Tóm lại, kiềm chế lạm phát không phải là một bài toán không có lời giải vấn đề là cần chấp nhận những thiệt hại nhất định cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, cho ngân sách nước nhà. Vì vậy, cần có sự đồng thuận và chia sẻ của Chính phủ, doanh nghiệp và nhân dân. Cần đặt nước ta trong nền kinh tế thế giới để có cái nhìn tổng hợp và toàn diện, chính xác hơn. Các Bộ, Ban, Ngành từ trung ương đến địa phương cầ làm hết sức mình, bằng những kế hoạch và biện pháp cụ thể để triển khai các chỉ đạo mà Chính phủ đã ban hành. Tiếp tục hoàn thiện mục tiêu chống lạm phát và kìm chế lạm phát là mục tiêu cơ bản để tăng trưởng và phát triển kinh tế ổn định xã hội, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá của nước ta trong thời gian tới. Phát huy kết quả đạt được trong những năm vừa qua, trong thời gian tới cần tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu là: nghiên cứu và tổ chức thực hiện các chính sách biện pháp bình ổn giá cả thị trường, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh mặt bằng giá, quan hệ giá sao cho phù hợp với tình hình, sản xuất và chi phí sản xuất, giữ quan hệ công nông hợp lý, cũng như quan hệ cung cầu và sự biến động của giá cả thị trường thế giới. Hoàn thiện cơ chế quản lý giá và kiểm soát giá độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh, thúc đẩy tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, mở rộng hợp tác quốc tế. Những kết quả khả quan sẽ đến với nền kinh tế Việt Nam nếu chúng ta đoàn kết và quyết tâm cao theo đường lối thống nhất của Đảng và Nhà nước ta đề ra./.
41 trang |
Chia sẻ: tienthan23 | Lượt xem: 27902 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng lạm phát ở Việt Nam từ 2008-2011 và các giải pháp kiềm chế lạm phátở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
17% so với năm 2008. Mức tăng này cũng đã được các chuyên gia dự báo ngay từ đầu năm. Tuy nhiên với những chính sách bình ổn hiện nay, dự báo chỉ số giá vàng sẽ nằm trong vòng ổn định hơn trong những tháng tới.
-Một số chuyên gia nhận định, chỉ số giá năm 2009 đang nằm trong mức như mong đợi, tuy nhiên vẫn còn một số lo ngại bởi, so với cùng kỳ năm ngoái một số mặt hàng thiết yếu vẫn đang có xu hướng tăng cao, từ 8,53 đến 9,56%.
Diễn biến làm phát hàng tháng năm 2009
-Cuộc khủng hoảng kinh tế 2008-2009 đã góp phần làm giảm lạm phát ở Việt Nam từ cuối năm 2009, giá quốc tế giảm cùng với tổng cầu giảm đã giúp Việt Nam đảo ngược xu thế đáng ngại so với năm 2008.
Năm 2010
-Diễn biến CPI năm 2010 tạo bởi mức chênh lệch giữa tháng tăng đỉnh và đáy lên đến hơn 1.5%, khá tương đồng với năm 2007. Hai điểm tăng cao nhất được tạo thành từ mức tăng xấp xỉ 2% của tháng 2 và tháng 12.
- Tết Canh dần rơi vào đầu tháng 2/2010 các mức tăng CPI hai tháng đầu năm đều trên 1% và tiến gần 2%, nhưng khác biệt trong năm nay lại rơi vào tháng 3 khi chỉ số giá tiêu dùng không giảm mạnh như các năm trước.
Trong tháng 3 bắt đầu có những đột biến:
+ NHNN công bố tỷ giá VND/ USD tăng 2% ở mức giá trần là 19.000
+ Đồng loạt áp dụng từ ngày 1/3: giá than bán cho điện tăng đến 47% tùy loại, giá điện tăng 6,8%, giá nước sạch tại Tp.HCM tăng khoảng 50%.
