa chọn các cơ sở đào tạo như đánh giá những nguồn cung cấp cho dự án đầu tư và ký kết với cơ sở các hợp đồng đào tạo, dài hạn và ngắn hạn Ngoài ra việc nâng cao trình độ chuyên môn và trình độ ngoại ngữ của các nhà quản lý và nhân viên kinh doanh của các doanh nghiệp may mặc Việt Nam cũng là vấn đề hết sức quan trọng. Hiện nay, rào cản về ngoại ngữ là thách thức rất lớn đối với các nhà quản lý và nhân viên kinh doanh của các doanh nghiệp Việt NamVì vậy các doanh nghiệp xuất khẩu may mặc Việt Nam cần chú ý hơn trong nâng cao trình độ ngoại ngữ cho các nhà quản lý, nhân viên kinh doanh sao cho họ có thể giao dịch, nghiên cứu thị trường, tìm kiếm khách hàng bằng tiếng Anh dễ dàng. Điều này, góp phần giúp các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu Việt Nam nắm bắt nhiều cơ hộ kinh doanh trên thị trường EU, qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh hàng may mặc Việt Nam. Thúc đẩy sự liên kết chặt chẽ với các nhà nhập khẩu Một trong những nguyên nhân khiến chúng ta chưa thành công trong quá trình chiếm lĩnh thị trường là do các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ tiếp cận được với khâu trung gian là những nhà môi giới thương mại mà chưa tiếp cận trực tiếp với người tiêu dùng để sản xuất những sản phẩm thích hợp. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm đến việc liên kết chặt chẽ với các nhà nhập khẩu vì các nhà nhập khẩu thường có xu hướng tìm nhiều nhà cung cấp cùng lúc đễ tránh rủi ro.Hiện nay Việt Nam đang hợp tác với Nhật và một số hãng thời trang nổi tiếng quốc tế để đầu tư vào khâu thiết kế, chuyển nhượng quyền thương hiệu, tạo ra những sản phẩm mang tính khác biệt, vượt trội, đẳng cấp cao hơn. Một giải pháp nữa là tổ chức kênh bán lẻ trực tiếp hàng dệt may thương hiệu VN ra nước ngoài, song song với kênh bán lẻ trong nước. “Lâu nay ta chỉ xuất khẩu thông qua thương hiệu và kênh phân phối của nước ngoài, nay phải gấp rút xây dựng thị trường xuất khẩu bằng chính thương hiệu và kênh phân phối của mình, như vậy mới cạnh tranh được” - ông Ân nói. Tăng lượng hàng may mặc xuất khẩu thông qua phương thức nhượng quyền thương mại. Trước đây và hiện nay, một số doanh nghiệp Việt Nam đã sử dụng phương thức này nhưng với số lượng hạn chế như áo sơ mi được sản xuất và xuất khẩu dưới nhãn mác Pierre Cardin, quần âu với nhãn hiệu Milano. Cho nên, các doanh nghiệp Việt Nam nên tăng cường sử dụng biện pháp nhượng quyền thương mại, sử dụng những nhãn hiệu của các hãng may mặc nổi tiếng, nhằm tăng khả năng cạnh tranh trong khi những thương hiệu hàng may mặc Việt Nam chưa được nhiều khách hàng EU biết tới Đẩy mạnh hoạt động R&D Đầu tư cho việc nghiên cứu mẫu, mã, mốt thời trang quốc tế, nắm bắt kịp thời xu thế lớn trong ngành thời trang. Nhà sản xuất phải thể hiện được phong cách riêng với khách hàng, đa dạng hoá sản phẩm, phương thức kinh doanh. Thời trang hóa ngành dệt may rất cần thiết trong giai đoạn hội nhập của các DN. “Làm sao để một sản phẩm may mặc khi tung ra thị trường xuất khẩu hay nội địa đều thể hiện thời trang, thực tế dây vẫn là điểm hạn chế của các sản phẩm may mặc VN nói chung”, ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may VN, nhận định. Ngành may mặc cần tăng cường hơn nữa việc liên kết với nước ngoài trong đào tạo các cán bộ ngành Dệt May, đặc biệt là đội ngũ thiết kế mẫu Để chiến lược thành hiện thực, hàng loạt giải pháp đã được áp dụng để đẩy mạnh công nghệ hỗ trợ với chi phí khoảng 2,6 tỉ đồng. Vinatex đã thực hiện đề án sản xuất vải