Nhìn chung, thông qua quá trình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ ta nhận
thấy Cảng Cần Thơ ngày càng hoạt động có hiệu quả, có các chính sách như khách
hàng thân thiết vừa đảm bảo nguồn sản lượng cho Cảng Cần Thơ trong thời gian tới,
vừa ứng được tiền trước để mua sắm trang thiết bị hiện tại phục vụ nhu cầu sản xuất,
đáp ứng nhu cầu cao của khách hàng.
74 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2865 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích tình hình thực hiện sản lượng của cảng Cần Thơ năm 2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản lượng cát xuất khẩu và gỗ tràm xuất khẩu tăng mạnh, mặt khác tuy
sản lượng lương thực xuất ngoại giảm nhưng sản lượng lượng lương thực xuất nội
tăng đáng kể so với năm 2006 do áp dụng chính sách của nhà nước để đảm bảo an
toàn lương thực trong cả nước. Mặt khác các hàng hoá nhập nội xề sắt thép, than đá
và clinker cũng tăng mạnh do năm 2007 là năm có nhiều dự án, công trình sẽ và
đang khởi công xây dựng, nhu cầu về xây dựng để đáp ứng cơ sở hạ tầng, cơ sở hợp
tác đầu tư trong thời kỳ hội nhập như hiện nay.
Sản lượng hàng hoá năm 2006 so với năm 2005 đạt 99,56% giảm 0,44%, số
tuyệt đối là giảm 3.855 tấn. Nguyên nhân là do thời tiết lũ lụt, dịch bệnh trên lúa nên
41
sản lượng gạo sản xuất ra bị giảm dẫn đến sản lượng gạo xuất ngoại và xuất nội
giảm, ngoài ra mặt hàng thức ăn gia súc cũng giảm. Năm 2006 hàng hoá nhập ngoại
clinker giảm mạnh đây là một trong những nguyên nhân là cho lượng hàng hoá
trong năm 2006 giảm so với năm 2005.
Tuy nhiên, nhu cầu vận chuyển hàng hoá của đồng bằng sông Cửu Long ngày
càng tăng, nhưng thật sự hệ thống cảng biển của đồng bằng sông Cửu Long chưa thể
đáp ứng được nhu cầu vận chuyển này, các cảng không hoạt động hết công suất và
Cảng Cần Thơ cũng vậy do nhiều yếu tố khác nhau nhưng luồng vào cảng là một
yếu tố rất quan trọng. Năm 2007 khối lượng hàng hóa vận chuyển thông qua cảng
của đồng bằng sông Cửu Long khoảng 10 triệu tấn/năm. Với khối lượng lớn như
vậy, nhưng vùng này chỉ có 12 cảng biển và mới đảm nhận được khoảng 30% nhu
cầu hàng hóa của khu vực (nguồn: báo Cần Thơ). Với khoảng 30% nhu cầu hàng
hoá của khu vực thì sản lượng hàng hoá vận chuyển thông qua cảng là khoảng 3
triệu tấn trong đó Cảng Cần Thơ đã vận chuyển được 1.305.952 tấn chiếm khoảng
45,53%, cảng Mỹ Thới là 936.026 tấn chiếm khoảng 31,2 %, cảng Mỹ Tho 317.735
tấn chiếm khoảng 10,59 % , cảng Vĩnh Long 187.000 tấn chiếm khoảng 6,23 %, các
cảng còn lại tại đồng bằng sông Cửu Long chiếm khoảng 8,45 %.
Bảng 6: BẢNG ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN SẢN LƯỢNG CỦA
CẢNG CẦN THƠ SO VỚI CÁC CẢNG TRONG KHU VỰC ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG NĂM 2007
STT Tên cảng
Sản lượng
(tấn)
Tỷ trọng (%)
1 Cảng Cần Thơ 1.305.952 43,53
2 Cảng Mỹ Thới 936.026 31,20
3 Cảng Mỹ Tho 317.735 10,59
4 Cảng Vĩnh Long 187.000 6,23
5 Cảng khác 253.251 8,45
Tổng sản lượng 3.000.000 100
42
Cảng Cần Thơ,
43.53%
Cảng Mỹ Thới,
31.20%
Cảng Mỹ Tho,
10.59%
Cảng Vĩnh
Long, 6.23%
Cảng khác,
8.45%
Biểu đồ thực hiện sản lượng của các cảng đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long có 3 cảng đầu mối là Cảng Cần Thơ, Cảng Mỹ Thới
và Cảng Mỹ Tho trong đó Cảng Cần Thơ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng hàng
hoá thông qua các cảng ở đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên hầu hết các cảng
đều không hoạt động hết công suất do luồng vào không đảm bảo cho tàu có trọng tải
lớn ra vào. Các cảng ở đồng bằng sông Cửu Long chỉ có thể đáp ứng được khoảng
30% tổng sản lượng hàng hoá có nhu cầu thông qua cảng như vậy là quá thấp trong
khi đó cảng không hoạt động hết công suất. Khoảng 70% lượng hàng hoá xuất khẩu
của đồng bằng sông Cửu Long phải qua các cảng ở thành phố Hồ Chí Minh trước
khi ra ngoài . Điều này không những làm cho tăng thời gian, giá thành, giao thông
thành phố quá tải, mà còn làm giảm chất lượng cũng như giảm tính cạnh tranh của
hàng hoá đồng bằng sông Cửu Long bởi vì chi phí vận chuyển lên thành phố Hồ Chí
Minh rồi mới xuất đi có khi lên đến 200 USD/tấn. Năng lực của cảng Cần Thơ là
không nhỏ nhưng khó hấp dẫn các chủ hàng và chủ tàu bởi sự hạn chế về độ sâu của
cửa Định An. Việc khai thông luồng vào cảng ở đồng bằng sông Cửu Long không
những giúp cho các cảng hoạt động hết công suất tránh lãng phí trong việc đầu tư
có sở hạ tầng cho các cảng, ngoài ra còn giảm áp lực cho Cảng Sài Gòn, giao thông
thành phố thông thoáng hơn và nhất là nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá
43
trên thị trường thế giới điều này đặc biệt quan trọng nhất là khi nước ta đã gia nhập
tổ chức thương mại thế giới WTO. Hệ thống giao thông vận tải đường thuỷ nhất là
cảng biển hoạt động tốt cũng góp phần vào việc khẳng định vị trí của Việt Nam trên
thị trường thế giới.
Sản lượng xếp dỡ:
Sản lượng xếp dỡ bằng sản lượng thông qua cộng với sản lượng bốc xếp hàng
hoá từ kho bãi lên phương tiện của khách hàng và từ phương tịên của khách hàng
xuống kho bãi của cảng nên sản lượng hàng hoá xếp dỡ phụ thuộc nhiều vào sản
lượng hàng hoá thông qua.
Sản lượng hàng hoá thông qua tăng nên sản lượng hàng hoá xếp dỡ cũng tăng
theo ngược lại sản lượng hàng hoá thông qua giảm sẽ dẫn đến sản lượng hàng hoá
xếp dỡ cũng giảm theo, sản lượng hàng hoá xếp dỡ năm 2006 so với năm 2005 đạt
99,32% giảm 0.68% số tuyệt đối là giảm 7.414 tấn.
Sản lượng hàng hoá xếp dỡ năm 2007 so với năm 2006 đạt 149,43% tăng 49,43
%, số tuyệt đối là tăng 531.430 tấn.
Tuy sản lượng hàng hoá xếp dỡ tăng mạnh trong năm 2007 so với năm 2006, tuy
nhiên Cảng Cần Thơ vẫn chưa thực sự hoạt động hết công suất thiết kế. Trong khi
năng suất xếp dỡ của Cảng Cần Thơ cơ thể xếp dỡ được 2.187.500 tấn năm 2007 tuy
nhiên trong năm 2007 Cảng Cần Thơ chỉ xếp dỡ được 1.606.548 tấn, cảng Cần Thơ
chỉ đạt được 73,44 % công suất thiết kế. Nguyên nhân là do luồng vào Cảng Cần
Thơ chưa được khai thông nên không thu hút được nhiều chủ hàng, chủ tàu cập
cảng.
Sản lượng chuyển thẳng
Sản lượng chuyển thẳng năm 2006 so với năm 2005 đạt 101,57 % tăng 1,57 % số
tuyệt đối là tăng 12,102 tấn.
Sản lượng chuyển thẳng năm 2007 so với năm 2006 đạt 147,3 % tăng 47,3 % số
tuyệt đối là tăng 366.446 tấn.