+ Một tác động khác gây ảnh hưởng lớn đến giá cả và tâm lý người dân, ngay trước ngày các viên chức trở lại làm việc sau kỳ nghỉ Tết kéo dài, trưa 21/2, giá xăng đột ngột được điều chỉnh tăng khoảng 3,6%.
+Tiếp theo các diễn biến này, gas, xi măng, sắt thép cũng kéo nhau tăng giá.
+ Ngay sau đó, từ ngày 15/3 những thông tin về khả năng CPI tháng sau Tết tăng cao đã được một số nguồn tin dự báo sớm. Con số chính thức sau đó chốt lại mức tăng 0,75%, chỉ kém năm 2008 đột biến nhưng tương đương năm 2004 và 1996.
-Mục tiêu được Chính phủ đặt ra lúc này là ổn định nền kinh tế, đặc biệt là kiềm chế lạm phát, tăng trưởng cung tiền cả năm giới hạn ở 20% so với cuối năm 2009; tăng trưởng tín dụng 25%.
- Trái với suy luận trong khoảng 5 tháng từ tháng 4 đến tháng 8, chỉ số giá tiêu dùng liên tục tăng rất thấp, về gần sát mức 0% (tháng 7 chỉ tăng 0,06% so với tháng 6). Xét về cao độ, các mức tăng này lập kỷ lục về độ thấp kể từ 2004.
+ Sức mua tăng đột ngột thể hiện ở tổng mức bán lẻ đi lên trong tháng 4 và đến tháng 5 đạt mức tăng gần 27% so với cung kỳ.
+ Mức tăng trưởng đi xuống dầnvà đến tháng 10/2010, giá trị sản xuất công nghiệp đã giảm 3,4% so với tháng 9.
- Trong 4 tháng cuối năm, chỉ số giá tiêu dùng liên tục duy trì ở mức cao. Có tới 3 tháng đạt kỷ lục về cao độ, cho thấy sức nóng của lạm phát đã ở gần.
+ Ngày 9/8, giá xăng dầu sau một thời gian dài được giữ cố định đã điều chỉnh tăng lên khoảng 2,5%, đẩy CPI tháng 9 vào vòng thử thách mới.
+ ngày 18/8, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa VND với USD lên mức 18.932 VND (tăng gần 2,1%) và giữ nguyên biên độ tỷ giá +/-3%.
+ Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội kéo dài 10 ngày cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chỉ số giá tiêu dùng tháng 10. Lại thêm lũ lụt diễn ra liên miên tại miền Trung kéo dài thêm chuỗi tác động đến chỉ số giá tiêu dùng giai đoạn cuối năm.
+ Khoảng trung tuần tháng 10, thị trường lại ghi nhận các đợt leo thang của giá vàng và USD, trong bối cảnh xu hướng CPI đã bắt đầu tăng cao.
+ Chính sách tiền tệ đã nới lỏng hơn, giá trị sản xuất công nghiệp tháng 11 đã tăng 4,9% so với tháng 10 và dự kiến tháng 12 này con tăng khoảng 6% so với tháng trước. Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến cũng giảm dần về mức 28% tăng hơn so với cùng kỳ.