xuất khẩu, hệ thống cỡ số phù hợp người VN. Nghiên cứu các công nghệ nano, vải chống tia tử ngoại, công nghệ nhuộm phun... Vinatex đã phối hợp với Trung tâm Thời trang London tổ chức các lớp thiết kế mẫu. Sắp tới sẽ triển khai chương trình truyền hình về lĩnh vực may mặc Từ ý tưởng đến hiện thực, xây dựng trang web chuyên đề thời trang www.vif.com. Bên cạnh việc khẳng định thương hiệu theo thế mạnh của từng DN dệt may, Vinatex còn triển khai việc thu hút đầu tư vào ngành dệt may VN của các đối tác lớn như ITG (Hoa Kỳ), Itochu, Mitsui (Nhật), Tea Chang (Hàn Quốc), Raymond (Ấn Độ), Winnetex (Hồng Kông)... Một số đối tác Hồng Kông, Canada, Pakistan... đã hoàn tất việc khảo sát tại VN để đầu tư công nghệ nhuộm Thực hiện các quy trình chất lượng theo chuẩn quốc tế Trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa về kinh tế chất lượng sản phẩm hàng hóa có một vai trò hết sức quan trọng và đang trở thành ,một thách thức to lớn. Chất lượng sản phẩm là một yếu tố quan trọng quyết định năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp .Trước sức ép của hội nhập kinh tế, sự cạnh tranh sẽ ngày càng gia tăng , yêu cầu của khách hàng cũng khắt khe hơn. Do đó muốn đứng vững trong cạnh tranh thì tổ chức sản xuất phải trên cơ sở đáp ứng yêu cầu của các tiêu chuẩn quốc tế, phải hoà nhập vào hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000, quản lý môi trường ISO 14000 và hệ thống trách nhiệm xã hội SA 8000... Hiện nay, một trong những tiêu chuẩn xã hội quan trọng nhất là tiêu chuẩn SA 8000 do Tổ chức Quốc tế về Trách nhiệm xã hội (SAI), một tổ chức phi chính phủ của Hoa Kỳ, xây dựng. SA 8000 là hệ thống tiêu chuẩn quốc tế quy định về điều kiện làm việc, quyền lợi của người lao động nhằm hướng tới việc đảm bảo giá trị đạo đức của nguồn hàng hoá & dịch vụ. Tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000 xem xét các vấn đề chủ yếu như: lao động trẻ em, lao động cưỡng bức, sức khoẻ & an toàn lao động, bồi thường, phân biệt đối xử trong lao động, thời gian làm việc, tự do công đoàn, quyền thoả ước tập thể và các hình phạt trong lao động. SA 8000 được xây dựng dựa trên nền tảng tiêu chuẩn của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và các công ước và khuyến nghị của Liên hợp quốc về quyền con người và trẻ em. Những hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế lớn này cùng những đòi hỏi của các khách hàng và người tiêu dùng trên toàn thế giới về các tiêu chuẩn xã hội càng làm tăng vai trò quan trọng của tiêu chuẩn SA 8000. Một hệ thống tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội quan trọng khác là AHSAS 18001. Tiêu chuẩn AHSAS 18001 đánh giá chi tiết về Hệ thống quản lý sức khoẻ và an toàn lao động do Công ty Hệ thống quản lý BSI của Anh xây dựng. Cần lưu ý rằng tại EU, hệ thống tiêu chuẩn ISO 9001:2000 thường được các khách hàng yêu cầu nhiều hơn so với Oko-Tex 100 (tiêu chuẩn vê môi trường của Hiệp hội Oko-Tex Association liên quan tớI lĩnh vực môi trường, sức khoẻ và an toàn đối với người tiêu dùng) và SA 8000. Nhìn chung, các khách mua Anh thưòng có xu hướng yêu cầu về các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội, trong khi các khách hàng Đức lại chú trọng tới các tiêu chuẩn về môi trường. Oeko Tex 100 Standard cũng là một tiêu chuẩn được đòi hỏi rất nhiều từ các khách mua Trung Âu vì nhãn hiệu này hiện nay rất được phổ biến đối với người tiêu dùng Châu Âu. Việc áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng được coi như một tấm vé để