Nguyên nhân là do lượt tàu ra vào cảng ngày càng tăng, cụ thể số lượt tàu ra vào
cảng năm 2007 là 1420 lượt phương tiện, so với cùng kỳ năm 2006 đạt 125% tăng
25%. Trong đó:
44
Tàu nội: 160 lượt so với năm 2006 đạt 182%
Tàu ngoại: 111 lượt so với năm 2006 đạt 156%
Ghe và sà lan: 1149 lượt so với năm 2006 đạt 117%
Tất cả các lượt tàu ghé vào cảng đều tăng đáng kể điều này cho thấy thương hiệu
Cảng Cần Thơ ngày càng có uy tín trong nước và quốc tế, được khách hàng trong và
ngoài nước tín nhiệm và đặt niềm tin thực sự. Tuy Cảng Cần Thơ chưa thực sự hoạt
động hết công suất và khả năng trang bị hiện có của cảng do các tác động bên ngoài
đặt biệt là luồng cửa Định An ngày càng bị bồi lắng, luồng bị cạn, nhà nước có đầu
tư nạo vét nhưng thực sự không hiệu quả bởi cửa Định An bị bồi lắng bởi dòng sông
Hậu. Do đó luồng lạch chưa đảm bảo an toàn cho tàu bè ra vào cảng, luồng thực sự
không ổn định, theo thông báo của hàng hải đôi khi cốt luồng chỉ đạt 2,5 m thì gây
tâm lý trở ngại cho các hãng tàu, thực tế Cảng Cần Thơ hiện nay chỉ tiếp nhận tàu có
mớn nước dưới 7 m. Nhưng đây là một dấu hiệu đáng mừng để Cảng Cần Thơ có
thể phát huy khả năng thực sự của mình khi luồng vào cảng được khai thông.
Sản lượng lưu kho bãi
Sản lượng lưu kho bãi năm 2006 đạt 103,04 % tăng 3,04 %, số tuyệt đối là tăng
4.347 tấn so với năm 2005. Nguyên nhân là do năm 2006 tuy sản lượng nhập kho
thấp hơn năm 2005 nhưng sản lượng tồn kho cao hơn so với năm 2005 nên sản
lượng hàng hóa tồn kho năm 2006 tăng nhẹ so với năm 2005
Sản lượng lưu kho bãi năm 2007 đạt 160,64 % tăng 60,64 % so với năm 2006, số
tuyệt đối là tăng 89.399 tấn. Nguyên nhân là do trong năm 2007 phòng giao nhận
kho hàng thực hiện việc kiểm đếm giao nhận hàng hoá đầy đủ, chính xác, không có
xảy ra nhầm lẫn, thiếu hụt hay mất mát hàng hoá, luôn luôn cải tiến để sắp xếp điều
động để cán bộ kiểm đếm làm việc có hiệu quả. Mặt khác hàng hóa lưu kho bãi
được bảo quản tốt, việc giao nhận kiểm đếm hàng hoá trong kho và bãi luôn đầy đủ
chính xác, kịp thời, sắp xếp hàng hóa thứ tự ngăn nắp và khoa học đảm bảo tốt công
tác giao nhận và đảm bảo an toàn hàng hoá nên uy tín cũng như thương hiệu của
Cảng Cần Thơ ngày càng được nâng cao hơn, sản lượng hàng hoá lưu kho bãi ngày
càng nhiều hơn. Sản lượng hàng hoá nhập kho năm 2007 tăng mạnh hơn năm 2006
và lượng hàng hoá tồn kho cũng cao hơn lượng hàng lượng hàng hoá tồn kho năm
45
2006. Do vậy lượng hàng hoá lưu kho năm 2007 tăng mạnh so với năm 2006. Điều
này cho thấy kho bãi của Cảng Cần Thơ được quản lý và khai thác tương đối tốt
toàn bộ diện tích.
4.2. Phân tích tình hình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ theo chiều
hàng
4.2.1. Ý nghĩa và mục đích
4.2.1.1. Ý nghĩa
Công ty có thể hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu về việc thực hiện sản lượng
hay không phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân, nhiều khía cạnh khác nhau trong đó
thực hiện sản lượng theo chiều hàng cũng là một khía cạnh cần phải quan tâm. Cảng
Cần Thơ hoạt động chủ yếu mang tính chất dịch vụ và là nơi trao đổi mua bán của
các công ty trong nước và nước ngoài hay trong nước với nhau. Vì vậy sản lượng
của Cảng Cần Thơ phụ thuộc rất nhiều vào chiều hàng.
Phân tích tình hình thực hiện sản lượng theo chiều hàng để thấy được chiều
nào tăng, chiều nào giảm từ đó đưa ra biện pháp để cũng cố như bố trí lại nguồn
nhân lực, các trang thiết bị, cơ sở hạ tầng,…. cho hợp lý theo chiều hàng đó.
Ngày nay việc trao đổi mua bán thông thương giữa các công ty nước ngoài
vào Việt Nam ngày càng dễ dàng hơn nhất là khi chúng ta đã gia nhập tổ chức
thương mại thế giới WTO. Công ty Cảng Cần Thơ thực hiện sản lượng theo chiều
hàng gồm có chiều hàng: xuất ngoại, nhập ngoại, xuất nội, nhập nội.
4.2.1.2. Mục đích
- Đánh giá tình hình thực hiện sản lượng theo chiều hàng nhằm tìm ra các
nguyên nhân ảnh hưởng đến việc thực hiện sản lượng của công ty.
- Đưa ra các biện pháp khắc phục những khó khăn, phát huy điểm mạnh
nhằm tăng sản lượng cho công ty theo chiều hàng đó.
46
Bảng 7: BẢNG ĐÁNH GIÁ TỶ TRỌNG ĐÓNG GÓP VÀO TỔNG SẢN
LƯỢNG THEO CHIỀU HÀNG CỦA CẢNG CẦN THƠ NĂM 2005-2007
Thực hiện 2005 Thực hiện 2006 Thực hiện 2007
S
T
T
Chiều
hàng
Sản
lượng
(tấn)
Tỷ
trọng
(%)
Sản lượng
(tấn)
Tỷ
trọng
(%)
Sản lượng
(tấn)
Tỷ
trọng
(%)
1 Xuất
ngoại
54.712 6,22 52.606 6,00 413.017 31,63
2 Nhập
ngoại
272.627 31,00 285.836 32,65 211.123 16,17
3 Xuất nội 185.374 21,08 155.460 17,76 193.927 14,85
4 Nhập nội 366.673 41,70 381.629 43,59 487.885 37,35
5 Tổng cộng 879.386 100% 875.531 100% 1.305.952 100%
( Nguồn: Phòng kế hoạch và đầu tư)
47
Năm 2005
xuất ngoại,
6.22%
nhập ngoại,
31%
xuất nội,
21.08%
nhập nội,
41.70%
Năm 2006
xuất ngoại,
6.00%
nhập ngoại,
32.65%
xuất nội,
17.76%
nhập nội,
43.59%
Năm 2007
xuất
ngoại,
31.36%
nhập
ngoại,
16.17%
xuất
nội,
14.85%
nhập
nội,
37.35%
Biểu đồ đánh giá tỷ trọng đóng góp vào tổng sản lượng theo chiều hàng của
Cảng Cần Thơ
Qua biểu đồ trên ta thấy có sự chuyển dịch cơ cấu hàng hoá thông qua theo
chiều hàng qua các năm từ năm 2005 đến năm 2007, hàng hoá thông qua cảng xuất
ngoại giảm nhẹ qua từ năm 2005 đến năm 2006 (chiếm từ 6,22% xuống còn 6%
trong cơ cấu sản lượng thông qua Cảng Cần Thơ) nhưng qua năm 2007 hàng hoá
tăng nhanh gấp hơn 5 lần so với cơ cấu về sản lượng hàng hoá thông qua cảng
48
(chiếm 6% năm 2006 đã tăng lên chiếm 31,36 % trong tổng sản lượng thông qua
cảng). Nguyên nhân là do Cảng Cần Thơ tự tìm kiếm nguồn hàng và khác hàng
mới, tuy không thể tiếp nhận tàu có trọng tải lớn nhưng Cảng Cần Thơ đã và đang
khai thác tìm nguồn hàng mới có tính chất nhẹ và có sẵn nguồn cung tại chỗ, đảm
bảo cho tàu lớn nước ngoài vào tìm nguồn hàng vào được do trọng tải của hàng hoá
nhẹ nên có mớn nước thấp tàu có thể vào được vừa có thêm sản phẩm mới cho Cảng
Cần Thơ vừa tạo đầu ra cho sản phẩm của vùng đồng bằng sông Cửu Long phát huy
thế mạnh của vùng.
Sự chuyển dịch cơ cấu của hàng nhập ngoại năm 2006 tăng nhẹ so với năm 2005
( chiếm 31% năm 2005 đến chiếm 32,65 % năm 2006 trong cơ cấu tổng sản lượng
hàng hoá thông qua của Cảng Cần Thơ ) nhưng tỷ trọng của hàng nhập ngoại trong
cơ cấu tổng sản lượng của Cảng Cần Thơ năm 2007 lại giảm mạnh so với năm 2006
( tỷ trọng hàng nhập ngoại chiếm 16,17% trong cơ cấu tổng sản lượng hàng hoá
thông qua cuả Cảng Cần Thơ năm 2007).