+Lạm phát dự báo vẫn ở mức thấp trong bối cảnh dư thừa năng lực sản xuất và tỉ lệ thất nghiệp cao. Sự phục hồi giá cả hàng hóa đã làm tăng chỉ số giá tiêu dùng trên phạm vi toàn cầu. Ước tính lạm phát của các nước phát triển sẽ tăng lên mức 1,4% trong năm 2010 so với mức 0,1% trong năm 2009; lạm phát tại các nước mới nổi và đang phát triển ở mức 6,2% so với mức 5,2% của năm 2009; tại các nước đang phát triển châu Á, lạm phát dự kiến tăng lên mức 6,1% so với mức 3,1% của năm 2009 (biểu đồ 3)
Lạm phát tại các nước phát triển, các nước mới nổi và đang phát triển, các nước châu Á đang phát triển và Việt Nam (bình quân năm)
Nguồn: World Economic Outlook, IMF, 10/2010
-Trong năm 2010, chỉ số giá tiêu dùng tăng 11,75% so với tháng 12/2009, vượt xa chỉ tiêu lạm phát Quốc hội thông qua đầu năm là không quá 7% và mục tiêu Chính phủ điều chỉnh là không quá 8%. Trong đó, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 16,18%, với quyền số 39,93%, nhóm này đã đóng góp vào mức tăng chung của chỉ số CPI khoảng 6,46%, hơn một nửa mức tăng CPI của cả năm. Tiếp đến là nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt, VLXD, tăng 15,74%, với quyền số 10,01%, nhóm này góp phần làm tăng chỉ số chung khoảng 1,57%. Nhóm giáo dục có mức tăng cao nhất 19,38%, với quyền số không lớn là 5,72%, nhưng nhóm này đã đóng góp mức tăng khoảng 1,1% vào mức tăng chung của chỉ số CPI.
Diễn biến chỉ số CPI theo tháng giai đoạn 2008 – 2010
Nguồn: Tổng cục Thống kê
-Nhìn chung trong cả năm 2010, diễn biến CPI gần như song hành cùng những thay đổi chính sách vĩ mô và can thiệp thị trường từ cơ quan chức năng. Những ngày năm mới đang đến cũng đọng lại một năm lạm phát không đạt chỉ tiêu, nhưng còn neo lại những đoán định về hướng điều chỉnh chính sách có thể xuất hiện trong đầu năm tới.
Năm 2011:
-Báo chí ngoại quốc và trong nước và những cơ quan tài chánh và đầu tư quốc tế từ đầu năm tới nay nói rất nhiều đến tình trạng lạm phát nghiêm trọng ở Việt Nam. Điểm đặc biệt là trong tất cả vùng Đông và Đông Nam Á châu, ngoại trừ Việt Nam, mức lạm phát rất thấp, 1% như ở Đài Loan, 1.7% ở Mã Lai, 3.3% ở Thái Lan và cao nhất 6% ở Lào.
-Mức lạm phát tháng 1 năm 2011 là 1,74%
- Chỉ số giá tiêu dùng cả nước trong 2 tháng đầu năm tăng tổng cộng 3,78% chủ yếu do tác động của Tết. Như vậy, nếu tính toán một cách cơ học, tại thời điểm này, người ta đã “nhìn thấy” lạm phát tăng khoảng 6%. So với mục tiêu khống chế CPI dưới 7% mà Quốc hội phê chuẩn cuối năm ngoái, dư địa cho 10 tháng còn lại chỉ còn trên dưới 1%. Chỉ trong quý một năm 2011, lạm phát ở Việt Nam đã lên tới 6,1%. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, việc Việt Nam có thể giữ được lạm phát năm 2011 ở mức dưới 7% là điều khó trở thành hiện thực.
Chỉ số giá tiêu dùng, vàng và dollar mỹ 3 tháng đầu năm 2011
2011
Tháng 1
Tháng 2
Tháng 3
2010
Tháng 1
Tháng 12
Tháng 2
Tháng 12
Tháng 3
Tháng 12
Chỉ số giá tiêu dùng
112.17
101.74
112.31
103.87
113.89
106.12
Chỉ số giá vàng
133.87
99.95
136.17
99.6
141.27
104.58
Chỉ số giá đôla mỹ
109.45
99.68
110.11
100.62
112.05
103.7
-Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3/2011 tăng 2,17% so với tháng trước.
- Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, hai nhóm có chỉ số giá tăng cao hơn nhiều mức tăng chung là: Giao thông tăng 6,69%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 3,67%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá thấp hơn mức tăng chung nhưng cao hơn 1% là: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,98% (Lương thực tăng 2,18%, thực phẩm tăng 1,57%, ăn uống ngoài gia đình tăng 3,06%); thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,22%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá bằng hoặc dưới mức 1% gồm; May mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,0%; văn hóa giải trí và du lịch tăng 0,98%; giao dục tăng 0,9%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,88%; thuốc và dịch không tăng so với tháng trước, nhưng chỉ số giá tháng Ba năm nay cao hơn vụ y tế tăng 0,71%; bưu chính viễn thông tăng 0,02%.
-Chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng tăng dần và ở mức cao trong ba tháng đầu năm. Tháng Ba thường là tháng sau Tết Nguyên đán nên thị trường giá cả nhiều so với mức tăng cung kỳ của 5 năm trở lại đây, và gần bằng mức 2,99% của năm 2008, năm lạm phát tăng cao ở hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Vào tháng Ba năm nay chỉ số này tăng 13.9% so với một năm về trước và tiếp tục đi lên trong tháng Tư với con số 17.5%. Theo Tổng Cục Thống Kê của nhà nước đây là con số cao nhất kể từ tháng 12, 2008. Cũng theo cơ quan này sự gia tăng của chỉ số tiêu thụ là do sự gia tăng của chi phí giáo dục, lương thực, thực phẩm, nhà ở, và vật liệu xây cất.
-Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến tháng 4/2011, chỉ số giá tiêudùng (CPI) của Việt Nam đã tăng tới 9,64%, đã cao hơn mục tiêu kiềm chế ở 7% mà Quốc hội thông qua đầu năm.
-Tốc độ tăng giá tiêu dùng tháng 5 đạt 2,21%, tuy chậm lại so với tháng trước nhưng vẫn góp phần đẩy chỉ số giá từ đầu năm đến nay vượt mốc 2 con số. Tổng cục Thống kê vừa cho biết chỉ số giá tiêu dùng cả nước đã tăng 2,21% trong tháng 5. Tuy tốc độ tăng có chậm lại so với tháng 4 nhưng mặt bằng giá hiện tại, so với đầu năm và cùng kỳ 2010, đã cao hơn lần lượt là 12,07% và 19,78%.
Diễn biến lạm phát 5 tháng đầu năm 2011 Nguồn: GSO
-Trong rổ hàng hóa, hàng ăn - dịch vụ ăn uống và nhà ở - vật liệu xây dựng tiếp tục là những tác nhân gây tăng giá chính. Hai nhóm này tăng lần lượt 3,01% và 3,19%. Riêng trong nhóm hàng ăn, giá thực phẩm tăng tới 3,53%. Một nhóm khác cũng tăng giá mạnh trong tháng 5 là giao thông (tăng 2,62%). Duy nhất nhóm bưu chính viễn thong có mặt bằng giá giảm(1.68%).
- Cũng theo Tổng cục Thống kê, trong tháng 5, chỉ số giá vàng đã tăng 1,43% trong khi chỉ số giá đôla Mỹ giảm 0,98%. Hai nhóm này không được tính trong rổ hàng hóa CPI.
-Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tại Tp.HCM tháng 5/2011 chỉ còn tăng 2,38% so với tháng trước, mức thấp hơn so với cách đây một tháng, theo số liệu vừa được cơ quan thống kê công bố.Tuy nhiên, so sánh trong khoảng 24 tháng gần đây, mức tăng này vẫn thuộc loại rất cao, cho thấy sức ép lạm phát vẫn còn duy trì và chưa bị triệt tiêu hoàn toàn.So với tháng 12 năm 2010, chỉ số giá tháng này tại đầu tầu kinh tế phía Nam đã tăng gần 11%; so với cùng kỳ đã tăng trên 16%, đều đạt mức hai con số.
-Tăng giá điện, gas, xăng dầu tiếp tục thể hiện trên các chỉ số CPI nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thiết yếu tháng này tại Tp.HCM, tạo mức tăng khá cao cho các nhóm giao thông (2,77%), nhà ở và vật liệu xây dựng (2,9%) Tuy nhiên, vẫn có những điểm khác biệt trong bức tranh toàn cảnh chỉ số giá tháng này của Tp. HCM.