thâm nhập vào các thị trường quốc tế. Tuy nhiên số lượng các doanh nghiệp triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất theo tiêu chuẩn quốc tế chưa nhiều , một phần do nhận thức của các doanh nghiệp còn yếu kém, một phần do chưa đủ năng lực .Vì vậy cần có sự trợ giúp từ phía tập đoàn cũng như từ nhà nước trong việc thông tin quảng bá, phổ biến áp dụng tiêu chuẩn quản lý chất lượng. Ngoài ra cũng rất cần sự nỗ lực của các doanh nghiệp nhằm thực hiện tốt các quy trình chất lượng nhằm nâng cao năng suất lao động, nâng cao ý thức của người công nhân và cũng góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh . KẾT LUẬN Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ quyết định năng lực cạnh tranh của nền kinh tế chứ không phải ngựợc lại. Vì vậy có thể khẳng định vấn đề cốt lõi trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta chính là nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp . Đây là một công việc vừa mang tính cấp bách vừa mang tính thường xuyên lâu dài. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần có nhiều giải pháp từ góc đọ vĩ mô lẫn vi mô. Để cải thiện năng lực cạnh tranh đòi hỏi nỗ lực và quyết tâm của các nhà quản trị doanh nghiệp , sự hỗ trợ của nhà nước,trong đó vai trò chính phải thuộc về các nhà quản trị doanh nghiệp những người cầm lái con thuyền doanh nghiệp hành trình trên dại dương bao la. Tài liệu tham khảo: Giáo trình “Kinh tế và quản lý công nghiệp” .Đồng chủ biên : GS-TS Nguyễn Đình Phan , Gs-Ts Nguyễn Kế Tuấn . Nxb Đại học kinh tế quốc dân-2007 Nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu dựa trên cơ sở cắt giảm chi phí Đồng chủ biên :Ts Đinh Văn Ân Viện trưởng viện nghiên cứu quản lý ktế TWvà Ts Lê Xuân Bá – Phó viện trưởng ,giám đốc dự án SIDA-MPI. Nxb Tài chính 2006 Tăng trưởng với các nước đang phát triển vấn đề và giải pháp Đinh Thị Thơm (chủ biên) Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia-Viện thông tin khoa học xã hội “Cơ chế giám sát dệt may ngày càng nguy hiểm” Giám sát hàng dệt may có thể giảm Bài toán năng lực cạnh tranh –TS Nguyễn Sĩ Dũng Hậu WTO, dệt may chuyển động ra sao? Ngành dệt-may vượt qua thử thách. VN vào top 10 xuất khẩu dệt may thế giới Không có cơ sở nghi nghờ dệt may bán phá giá RFA:Radio Free Asia (Các bài thu âm phỏng vấn về vấn dề dệt may Việt Nam ) Mục lục Trang Lời mở đầu 1 NỘI DUNG 2 Phần 1: Những vấn đề chung về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp may mặc 2 1. Quan niệm về năng lực cạnh tranh 2 2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp may mặc 2 Phần II: Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp may mặc Việt Nam 3 Những khó khăn các doanh nghiệp may mặc VN gặp phải trước khi VN gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO 3 Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, những cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp may mặc 4 Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp may mặc VN 6 3.1. Năng lực cạnh tranh xét bởi các yếu tố chỉ tiêu có thể nhận biết 6 3.2. Năng lực cạnh tranh tiếp cận qua các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh 15 Phần III:Phương hướng và các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của may mặc Việt Nam 24 1. Về phía nhà nước và địa phương 24 2.Về phía các doanh nghiệp may mặc 29 KẾT LUẬN 35 TÀI LIỆU THAM KHẢO 37

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNghiên cứu về nâng cao năng lực cạnh tranh của các Doanh nghiệp may mặc Việt Nam.DOC