Tỷ trọng hàng hoá xuất nội giảm qua các năm từ năm 2005 đến năm 2007 (chiếm
21,08 % năm 2005, chiếm 17,76 % năm 2006 và chiếm 14,85% năm 2007)
Tỷ trọng hàng hoá nhập nội trong cơ cấu tổng sản lượng hàng hóa thông qua của
Cảng Cần Thơ năm 2006 giảm so với năm 2005 (năm 2005 chiếm 41,7 % so với
năm 2006 chiếm 43,59 % ), tỷ trọng hàng hóa nhập nội trong tổng cơ cầu hàng hoá
thông qua của Cảng Cần Thơ năm 2007 giảm so với năm 2006 (năm 2007 chiếm tỷ
trọng 37,35 %).
Tóm lại, qua 3 biểu đồ trên ta nhận thấy có sự chuyển dịch cơ cấu trong tổng sản
lượng hàng hoá thông qua của Cảng Cần Thơ qua các năm. Sự chuyển dịch cơ cấu
qua các năm tỷ trọng hàng hoá xuất ngoại tăng nhanh chiếm tỷ trọng lớn trong cơ
cấu tổng sản lượng hàng hoá thông qua Cảng Cần Thơ, đây là một dấu hiệu đáng
mừng chứng tỏ thị trường xuất khẩu ngày càng sôi động hơn, các doanh nghiệp có
nhiều cơ hội để vươn mình ra các nước khác hơn. Đây là một phần để giúp cho
Cảng Cần Thơ có thể đưa ra kế hoạch và chuẩn bị cho tương lai.
49
Bảng 8: BẨNG ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN SẢN LƯỢNG CủA
CẢNG CẦN THƠ THEO CHIỀU HÀNG.
Chênh lệch năm 2006 so
với năm 2005
Chênh lệch năm 2007 so
với năm 2006 S
T
T
Chiều hàng Số tuyệt
đối
(tấn)
Số tương
đối
(%)
Số tuyệt
đối
(tấn)
Số tương
đối
(%)
1 Xuất ngoại -2.106 -3,85 360.411 685,11
2 Nhập ngoại 13.209 4,85 -74.713 -26,14
3 Xuất nội -29.914 -16,14 38.467 24,74
4 Nhập nội 14.956 4,10 106.256 27,84
Tổng cộng -3.855 -0,44 430.421 49,16
Xuất ngoại
Sản lượng xuất ngoại năm 2006 so với năm 2005 đạt 96,15% giảm 3,85% số
tuyệt đối là giảm 2.106 tấn. Nguyên nhân là do sản lượng lương thực năm 2006
giảm so với năm 2005.
Sản lượng xuất ngoại so với năm 2006 đạt 785,11% vượt 685,11% số tuyệt đối là
tăng 360.411 tấn. Nguyên nhân là do tuy sản lượng lương thực xuất khẩu giảm so
với năm 2006 nhưng năm 2007 sản lượng cát xuất khẩu và gỗ tràm xuất khẩu tăng
mạnh nên làm cho sản lượng xuất ngoại năm 2007 tăng mạnh.
Nhập ngoại
Sản lượng hàng hoá nhập ngoại năm 2006 đạt 104,85% so với năm 2005 tăng
4,85% số tuyệt đối là 13.209 tấn. Nguyên nhân là do sản lượng gỗ và thạch cao nhập
nội tăng đáng kể nhưng do sản lượng clinker năm 2006 giảm đáng kể so với năm
2005 nên sản lượng hàng hoá thông qua năm 2006 có tăng so với năm 2005 nhưng
không đáng kể.
Sản lượng hàng hoá nhập ngoại năm 2007 so với năm 2006 đạt 73,86% giảm
26,14% số tuyệt đối là giảm 74.713 tấn. Nguyên nhân là do sản lượng gỗ, clinker,
50
phân bón nhập ngoại năm 2007 giảm đáng kể so với năm 2006, tuy năm 2007 có sự
tăng lên về sản lượng của thạch cao tuy nhiên tổng lượng hàng hoá nhập ngoại năm
2007 vẫn giảm so với năm 2006.
Xuất nội
Xuất nội năm 2006 đạt 83,86% giảm 16,14% so với năm 2005 số tuyệt đối là
giảm 29.914 tấn. Nguyên nhân là do lượng lương thực xuất nội năm 2006 giảm
mạnh so với năm 2005.
Sản lượng hàng hoá xuất nội năm 2007 đạt 124,74% tăng 24,74% so với năm
2006 số tuyệt đối là 38.467 tấn. Nguyên nhân, tuy các mặt hàng khác có giảm nhưng
không đáng kể, nhưng mặt hàng chính là sản lượng gạo năm 2007 tăng đáng kể làm
cho sản lượng hàng hoá xuất nội năm 2007 tăng so với năm 2006
Nhập nội
Sản lượng hàng hoá nhập nội của Cảng Cần Thơ năm 2006 đạt 104,1% tăng
4,1% số tuyệt đối là 14.956 tấn so với năm 2005. Nguyên nhân là do sản lượng xi
măng và phân bón nhập nội năm 2006 tăng đáng kể so với năm 2005, tuy các mặt
hàng khác đặt biệt là than đá giảm một lượng khá cao, các mặt hàng khác có giảm
nhưng không đáng kể, hàng hoá nhập nội của Cảng Cần Thơ chủ yếu là than đá, xi
măng, hàng container.
Sản lượng hàng hoá nhập nội năm 2007 so với năm 2006 sản lượng nhập nội
năm 2007 đạt 127,84% tăng 27,84% số tuyệt đối là 106.256 tấn.
Nhìn chung sản lượng hàng hoá nhập nội tăng qua các năm cả về số tương
đối và số tuyệt đối nguyên nhân là do nền kinh tế của Việt Nam ngày càng phát triển
và để đáp ứng nhu cầu hội nhập thì nhu cầu về sự trao đổi, lưu thông hàng hoá ngày
càng cao.
Sản lượng hàng hoá thông qua Cảng Cần Thơ ngày càng tăng một phần là do sản
lượng hàng hoá của đồng bằng sông Cửu Long có nhu cầu trao đổi ngày càng tăng
và Cảng Cần Thơ đã biết khai thác và phát huy thế mạnh của vùng đồng bằng sông
Cửu Long, không những góp phần làm tăng hiệu quả hoạt động kinh tế của Cảng
Cần Thơ mà còn góp phần tạo đầu ra cho sản phẩm của đồng bằng sông Cửu Long.
51
Bảng 9: BẢNG ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH SẢN
LƯỢNG CỦA CẢNG CẦN THƠ THEO CHIỀU HÀNG NĂM 2007
Sản lượng năm
2007
(tấn)
Chênh lệch giữa kế
hoạch với thực hiện
S
T
T
Chiều hàng
Kế
hoạch
Thực
hiện
Số tuyệt
đối
(tấn)
Số
tương
đối
(%)
Số
tương
đối
nhiệm
vụ kế
hoạch
(%)
Số
tương
đối
hoàn
thành
kế
hoạch
(%)
1 Xuất ngoại 59.500 413.017 353.517 594,15 113,10 694,15
2 Nhập ngoại 260.000 211.123 -48.877 -18,80 90,96 81,2
3 Xuất nội 164.000 193.927 29.927 18,25 105,49 118,25
4 Nhập nội 366.500 487.885 121.385 33,12 96,04 133,12
5 Tổng cộng 850.000 1.305.952 455.952 53,64 97,08 153,64
Qua bảng đánh giá tình hình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ năm 2007
Sản lượng hàng hoá xuất ngoại của Cảng Cần Thơ không những hoàn thành mà
còn vượt mức kế hoạch đề ra nhiệm vụ kế hoạch năm 2007. Sản lượng hàng hoá
xuất ngoại của Cảng Cần Thơ chỉ cần đạt 113,1 % sản lượng thực hiện của năm
2006 nhưng sản lượng hàng hoá xuất ngoại thực hiện của Cảng Cần Thơ đã đạt
694,15 % so với kế hoạch đã đề ra vượt 595,15 % so với kế hoạch đã đề ra, số tuyệt
đối là tăng 353.517 tấn. Vượt quá cao so với kế hoạch đã đề ra nguyên nhân là do
sản lượng tràm xuất khẩu năm 2007 tăng mạnh nguyên nhân là do sự cố gắng nhiệt
tình của Ban Giám đốc Cảng Cần Thơ đã tìm được nguồn hàng gỗ tràm và đã thuyết
phục các doanh nghiệp Trung Quốc chọn Cảng Cần Thơ làm nơi thu mua cây tràm
của đồng bằng sông Cửu Long vì sản lượng tràm của đồng bằng sông Cửu Long
nhiều, thân cây nhẹ nên dù tàu chở đầy tràm thì mơn nước vẫn thấp, dễ ra vào cửa
biển Định An.