+Thứ nhất, giá gạo tiếp tục chịu tác động từ việc doanh nghiệp xuất khẩu tăng mua cho các hợp đồng đã ký; các loại thịt, hải sản tăng giá do thiếu nguồn cung trước nhu cầu vẫn lớn đã đẩy chỉ số giá nhóm lương thực, thực phẩm và ăn uống ngoài gia đình tăng rất cao. Bất chấp các chương trình bình ổn lấy nhóm hàng này làm trọng tâm, việc giá cả lương thực, thực phẩm tăng cao khiến CPI nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tháng 5 tăng tới 3,77%, là nguyên chính đẩy chỉ số giá tháng này còn treo cao tại Tp.HCM.
+Thứ hai, chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng cao nhất, tới 4,29% là một đột biến khác so với những tháng trước. Áp lực lạm phát khiến nhiều loại dịch vụ y tế tại Tp.HCM đã điều chỉnh mức phí tăng rất cao trong tháng này.
+Thứ ba, quan điểm trọng ăn, chơi của người phương Nam đã không còn thể hiện trong tháng này, dù là trùng thời điểm nghỉ lễ dài 30/4 và 1/5. Chỉ số giá nhóm văn hóa, giải trí và du lịch chỉ tăng nhẹ 0.28%.
-Có lẽ, khó khăn trong tiêu dùng đã khiến những thói quen của người Sài thành buộc thay đổi, khiến chi phí cơ hội đẩy cầu tiêu dùng tăng ở các nhóm hàng tiêu dùng thiết yếu hơn.
-Ở các nhóm còn lại, chỉ số giá may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,57%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,89% cũng thuộc các nhóm tăng cao mà nguyên nhân chủ yếu do ảnh hưởng từ tăng giá thế giới và điều chỉnh tỷ giá trong nướcTrong năm 2010, kinh tế vĩ mô của Việt Nam khá ổn định và hoàn thành được các chỉ tiêu lớn: tăng trưởng kinh tế, GDP đảm bảo tăng trưởng trên 6,78%; nhập siêu ở mức 17,3% so với xuất khẩu, vượt chỉ tiêu so với kế hoạch; chi tiêu ngân sách cũng ở mức thấp so với năm trước... Tình hình tài chính tiền tệ của Việt Nam nhìn chung ổn định nhưng lãi suất, mặt bằng tỷ giá vẫn còn cao so với nhiều nước trên thế giới, do đó vẫn gây những khó khăn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Đầu năm 2011, tỉ giá và lãi suất cho vay ở các ngân hàng đã bị đẩy lên đến con số 20%/năm, gây sốc cho thị trường tài chính và các nhà sản xuất kinh doanh. Lãi suất cao như hiện nay có nhiều nguyên nhân:
+ Trước tình hình lạm phát cao, các ngân hàng thương mại phải tăng lãi suất để huy động được vốn.
+ Việc giám sát và xử lý các vi phạm của các ngân hàng thương mại còn nhẹ tay, cho nên các ngân hàng đua nhau cạnh tranh nâng lãi suất đầu vào, và sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng.
+Tính tự chủ của Ngân hàng Trung ương còn ở mức thấp, hạn chế trong việc sử dụng nguồn tiền tệ để can thiệp mạnh trên thị trường tiền tệ.
2.2. Nguyên nhân của lạm phát ở Việt Nam
Đối với nước VN, có thể nói nguyên nhân lạm phát là do tác động tổ hợp của ba dạng thức lạm phát : lạm phát tiền tệ( chủ yếu ), lạm phát chi phí đẩylạm phát cầu kéo.