52
Sản lượng hàng hoá nhập ngoại năm 2007 với số tương đối nhiệm vụ kế hoạch
đạt 90,96 % so với thực hiện năm 2006 nhưng thực tế năm 2007 sản lượng hàng hoá
nhập ngoại hoàn thành được 81,2 % sản lượng kế hoạch đã đề ra, do vậy năm 2007
Cảng Cần Thơ không hoàn thành kế hoạch về sản lượng hàng hoá nhập ngoại, sản
lượng không hoàn thành là 18,8 %, số tuyệt đối là giảm 48.877 tấn so với kế hoạch
đã đề ra năm 2007.
Sản lượng hàng hoá xuất nội năm 2007, với số tương đối nhiệm vụ kế hoạch
105,49 % so với năm 2006 tăng 5,49 % sản lượng thực hiện năm 2006. Sản lượng
thực hiện năm 2007, với số tương đối hoàn thành kế hoạch đạt 118,25 % vượt
18,25% so với kế hoạch đã đề ra. Như vậy sản lượng hàng hoá xuất nội năm 2007
không những đã hoàn thành kế hoạch đã đề ra mà còn vượt kế hoạch với số tương
đối là 29.927 tấn.
Sản lượng hàng hoá nhập nội năm 2007, với số tương đối nhiệm vụ kế hoạch là
đạt 96,04% sản lượng hàng hoá nhập nội thực hiện năm 2006. Năm 2007 với số
tương đối hoàn thành kế hoạch là 133,12 % Cảng Cần Thơ không những hoàn
thành kế hoạch đã đề ra mà còn vượt mức kế hoạch đã đề ra là 33,12 %, số tuyệt đối
là 121.385 tấn.
Tóm lại, với bảng đánh giá khả năng hoàn thành kế hoạch của Cảng Cần Thơ ta
thấy chỉ có sản lượng hàng hoá nhập ngoại là không hoàn thành kế hoạch, còn việc
thực hiện theo các chiều hàng khác thì không những Cảng Cần Thơ đã hoàn thành
mà còn vượt mức kế hoạch đã đề ra. Qua đó ta nhận thấy Cảng Cần Thơ ngày càng
hoạt động có hiệu quả nhưng cần chú ý hơn trong việc đề ra kế hoạch thực hiện sản
lượng theo chiều hàng xuất ngoại do vượt mức quá xa so với kế hoạch đã đề ra, sản
lượng hàng hoá nhập ngoại không hoàn thành kế hoạch đã đề ra.
4.3. Phân tích tình hình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ theo loại hàng
4.3.1. Ý nghĩa và mục đích
4.3.1.1.Ý nghĩa.
Tuỳ theo từng đặc điểm khác nhau của hàng hoá mà mỗi hàng hoá có cách
đóng gói khác nhau được tạo thành nhiều loại hàng khác nhau. Mỗi loại hàng khác
nhau sẽ có phương pháp đóng gói và vận chuyển và xếp dỡ khác nhau. Có nhiều loại
53
hàng khác nhau là do nhu cầu về an toàn, đảm bảo chất lượng hàng hoá hay tiết
kiệm bao bì, cách đóng gói để giảm chi phí,…. Mỗi phương pháp vận chuyển và
xếpdỡ khác nhau đòi hỏi phải có phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật phù hợp với
từng loại hàng khác nhau.
Nguyên nhân tác động đến sản lượng hàng hoá là nhiều nguyên nhân khác
nhau tác động. Nguyên nhân khác quan là do sự biến động của hàng hoá, sự tiết
kiệm về bao bì để giảm chi phí cho hàng hoá, …..
Nguyên nhân chủ quan là do nhu cầu về trang thiết bị kỹ thuật của cảng
không đủ để đáp ứng nhu cầu vận chuyển của khách hàng, điều này cũng có thể dẫn
đến việc sản lượng hàng hoá qua cảng giảm.
So sánh sự biến động của tùng loại hàng hoá từ đó tìm ra nguyên nhân gây ra
sự biến động đó để tìm cách khắc phục khuyết điểm, hạn chế những khó khăn.
4.3.1.2.Mục đích
Đánh giá sự tăng giảm của từng loại hàng hoá qua các năm. Tìm ra nguyên
nhân của sự biến động đó và đưa ra biện pháp để khắc phục.
Bảng 10: BẢNG BÁO CÁO TÌNH HÌNH THỰC HIỆN
SẢN LƯỢNG THEO LOẠI HÀNG CỦA CẢNG CẦN THƠ NĂM 2005 - 2007
Đơn vị tính: Tấn
S
T
T
Loại hàng
Thực hiện
năm 2005
Thực hiện
năm 2006
Thực hiện
năm 2007
1 Hàng bao 241.250 259.361 272.557
2 Hàng xá 328.799 191.803 427.957
3 Container 159.238 158.422 198.206
4 Gỗ 56.927 167.428 137.496
5 Hàng bó, hàng kiện 28.113 44.326 217.683
6 Hàng khác 65.059 54.191 52.053
Tổng cộng 879.386 875.531 1.305.952
( Nguồn: Phòng kế họach và đầu tư)
54
Bảng 11: BẢNG ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN SẢN LƯỢNG CỦA
CẢNG CẦN THƠ THEO LOẠI HÀNG NĂM 2005 – 2007.
Chênh lệch năm 2006
so với năm 2005
Chênh lệch năm 2007
so với năm 2006
S
T
T
Loại hàng
Số tuyệt
đối (tấn)
Số tương
đối (%)
Số tuyệt
đối (tấn)
Số tương
đối (%)
1 Hàng bao 18.111 7,51 13.196 5,09
2 Hàng xá -136.996 -41,67 236.154 123,12
3 Container -816 -0,51 39.784 25,11
4 Gỗ 110.501 194,11 -29.932 -17,88
5 Hàng bó, hàng kiện 16.213 57,67 173.357 391,10
6 Hàng khác -10.868 -16,70 -2.138 -3,95
Tổng cộng -3.855 -0,44 430.421 49,16
4.3.2.Phân tích tình hình của từng chỉ tiêu loại hàng.
Hàng bao
Hàng bao là loại hàng hoá được đựng trong bao.
Hàng bao là loại hàng tăng đều qua các năm ít có sự biến động, chiếm tỷ trọng
lớn trong loại hàng bao là lương thực và xi măng.
Sản lượng hàng bao năm 2006 đạt 107,51 % tăng 7,51 % so với năm 2005, số
tuyệt đối là tăng 18.111tấn. Nguyên nhân là sản lượng xi măng, phân bón tăng lên
đáng kể trong năm 2006 so với năm 2005 nhưng do sản lượng lương thực trong năm
2006 giảm đáng kể so với năm 2005 nên sản lượng loại hàng bao có tăng nhưng
không đáng kể.
Sản lượng hàng bao năm 2007 đạt 105,09% tăng 5,09% so với sản lượng hàng
bao năm 2006 số tuyệt đối là tăng 13.196 tấn. Nguyên nhân là do sản lượng lương
thực, thức ăn gia súc tăng lên đáng kể nhưng do sản lượng xi măng giảm đáng kể
nên sản lượng loại hàng bao năm 2007 có tăng so với năm 2006 nhưng không đáng
kể.
55
Hàng xá
Hàng xá là các mặt hàng bao gồm than đá, clinker, bã đậu nành, cát vàng xuất
khẩu, thạch cao.
Sản lượng hàng xá năm 2006 đạt 58,33% giảm 41,67 % so với sản lượng hàng
xá năm 2005, số tuyệt đối là giảm 136.996 tấn . Nguyên nhân sản lượng hàng xá
năm 2006 giảm mạnh so với năm 2005 là do các mặt hàng than đá, clinker giảm
mạnh, tuy các mặt hàng khác có tăng nhưng không đáng kể dẫn đến sản lượng theo
loại hàng xá năm 2006 giảm mạnh so với năm 2005.
Sản lượng hàng xá năm 2007 đạt 223,12 % so với sản lượng hàng xá năm 2006
tăng 123,12 %, số tuyệt đối là tăng 236.154 tấn. Nguyên nhân là do sản lượng cát
xuất khẩu và thạch cao tăng mạnh tuy sản lượng than đá có giảm nhưng giảm nhẹ
nên sản lượng hàng xá năm 2007 tăng mạnh so với năm 2006 và kế hoạch đã đề ra.
Container
Sản lượng hàng container năm 2006 đạt 9,49 %, giảm 0,51 % so với sản lượng
hàng container năm 2005, số tuyệt đối là giảm 816 tấn.
Sản lượng hàng container năm 2007 đạt 125,11 % tăng 25,11 % so với sản lượng
hàng contianer năm 2006, số tuyệt đối là tăng 39.784 tấn.
Tóm lại, sản lượng hàng container qua các năm 2005 đến 2007 ít có biến động,
giảm nhẹ năm 2006 so với sản lượng hàng container năm 2005 nhưng sản lượng
hàng container năm 2007 tăng cao hơn so với sản lượng hàng container năm 2006.