- Lạm phát cầu kéo: do đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân tăng, dẫn đến nhu cầu nguyên nhiên vật liệu tăng, thiết bị công nghệ tăng, thu nhập người dân cũng như người thân từ nước ngoài gửi về tăng làm cho thu nhập tăng dẫn đến nhu cầu của người dân tăng, ngoài ra là do nhu cầu nhập khẩu lương thực thế giới tăng. Nhu cầu tăng đột biến đẩy giá cả các mặt hàng tăng nhanh.
- Lạm phát chi phí đẩy: giá nguyên nhiên liệu: xăng dầu các sản phẩm hóa dầu, thép, phôi thép( giá đầu vào) trên thế giới tăng mạnh, trong điều kiện kinh tế nước ta phần lớn phụ thuộc vào nhập khẩu ( chiếm 90% GDP) đồng thời thiên tai, mất mùa cũng khiến dẫn đến giá cả thị trường trong nước tăng,tăng lượng tiền trong lưu thông với mức 30%, hạn mức tín dụng cũng tăng cao , thêm vào đó là hệ quả của sự tăng tín dụng trong những năm trước đó.
-Lạm phát tiền tệ: cung tiền ở Việt Nam tăng mạnh do vốn nước ngoài chảy vào tăng đột biến buộc ngân hàng nhà nước tung khối lượng lớn tiền để mua ngoại tệ . Mức chênh lệch đó là do cơ cấu kinh tế chậm cải thiện, công nghiêp khai thác tài nguyên gia công chiếm tỉ trọng lớn, giá trị gia tăng sản xuất công nghiệp thấp, đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước còn dàn trải, không đảm bảo tiến độ, không hiệu quả, nhiều thất thoátkéo dài , chậm khắc phục.
-Công tác dự báo dự kiến biện pháp, kế họach ứng phó những tác động tiêu cực của kinh tế thế giới chưa được quan tâm đúng mức, tham mưu Đảng và Nhà Nước do chưa có kinh nghệim nên còn lúng túng, thiếu linh hoạt trong ứng phó.Nói chung ngoài những yếu tố khách quan còn co yếu tố chủ quan là từ cơ quan Nhà nước điều hành ổn định kinh tế vĩ mô thiếu hiệu quả.
-Nguyên nhân dẫn đến tình trạng hiện nay đó là sự kém hiệu quả của hoạt động đầu tư công. Báo cáo mới nhất của Ủy ban Tài chính Ngân sách Quốc hội khi thẩm tra tình hình thu chi ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2010 đã “đề nghị xem xét lại đầu tư công những năm qua có xu hướng tăng cao và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn so với tổng đầu tư toàn xã hội”. Năm 2007 chiếm 37,2%, năm 2008 chiếm 33,9%. Năm 2009 chiếm 40,6% và năm 2010 chiếm 46,2%. Tỷ lệ ngân sách chi cho các dự án đầu tư công dường như tỷ lệ nghịch với hiệu quả của các dự án trên. Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản như đường xá, cầu cống, sân bay, hải cảng là rất cần thiết để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một thực trạng đáng buồn ở Việt Nam hiện nay đó là các dự án đầu tư công đang dàn trải, không có định hướng quy hoạch cụ thể. Các dự án đòi hỏi đầu tư với lượng vốn lớn nhưng hiệu suất sử dụng thu về thì không nhiều. Điều này tạo ra một sự mất cân đối trong nền kinh tế, khiến thâm hụt ngân sách của nước ta hàng năm tăng cao trong khi đó bộ mặt của nền kinh tế không có dấu hiệu cải thiện rõ rệt.