Theo xu hướng vận tải của thế giới là những loại tàu lớn, có nhu cầu sử dụng bến
container và cần những phương tiện bốc xếp hiện đại, đó là xu hướng chung của vận
tải thế giới, Cảng Cần Thơ đã nhìn thấy xu hướng phát triển vận tải của thế giới
trong hiện tại cũng như trong tương lai nhưng hiện tại Cảng Cần Thơ không thể đáp
ứng được nhu cầu của vận tải thế giới. Hiện tại Cảng Cần Thơ tiếp tục đầu tư vào hệ
thống kho bãi và phương tiện để bốc xếp hàng container phục vụ khu công nghiệp
Trà Nóc 1,2, cùng với hàng hoá nông sản của cảng sau này. Khi luồng Định An
được được khai thông, mở luồng mới Quan Bố Chánh tạo đà cho đồng bằng sông
Cửu Long phát triển. Mặt hàng container là một trong những mục tiêu mà Cảng Cần
Thơ được hướng phát triển xây dựng các bãi nhà kho chứa các hàng container, mua
56
sắm trang thiết bị để phục vụ nhu cầu ngày càng tốt hơn của xã hội, hàng container
có nhiều loại khác nhau tuy nhiên đồng bằng sông Cửu Long là nuôi trồng và xuất
khẩu thuỷ hải sản lớn của nước ta, nhu cầu về hàng đông lạnh cũng tăng cao.
Container là một trong những phương tiện vận chuyển đạt hiệu quả cao nhất, được
hầu hết các công ty thuỷ hải sản hay các công ty khác sử dụng vận chuyển qua các
cảng trước khi xuất khẩu sang nước ngoài. Mặt khác, Cảng Cần Thơ có vị trí địa lý
thuận lợi nằm kế khu công nghiệp Trà Nóc, các nhà máy chế biến thuỷ hải sản như
Nam Hải, … vận chuyển hàng hoá đông lạnh chủ yếu là qua Cảng Cần Thơ.
Xuất nhập khẩu hàng hoá bằng container của các doanh nghiệp tại khu công
nghiệp Trà Nóc đều phải kéo container về Cảng Cần Thơ từ đó được xếp lên tàu về
cảng Sai Gòn để kết nối tiếp lên tàu mẹ. Tuy nhiên có một khó khăn khách quan rất
lớn cản trở công việc lưu thông hàng hoá của các nhà máy trên khu công nghiệp Trà
Nóc cũng như là một nguyên nhân làm giảm sản lượng hàng container hiện nay của
Cảng Cần Thơ đó là sức chịu trọng tải của cầu Trà Nóc thấp, không đáp ứng được
nhu cầu vận chuyển hàng hoá đông lạnh của các nhà máy đến Cảng Cần Thơ. Điều
này không những ảnh hưởng đến sản lượng thực hiện của cảng Cần Thơ mà còn ảnh
hưởng nghiêm trọng đến các doanh nghiệp, làm tăng chi phí vận chuyển hàng hoá
khi phải chia nhỏ hàng hoá ra, làm giảm chất lượng hàng hoá sản phẩm nhất là sản
phẩm đông lạnh. Vì vậy việc sửa chữa cơ sở hạ tầng giao thông là rất quan trọng
trong việc phát triển kinh tế vùng.
57
Bảng 12: BẢNG BÁO CÁO CONTAINER HÃNG TÀU NĂM 2005 – 2007
Đơn vị tính: cont
Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
Loại
container
20’ 40’ 20’ 40’ 20’ 40’
Nhập 6.303 6.198 7.883
Có hàng 1.996 1.032 2.381 700 3.140 1.123
Rỗng 1.584 1.535 1.608 1.407 1.863 1.580
Đông lạnh 35 121 29 73 77 100
Xuất 6.570 6.375 7.676
Có hàng 880 283 992 217 1.172 164
Rỗng 2.155 1.268 2.277 927 2.939 1.268
Đông lạnh 726 1.258 762 1.200 795 1.338
Tổng cộng 12.873 12.573 15.559
( Nguồn: Phòng kế hoạch và đầu tư)
Qua bảng báo cáo ta thấy sản lượng hàng container ra vào cảng năm 2005 - 2007
giảm nhẹ năm 2006, nhưng tăng mạnh năm 2007. Điều này cho thấy Cảng Cần Thơ
tuy không khai thác hết công suất nhưng cũng đang trong xu thế chung của vận tải
Việt Nam nói chung và của đồng bằng sông Cửu Long nói chung.
Gỗ
Sản lượng gỗ năm 2006 đạt 294,11 % tăng 194,11%, tăng vọt so với năm 2005,
số tuyệt đối là 110.501 tấn. Nguyên nhân sản lượng gỗ năm 2006 tăng vọt so với
năm 2005 là do sản lượng gỗ nhập ngoại tăng mạnh trong năm 2006.
Sản lượng gỗ năm 2007 đạt 82,12 % giảm 17,88 % so với năm 2006, số tuyệt
đối là giảm 29.932 tấn là do sản lượng gỗ nhập ngoại năm 2007 giảm so với năm
2006.
58
Hàng bó, hàng kiện
Hàng bó, hàng kiện bao gồm các mặt hàng: sắt xây dựng, gỗ tràm xuất khẩu,
gạch tàu, bia.
Sản lượng hàng bó, hàng kiện năm 2006 đạt 157,67 % so với năm 2005 tăng
57,67 %, số tuyệt đối là tăng 16.213 tấn. Nguyên nhân là do lượng sắt thép năm
2006 tăng mạnh so với năm 2005.
Sản lượng hàng bó, hàng kiện năm 2007 đạt 491,1 % tăng 391,1% so với năm
2006, số tuyệt đối là tăng 173.357tấn. Nguyên nhân tăng mạnh của mặt hàng trên là
do sản lượng gỗ tràm xuất khẩu tăng mạnh, tuy mặt hàng sắt xây dựng có giảm
nhưng không đáng kể nên sản lượng hàng bó, hàng kiện năm 2007 tăng vọt.
Hàng khác
Sản lượng các loại hàng khác có giảm nhưng hàng khác là các mặt hàng có đóng
góp cho quá trình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ nhưng sự đóng góp đó
không đáng kể trong tổng sản lượng mà cảng đạt được nên sự tăng giảm của các loại
hàng khác cũng không ảnh hưởng lớn đến tình hình thực hiện sản lượng của Cảng
Cần Thơ.
59
Bảng 13: BẢNG ĐÁNH GIÁ TỶ LỆ ĐÓNG GÓP CỦA TỪNG LOẠI
HÀNG TRONG TỔNG SẢN LƯỢNG HÀNG HOÁ CỦA
CẢNG CẦN THƠ NĂM 2005 - 2007
Thực hiện năm 2005
Thực hiện năm
2006
Thực hiện năm 2007
S
T
T
Loại hàng Sản
lượng
(tấn)
Tỷ trọng
(%)
Sản
lượng
(tấn)
Tỷ trọng
(%)
Sản
lượng
(tấn)
Tỷ trọng
(%)
1 Hàng bao 241.250 27,43 259.361 29,62 272.557 20,87
2 Hàng xá 328.799 37,39 191.803 21,91 427.957 32,77
3 Container 159.238 18,11 158.422 18,09 198.206 15,18
4 Gỗ 56.927 6,47 167.428 19,12 137.496 10,53
5
Hàng bó,
hàng kiện
28.113 3,20 44.326 5,06 217.683 16,67
6 Hàng khác 65.059 7,40 54.191 6,20 52.053 3,98
Tổng cộng 879.386 100 875.531 100 1.305.952 100
60
Năm 2005
hàng bao,
27.43%
hàng xá, 37.39%
hàng container,
18.11%
gỗ, 6.47%
hàng bó, hàng
kiện, 3.20%
hàng khác,
7.40%
Năm 2006
hàng bao,
29.62%
hàng xá, 21.91%hàng container,
18.09%
gỗ, 19.12%
hàng bó, hàng
kiện, 5.06%
hàng khác,
6.20%
Năm 2007
hàng bao,
20.87%
hàng xá, 32.77%hàng container,
15.18%
gỗ, 10.53%
hàng bó,hàng
kiện, 16.67%
hàng khác,
3.98%
Biểu đồ đánh giá sự đóng góp của từng loại hàng trong cơ cấu tổng sản lượng
hàng hoá thông qua của Cảng Cần Thơ qua các năm 2005 - 2007
61
Qua biểu đồ đánh giá sự đóng góp của từng loại hàng trong cơ cấu tổng sản
lượng hàng hoá thông qua của Cảng Cần Thơ qua các năm 2005 – 2007 ta thấy có
sự chuyển dịch cơ cấu giữa các loại hàng.
Năm 2005 tỷ lệ đóng góp cao nhất trong tổng sản lượng thông qua năm 2005
cảu Cảng Cần Thơ là loại hàng xá, sau đó là hàng bao, hàng container, các loại hàng
khác, gỗ và hàng bó hàng kiện.