-Nguyên nhân nữa dẫn đến tình trạng lạm phát ở Việt Nam đó chính là tâm lí của người tiêu dùng Việt Nam hay đúng hơn là lòng tin vào Việt Nam đồng của chính những người Việt. Điều này là một hệ lụy tất yếu của sự bất ổn tiềm tàng trong Việt Nam đồng. Từ khi ra đời đến nay, VN đồng liên tục mất giá so với vàng và đô la. Sức mua của VN đồng giảm sút nhanh càng khiến cho người dân hướng tới vàng và đô la như một phương tiện cất trữ tài sản. Tâm lý tích trữ vàng và đô la của một bộ phận lớn dân cư đã góp phần đẩy giá vàng và đô la lên cao, đồng thời ngày càng làm mất giá trị của VN đồng. Vòng luẩn quẩn ấy đã khiến cho tình hình lạm phát ở Việt Nam diễn biến ngày càng phức tạp. Chỉ trong 3 tháng đầu năm 2011, Việt Nam đồng đã mất giá 8.5%. Đặc biệt, ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định phá giá thêm tiền đồng, một đôla nay đổi được 20.900 VND, theo tỷ giá hối đoái chính thức trong khi giá chợ đen lên tới khoảng 21.500 VND. Và trong vòng một tuần qua giá vàng thì lên cao đột biến, đạt mức 37.11 triệu một lượng trong ngày 18/3/2011.
-Thêm một nguyên nhân nữa đã đẩy tình hình lạm phát của Việt Nam đi xa hơn đó là sự tăng giá của một só mặt hàng thiết yếu. Mở màn cho việc tăng giá đó là ngày 24/02/2011,giá xăng trên thị trường nội địa Việt Nam tăng lên mức 19300 đồng/lít_ mức tăng mạnh nhất từ trước tới nay. Thực sự, việt tăng giá xăng lần này chịu ảnh hưởng đáng kể của sự bất ổn trên thị trường thế giới. Đầu tiên, nền kinh tế Mĩ phục hồi chậm chạp sau khủng hoảng, đồng đô la vẫn chưa tìm lại được vị thế vốn có của nó. Do đó, việc đô la mất giá cũng là nguyên nhân đẩy giá dầu thế giới lên cao.
-Và một vấn đề còn nghiêm trọng hơn đó chính là bất ổn chính trị tại quốc gia Bắc Phi_Libya. Xung đột vũ trang rồi biến thành một cuộc chiến tranh thực sự tại một trong những quốc gia xuất khẩu dầu mỏ nhiều nhất thế giới đã dẫn đến tình trạng một lượng lớn dầu bị tồn đọng. Chính sự kết hợp của hai nguyên nhân trên đã đẩy giá dầu trên các sàn giao dịch vượt ngưỡng 100$/ thùng. Sau cú huých tăng giá xăng thì thị trường Việt Nam còn phải chịu thêm gánh nặng của việc ngành điện quyết định tăng giá trong tháng 3/2011.
- Theo đánh giá của giới chuyên môn lần tăng giá này là cần thiết và hợp lí vì lâu nay ngành điện luôn phải bù lỗ để có một mức giá ưu đãi cho nhân dân. Tuy nhiên, trong tình trạng giá cả leo thang, các công trình thủy điện đang xây dựng dang dở cần huy động thêm vốn thì việc tiếp tục bù lỗ trở thành điều không thể đối với ngành điện. Với việc hai nguồn nguyên liệu chủ yếu của xã hội là xăng và điện cùng tăng giá thì việc các loại hàng hóa trong xã hội cũng dần dần tăng giá theo là một điều khó tránh khỏi. Điều này có thể khiến kinh tế Việt Nam chìm sâu hơn vào vòng xoáy lạm phát.
-Chạy theo chỉ thị:
+ Do được mệnh danh là “nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN“ nên nền kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc vào kế hoạch và chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua chỉ thị của Đảng, trọng tâm của nền kinh tế là các con số tăng trưởng hàng năm. Để đạt chỉ tiêu đã đề ra, nhà nước khuyến khích đầu tư và các doanh nghiệp quốc doanh được tạo điều kiện mượn nợ ngân hàng dễ dàng cho các dự án đầu tư. Ngoài lĩnh vực kinh doanh chính, các doanh nghiệp còn đầu tư vào các lĩnh vực thiếu chuyên môn, đặc biệt vào các lĩnh vực bất động sản hoặc có nhiều rủi ro như cổ phiếu, v.v
+Việc chạy đua với con số tăng trưởng nên nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua tăng trưởng nhờ đầu tư nước ngoài, không phải vì tiêu thụ nên tăng trưởng không bền vững và ẩn chứa rủi ro.