Năm 2006 tỷ lệ đóng góp cao nhất trong tổng sản lượng thông qua năm 2006
của Cảng Cần Thơ là loại hàng bao, tiếp đến là hàng xá, hàng container, hàng gỗ,
các loại hàng khác và hàng bó hàng kiện.
Năm 2007 tỷ lệ đóng góp cao nhất trong tổng sản lượng thông qua năm
20067 của Cảng Cần Thơ là loại hàng xá, hàng bao, hàng bó hàng kiện, hàng
container, gỗ, và các loại hàng khác.
Qua chuyển dịch cơ cấu về sự đóng góp từng loại hàng trong tổng sản lượng
hàng hoá thông qua của Cảng Cần Thơ qua các năm, rõ nhất là năm 2007 cho thấy
Cảng Cần Thơ đã có sự chuyển tuy Cảng Cần Thơ có tìm thêm nguồn hàng mới, đa
dạng hoá sản phẩm nhưng Cảng Cần Thơ vẫn không ngừng hướng chú trọng vào các
mặt hàng chủ yếu. Mua sắm trang thiết bị xếp dỡ, kho bãi phù hợp với các loại hàng
chủ yếu đáp ứng và thoã mãn tốt nhu cầu của khách hàng, làm hài lòng khách hàng
khi hàng hoá của họ thông qua Cảng Cần Thơ.
62
Bảng 14: BẢNG ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH
THEO TỪNG LOẠI HÀNG CỦA CẢNG CẦN THƠ NĂM 2005 - 2007
Chênh lệch thực
hiện so với kế hoạch
năm 2007
S
T
T
Loại hàng
Kế hoạch
năm
2007
Thực hiện
năm 2007
Số tuyệt
đối (tấn)
Số
tương
đối
(%)
Số
tương
đối
nhiệm
vụ kế
hoạch
(%)
Số
tương
đối
hoàn
thành
kế
hoạch
(%)
1 Hàng bao 238.500 272.557 34.057 14,23 91,96 114,28
2 Hàng xá 203.500 427.957 224.457 110,30 106,10 210,30
3 Container 178.000 198.206 20.206 11,35 112,36 111,35
4 Gỗ 150.000 137.496 -12.504 -8,34 89,59 91,66
5
Hàng bó,
hàng kiện
33.000 217.683 184.683 559,65 74,45 659,65
6 Hàng khác 47.000 52.053 5.053 10,75 86,73 110,75
Tổng cộng 850.000 1.305.952 455.952 53,64 97,08 153,64
Sản lượng loại hàng bao năm 2007 đạt 114,23 % vượt 14,23 % so với kế hoạch
đã đề ra, số tuyệt đối là vượt 34.057 tấn.
Sản lượng loại hàng xá năm 2007 đạt 210,3 % vượt 110,3 % so với kế hoạch đã
đề ra, số tuyệt đối là vượt 224.457 tấn
Sản lượng loại hàng container năm 2007 đạt 111,35 % vượt 11,35 % so với kế
hoạch đã đề ra, số tuyệt đối là vượt 20.206 tấn.
Sản lượng loại hàng bó, hàng kiện năm 2007 tăng đáng kể đạt 659,65 % tăng
559,65 %, số tuyệt đối là vượt 184.683 tấn.
63
Sản lượng của các loại hàng khác năm 2007 đạt 110,75 % vượt 10,75 % so với
kế hoạch đã đề ra, số tuyệt đối là vượt 5.053 tấn.
Số tương đối nhiệm vụ kế hoạch đề ra cho năm 2007 tương đối thấp đa số các
loại hàng trong kế hoạch như hàng bao, hàng gỗ, hàng bó, hàng kiện, hàng khác năm
2007 đưa ra đều thấp hơn sản lượng thực hiện năm 2006, chỉ có hàng xá và hàng
container theo kế hoạch đã đề ra cho năm 2007 là tăng lên so với sản lượng thực
hiện năm 2006.
Nhìn chung, năm 2007 Cảng Cần Thơ đã không những hoàn thành kế hoạch đã
đề ra theo loại hàng mà còn vượt mức kế hoạch sản lượng đã đề ra, vượt cao so với
kế hoạch đặc biệt là loại hàng bó, hàng kiện vựơt 559,65 %. Nguyên nhân là do sản
lượng gỗ tràm xuất khẩu năm 2007 là loại hàng mới mà Cảng Cần Thơ đã khai thác
được, nên sản lượng tràm xuất khẩu Cảng Cần Thơ không đưa ra trong kế hoạch
thực hiện. Như vậy cho thấy sự cố gắng nỗ lực của Cảng Cần Thơ trong việc tìm
nguồn hàng và khách hàng mới cho cảng.
4.4. Phân tích tình hình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ theo mặt hàng
4.4.1. Ý nghĩa và mục đích
4.4.1.1. Ý nghĩa
Mặt hàng là sự đóng góp của từng loại sản phẩm vào tổng sản lượng của
Cảng Cần Thơ. Phân tích sự biến động, thay đổi sản lượng của từng mặt hàng
riêng biệt cho phép ta đánh giá một cách cụ thể hơn, chính xác hơn, xác định
nguyên nhân tăng giảm rõ ràng hơn.
Từng mặt hàng khác nhau sẽ có phương án bảo quản, dự trữ và vận chuyển
khác nhau.
Mỗi mặt hàng có những đặc điểm, tính chất riêng biệt, theo mùa vụ như
lương thực,…. Một số mặt hàng theo những chiều hàng nhất định như lương thực
theo chiều hàng là xuất ngoại, xuất nội; còn clinker thì theo chiều nhập ngoại, nhập
nội.
64
4.4.1.2. Mục đích
Đánh giá sự biến động của từng mặt hàng từ đó tìm ra nguyên nhân của sự
biến động đó và đưa ra biện pháp để khắc phục.
Bảng 15: BẢNG BÁO CÁO TÌNH HÌNH THỰC HIỆN SẢN LƯỢNG
THEO MẶT HÀNG CỦA CẢNG CẦN THƠ NĂM 2005-2007
Đơn vị tính: Tấn
S
T
T
Mặt hàng
Thực hiện
năm 2005
Thực hiện
năm 2006
Thực hiện
năm 2007
1 Lương thực 105.802 72.437 112.377
2 Xi măng 81.842 134.444 112.036
3 Than đá 130.852 84.544 77.837
4 Gỗ tràm xuất khẩu - - 130.000
5 Thạch cao 53.502 59.262 62.111
6 Phân bón 13.938 21.350 -
7 Gỗ 56.927 169.018 286.350
8 Container 159.238 158.422 198.206
9 Đưòng 16.231 3.418 -
10 Sắt thép 28.113 34.848 61.502
11 Bột mì 7.853 5.974 7.428
12 Clinker 144.445 47.997 39.271
13 Thức ăn gia súc 15.584 17.669 37.934
14 Đá, cát 21.670 24.835 271.386
15 Nhựa đường 16.441 13.096 12.359
16 Hàng khác 26.948 28.217 27.155
Tổng cộng 879.386 875.531 1.305.952
( Nguồn: Phòng kế họach và đầu tư)
65
4.4.2. Phân tích tình hình của từng chỉ tiêu mặt hàng.
Bảng 16: BẢNG ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN SẢN LƯỢNG
THEO MẶT HÀNG CỦA CẢNG CẦN THƠ NĂM 2005 -2007.
Chênh lệch năm 2006 so với
năm 2005
Chênh lệch năm 2007 so với
năm 2006
S
T
T
Mặt hàng
Số tuyệt đối
(tấn)
Số tương đối
(%)
Số tuyệt đối
(tấn)
Số tương
đối (%)
1 Lương thực -33.365 -31,54 39.940 55,14
2 Xi măng 52.602 64,27 -22.408 -16,67
3 Than đá -46.308 -35,39 -6.707 -7,93
4 Gỗ tràm xuất khẩu - - 130.000 -
5 Thạch cao 5.760 10,77 2.849 4,81
6 Phân bón 7.412 53,18 -21.350 -100,00
7 Gỗ 112.091 196,90 117.332 69,42
8 Container -816 -0,51 39.784 25,11
9 Đường -12.813 -78,94 -3.418 -100,00
10 Sắt thép 6.735 23,96 26.654 76,49
11 Bột mì -1.879 -23,93 1.454 24,34
12 Clinker -96.448 -66,77 -8.726 -18,18
13 Thức ăn gia súc 2.085 13,38 20.265 114,69
14 Đá, cát 3.165 14,61 246.551 992,76
15 Nhựa đường -3.345 -20,35 -737 -5,63
16 Hàng khác 1.269 4,71 -1.062 -3,76
Tổng cộng -3.855 -0,44 430.421 49,16
Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa chiếm khoảng 90% sản lượng gạo xuất
khẩu của cả nước. Năm 2005, cả nước xuất khẩu khoảng 4,9 triệu tấn gạo (theo tổng
cục thống kê) như vậy đồng bằng sông Cửu Long xuất khẩu khoảng 4,41 triệu tấn
66
gạo trong đó sản lượng gạo qua Cảng Cần Thơ đạt 105.802 tấn chiếm khoảng 2,4 %
trong tổng sản lượng gạo xuất khẩu của đồng bằng sông Cửu Long. Chiếm một tỷ lệ
rất nhỏ trong khi Cảng Cần Thơ là cảng lớn nhất đồng bằng sông Cửu Long.
Sản lượng lương thực năm 2006 đạt 68,46% giảm 31,54% so với năm 2005, số
tuyệt đối giảm 33.365 tấn. Nguyên nhân là do sản lượng lương thực xuất ngoại và
xuất nội đều giảm. Mặt khác do chia thị phần gạo với cảng lương thực Trà Nóc.
Sản lượng gạo của năm 2005, Việt Nam đã xuất khẩu được 4,9 triệu tấn gạo,
nhưng vì để đảm bảo an ninh lương thực của quốc gia do bão lụt làm mất mùa các
tỉnh miền bắc và miền trung. Mặt khác, năm 2006 sản lượng lương thực cả nứơc đạt
khoảng 36,2 triệu tấn tăng khoảng 400.000 tấn so với năm 2005. Năm 2006 là năm
được mùa đối với các tỉnh đồng bằng sông Hồng và miền trung, các tỉnh Tây
Nguyên nhưng là năm khó khăn đối với các tỉnh miền nam do ảnh hưởng của rầy
nâu, bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá. Sản lượng lúa năm 2006 của các tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long đạt khoảng 18,45 triệu tấn, giảm gần 660.000 tấn so với năm 2005
(theo bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn), mà sản lượng lương thực của đồng
bằng sông Cửu Long chiếm 90% sản lượng gạo xuất khẩu nên sản lượng gạo của
đồng bằng sông Cửu Long giảm, từ những ảnh hưởng nêu trên đã làm ảnh hưởng
giảm sản lượng gạo xuất khẩu của đồng bằng sông Cửu Long nên sản lượng lương
thực thông qua cảng năm 2006 cũng giảm theo so với năm 2005.
Sản lượng lương thực năm 2007 đạt 155,14 % tăng 55,14 % so với sản lượng
lương thực năm 2006, số tuyệt đối tăng 39.940 tấn. Nguyên nhân là do sản lượng
lương thực xuất nội tăng tuy sản lượng lương thực xuất ngoại giảm nhưng sản lượng
lương thực xuất nội tăng nhiều hơn nên sản lượng lương thực thông qua Cảng Cần
Thơ năm 2007 tăng so với năm 2006.
Năm 2007 sản lượng gạo xuất khẩu cả nước đạt khoảng 4,37 triệu tấn (theo hiệp
hội lương thực Việt Nam), đồng bằng sông Cửu Long chiếm khoảng 3,93 triệu tấn.
sản lượng lương thực thông qua Cảng Cần Thơ đạt 112.377 tấn chiếm 3,11 % vẫn
chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng sản lượng xuất khẩu nhưng tỷ lệ này đã tăng lên
so với năm 2005 và năm 2006. Sản lượng lương thực năm 2007 tăng lên là do nhà
nước đã kiểm soát được tình hình dịch, sâu bệnh nên sản lượng lúa tăng lên. Tuy
67
nhiên để đảm bảo an ninh lương thực trong năm 2008, sản lượng lương thức xuất
khẩu ở nước ta có thể giảm so với năm 2007 dẫn đến sản lượng lương thực thông
qua cảng trong năm 2008 cũng có thể giảm theo, vì đồng bằng sông Cửu Long là
vựa lúa lớn nhất nước ta.
Sản lượng mặt hàng xi măng năm 2006 đạt 164,27 % tăng 64,27% so với sản
lượng xi măng năm 2005, số tuyệt đối là tăng 52.602 tấn. Nguyên nhân là do sản
lượng xi măng xuất nội và sản lượng xi măng nhập nội thông qua cảng Cần Thơ đều
tăng trong năm 2006 so với sản lượng xi măng thông qua Cảng Cần Thơ năm 2005.
Sản lượng mặt hàng xi măng năm 2007 đạt 83,33 % giảm 16,67 %, số tuyệt đối
giảm 22.408 tấn so với sản lượng mặt hàng xi măng thông qua Cảng Cần Thơ năm
2006. Nguyên nhân là do sản lượng hàng hóa xi măng xuất nội và nhập nội thông
qua Cảng Cần Thơ đều giảm so với sản lượng hàng hoá xi măng thông qua Cảng
Cần Thơ năm 2006.
Sản lượng của mặt hàng sắt thép, đá cát, tăng là do nhu cầu xây dựng tăng, Cảng
Cần Thơ đã xây dựng chặt chẽ với các cảng khác trong khu vực. Do đó, nhiều lô
hàng thuộc dạng siêu trường, siêu trọng phục vụ các công trình trọng điểm của vùng
như cầu Cần Thơ, cụm khí điện đạm Cà Mau …. đều tập trung về Cảng Cần Thơ
nên sản lượng sắt thép, đá cát thông qua Cảng Cần Thơ đều tăng qua các năm từ
năm 2005 đến năm 2007.
Sản lượng mặt hàng gỗ năm 2006 đạt 296,9 %, tăng 196,9%, số tuyệt đối là tăng
112.091 tấn so với sản lượng gỗ thông qua Cảng Cần Thơ năm 2005.
Sản lượng mặt hàng gỗ năm 2007 đạt 169,42% tăng 69,42 %, số tuyệt đối là
tăng 117.332 tấn so với sản lượng gỗ thông qua Cảng Cần Thơ năm 2006.
Sản lượng gỗ tràm xuất khẩu là mặt hàng mới mà Cảng Cần Thơ đã khai thác
được.
Mặt hàng gỗ tăng qua các năm do sản lượng gỗ xuất khẩu tăng, sản lượng gỗ
xuất khẩu chủ yếu sang Trung Quốc. Ngoài ra gỗ tràm xuất khẩu cũng tăng mạnh do
cây tràm của đồng bằng sông Cửu Long đã tìm được nơi tiêu thụ, cây tràm thân nhẹ
nên mớn nước vẫn thấp, dễ ra vào nên các doanh nghiệp Trung Quốc chọn Cảng
Cần Thơ làm nơi thu mua cây tràm của vùng đồng bằng sông Cửu Long.
68
Sản lượng hàng hoá container năm 2006 đạt 99,49 % giảm 0,51 %, số tuyệt đối
là giảm 816 tấn giảm nhẹ vào năm 2006 nhưng tăng lên vào năm 2007. Sản lượng
hàng hóa container năm 2007 đạt 125,11%, tăng 25,11% số tuyệt đối là tăng 39.784
tấn so với sản lượng hàng container thông qua Cảng Cần Thơ năm 2006. Nguyên
nhân có nhiều yếu tố khách quan tuy nhiên do Cảng Cần Thơ có vị trí chiến lược
gần các khu công nghiệp Trà Nóc 1,2. Các công ty chế biến thuỷ hải sản đông lạnh
phần lớn đều vận chuyển hàng hoá qua Cảng Cần Thơ để xuất khẩu.
Tuy nhiên do hạn chế về trọng tải của cầu Trà Nóc nên cũng làm giảm đáng kể
sản lượng hàng container đến Cảng Cần Thơ. Mặc khác, cảng Mỹ Thới – An Giang
đã mở tuyến container đi thành phố Hồ Chí Minh, đã chia sẽ gần 50 thị phần công
tác xếp dỡ của Cảng Cần Thơ.
Mặt hàng clinker giảm qua các năm là do các công ty xi măng trong nước dần tự
chế được clinker, tự cung cấp clinker để sản xuất xi măng nên lượng xi măng nhập
khẩu giảm đáng kể.
Sản lượng mặt hàng than đá giảm đáng kể qua các năm 2005, năm 2006, năm
2007 là do sản lượng mặt hàng than đá xuất nội và nhập nội trong sản lượng than đá
thông qua Cảng Cần Thơ qua các năm 2005, năm 2006, năm 2007 giảm.
Sản lượng các mặt hàng khác tăng giảm qua các năm, có ảnh hưởng đến việc
thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ nhưng không đáng kể.
69
4.5. Phân tích tình hình thực hiện sản lượng của cảng Cần Thơ theo thời gian
Bảng 17: BẢNG BÁO CÁO TÌNH HÌNH THỰC HIỆN SẢN LƯỢNG
THEO THỜI GIAN CỦA CẢNG CẦN THƠ NĂM 2007.
Đơn vị tính: Tấn
Năm Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
Quí I 230.356 200.564 212.729
Quí II 244.265 223.922 421.660
Quí III 203.493 224.731 348.476
Quí IV 201.263 226.314 323.087
Tổng cộng 879.368 875.531 1.305.952
( Nguồn: Phòng kế họach và đầu tư)
4.5.1. Phân tích tình hình sản lượng của Cảng Cần Thơ theo từng quý năm
2007.
Sản lượng hàng hoá năm 2007 quí I là sản lượng đạt thấp nhất, đến quí II sản
lượng đạt cao nhất trong năm, đến quí III và quí IV thì sản lượng giảm dần nguyên
nhân là do hoạt động cảng biển phụ thuộc nhiều vào thời tiết, mùa vụ của các laọi
hàng hoá thông qua cảng, đặc biệt là phụ thuộc rất lớn vào dòng chảy, thuỷ triều của
luồng vào cảng.
Nhìn chung sản lượng c
ủa Cảng Cần Thơ giảm vào năm 2006 so với năm 2005 nhưng tăng mạnh vào
năm 2007. Nguyên nhân là do Cảng Cần Thơ đầu tư vào trang thiết bị hợp lý đáp
ứng được nhu cầu của khách hàng, có vị trí địa lý thuận lợi. Ngoài ra thương hiệu
của cảng Cần Thơ ngày càng được khách hàng tin tưởng. Cảng Cần Thơ còn xây
dựng một hệ thống khách hàng thân thiết, lâu dài bằng cách ký hợp đồng bốc xếp
với đối tác trong thời gian 5 năm với điều kiện giá thành bốc xếp không đổi, được
ưu tiên khi tàu cập cảng bù lại chủ hàng phải ứng tiền trước.
70
4.6. Phân tích tình hình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ theo phương
án xếp dỡ
Bảng 18: BẢNG BÁO CÁO PHƯƠNG ÁN BỐC XẾP CỦA
CẢNG CẦN THƠ NĂM 2007
Đơn vị tính: Tấn
Phương án xếp dõ Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
1 Cẩu tàu - 171.402 111.323
2 Cẩu cảng - 693.508 1.184.701
3 Tàu tự bơm - 10.621 9.928
Tổng cộng - 879.386 875.531 1,305,952
4 Cầu 519.515 554.579 775.736
5 Phao 359.871 320.952 530.216
( Nguồn: Phòng kế họach và đầu tư)
Dựa vào phương án xếp dỡ ta thấy Cảng Cần Thơ chủ yếu dựa vào cẩu cảng,
cẩu tàu cũng chiếm một phần nhưng nhỏ, hệ thống tàu tự bơm rất thấp. Hệ thống cầu
phao cũng không có biến động nhiều. Nhìn chung, Cảng Cần Thơ đã nhìn thấy rõ
phương án xếp dỡ chủ yếu của cảng nên đã đầu tư trang thiết bị khá đầy đủ cho hoạt
động này.
Tóm lại, với trang thiết bị kỹ thuật hiện có Cảng Cần Thơ đáp ứng đầy đủ nhu
cầu của khác hàng, ngoài ra Cảng Cần Thơ còn hợp tác ký hợp đồng lâu dài với các
khách hàng, hợp tác bốc xếp với cảng Cái Cui. tổ cẩu bờ và cẩu tàu của Cảng Cần
Thơ đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
71
CHƯƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
Nhìn chung, thông qua quá trình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ ta nhận
thấy Cảng Cần Thơ ngày càng hoạt động có hiệu quả, có các chính sách như khách
hàng thân thiết vừa đảm bảo nguồn sản lượng cho Cảng Cần Thơ trong thời gian tới,
vừa ứng được tiền trước để mua sắm trang thiết bị hiện tại phục vụ nhu cầu sản xuất,
đáp ứng nhu cầu cao của khách hàng. Mặt khác Cảng Cần Thơ cũng thực thi chế độ
thực hành tiết kiệm, tránh lãng phí, xây dựng kế hoạch thu chi cụ thể, đảm bảo chủ
động trong các khoản thu chi, hạch toán kinh doanh có hiệu quả.
Cảng Cần Thơ năm ở vị trí tương đối thuận lợi trong việc lưu thông tuy nhiên
do những điều kiện khách quan nên cảng Cần Thơ không thể hoạt động hết công
suất của mình, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật để đáp ứng cho tàu có trọng tải lớn
cập bến, nhưng do luồng cửa Định An bị bồi lắng nên tàu lớn không thể cập cảng
được nhưng không vì vậy mà cảng Cần Thơ đứng im, cảng Cần Thơ đã chủ động
tìm nguồn hàng mới, khách hàng mới đồng thời cũng xây dựng kế hoạch phát triển
khi luồng Định An được khai thông hay kênh Quan Chánh Bố được thành lập, tạo
luồng vào cho tàu có trọng tải lớn cập cảng .
Mặt khác cơ sở hạ tầng, giao thông chưa đủ để đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng
hoá của các công ty đến cảng nên cũng gây khó khăn cho hoạt động của cảng, làm
giảm lượng hàng hoá đến cảng..
5.2. Kiến nghị
Đối với Nhà Nước
Nhà nước cần phải có sự quản lý chặt chẽ của hoạt động vận tải cũng như hoạt
động cảng biển tạo nên một sự cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động của các cảng
biển.
Nâng cấp và sữa chữa cơ sở hạ tầng giao thông hiện có (hiện tại là cầu Trà Nóc)
để góp phần thu hút nguồn đầu tư của nước ngoài, hạ giá thành sản phẩm do chi phí
vận chuyển thấp khi cơ sở hạ tầng đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế nâng cao
khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Giao thông thuận lợi sẽ giảm giá thành sản
72
phẩm, làm cho sản phẩm của chúng ta cạnh trạnh hơn trên thị trường trong nước với
các hàng hoá nước ngoài nhậpvào, đồng thời cũng cạnh trạnh sản phẩm của mình
trên thị trường thế giới.
Một vấn đề cấp thiết là nhà nước cần phải khai thông luồng vào các cảng biển ở
đồng bằng sông Cửu Long bằng cách khai thông luồng Định An hay xẻ kênh Quan
Chánh Bố nhưng mở kênh Quan Chánh Bố cần phải mất một khoảng thời gian. Hiện
tại các cảng ở đồng bằng sông Cửu Long nói chung và Cảng Cần Thơ nói riêng
không hoạt động hết công suất, một phần lớn là do công suất thiết kế cho tàu coá
trọng tải lớn cập cảng nhưng do luồng vào cảng cạn nên tàu có trọng tải lớn không
thể vào cảng. Điều này làm cho các cảng ở đồng bằng sông Cửu Long lãng phí một
phần công suất thiết kế, còn các cảng như cảng Sài Gòn, cảng Vũng Tàu,… thì lại bị
quá tải, mặt khác việc vận chuyển hàng hoá lên cảng Sài Gòn cũng làm cho hệ thống
giao thông đường bộ lên thành phố Hồ Chí Minh bị quá tải. Làm tăng chi phí vận
chuyển, tốn nhiều thời gian làm ảnh hưởng đến chất lượng hàng hoá, uy tín của các
doanh nghiệp, làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá.
Đất nước chúng ta đang trong thời kỳ hội nhập nên cơ sở hạ tầng giao thông rất
quan trọng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp trong nước vươn mình ra thế giới.
Sự quản lý chặt chẽ của Nhà Nước tạo nên một sự cạnh tranh lành mạnh trong
hoạt động của các cảng biển.
Giao thông thuận lợi sẽ giảm giá thành sản phẩm, làm cho sản phẩm của chúng
ta cạnh trạnh hơn trên thị trường trong nước với các hàng hoá nước ngoài nhậpvào,
đồng thời cũng cạnh trạnh sản phẩm của mình trên thị trường thế giới.
Kiến nghị đối với Cảng Cần Thơ
Cảng Cần Thơ cần phải tăng năng suất, cải tiến chất lượng hàng hoá phục vụ tốt
hơn nữa
Sử dụng các biện pháp tiếp thị thực tế để giữ khách hàng hiện tại, nhưng cũng
không ngừng tìm kiếm khách hàng mới.
Ra sức tìm kiếm nguồn hàng mới, đặc biệt là những nguồn hàng có khả năng
khắc phục hạn chế sự bồi lắng luồng Định An
73
Liên kết với các cảng khác và các công ty xếp dỡ trong khu vực.
Tìm hiểu thông tin thị trường và xu hướng của thế giới và năng lực hiện có của
cảng để đưa ra kế hoạch thực hiện cụ thể và thực tế hơn.
Tiến hành đa dạng hoá sản phẩm
Chủ động, tích cực lắng nghe, thường xuyên lấy ý kiến của khách hàng để phục
vụ tốt hơn.
Để Cảng Cần Thơ hoạt động hết công suất đòi hỏi cán bộ công nhân viên phải nỗ
lực. Mặt khác nên khai thông luồng Cửa Định An cho tàu nước ngoài có trọng tải
lớn vào Cảng Cần Thơ vừ giảm áp lực cho cảng Sài Gòn, vừa tránh lãng phí các
công trình, cơ sở hạ tầng đã đầu tư.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo tốt nghiệp- Phân tích tình hình thực hiện sản lượng của cảng Cần Thơ năm 2007.pdf