+ Việt Nam vay mượn tiền vốn nước ngoài đã thúc đẩy nhu cầu tiền nước ngoài cao hơn tiền nội địa đưa đến áp lực giảm giá trị đồng tiền trong nước va làm tăng trưởng lạm phat.
Những rủi ro nêu trên có thể được điều chỉnh nếu hiệu quả đầu tư cao. Để đo lường hiệu quả đầu tư của một quốc gia, các chuyên gia thường dùng hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio) được tính bằng: tổng số vốn đầu tư chia cho tổng số tăng trưởng GDP. Do cách tính này, tăng trưởng GDP càng cao thì hệ số ICOR càng nhỏ.
- Thâm hụt mậu dịch:
+Việt Nam xuất cảng chủ yếu quần áo, dầu thô, giầy dép , sản phẩm nông, lâm nghiệp và hải sản.Những mặt hàng nhập vào Việt Nam nhiều nhất là máy móc và đồ phụ tùng , sắt và thép , tơ sợi , hàng điện tử và computer.
+Nhập cảng nhảy vọt đưa đến người giàu có lợi dụng cơ hội Việt Nam vào WTO đặt mua hàng hóa xa xỉ như máy bay, xe hơi đắt tiền v.v... Sau 24 năm “đổi mới“ Việt Nam vẫn không thoát ra khỏi nền kinh tế gia công và nông nghiệp. Việt Nam vẫn lệ thuộc vào xuất khẩu và phải nhập khẩu hàng hóa, máy móc để cho dân chúng tiêu dùng.
- Thâm hụt ngân sách:
+Các khoản thu chính của nhà nước Việt Nam là từ thuế và lệ phí, bán dầu thô, viện trợ và vay nước ngoài. Cuộc khủng hoảng kinh tế làm nhà nước giảm các khoản thu từ thuế và bán dầu thô, đồng thời nhà nước phải tăng chi phí để kích cầu nên thâm hụt ngân sách quốc gia.
+ Để chi phí cho thâm hụt ngân sách quốc gia, nhà nước buộc phải mượn thêm nợ. Nếu nhà nước mượn được nợ của người dân trong nước thì vấn đề tương đối không nghiêm trọng, vì tiền lưu truyền trong nội địa của một nền kinh tế. Trường hợp Việt Nam, nhu cầu vốn cao hơn tổng số tiền tiết kiệm của người dân trong nước nên thâm hụt ngân sách làm nhu cầu vốn càng cao hơn và qua đó nhu cầu muợn vốn từ nước ngoài cũng tăng lên.
+Tiền lãi và tiền mượn nợ được trả bằng tiền thuế thu từ nhân dân trong nước. Do số tiền thu thuế có giới hạn, nếu không tăng thuế thì những hoạt động của nhà nước buộc phải thu hẹp (không gian chi tiêu). Nếu tiền lãi không được trả cho chủ nợ hàng năm thì tiền nợ mỗi ngày mỗi cao hơn. Thêm vào đó, tiền nợ trong quá khứ và tiền nợ trong tương lai chồng chất mỗi ngày mỗi cao đã đẩy quốc gia rơi vào vòng luẩn quẩn khó thoát khỏi cơn nợ như hiện nay.
+ Những rủi ro xảy ra trong trường hợp thâm hụt ngân sách và nợ nước ngoài cao la do áp lực giảm giá trị đồng tiền nội địa dẫn đến tăng lãi suất và tăng lạm phát. Ngoài ra, gây áp lực giảm khả năng tín dụng của quốc gia (rating code) đã làm tăng lãi suất tín dụng. Các nguyên nhân trên đã làm gia tăng sản phẩm và lạm phát tăng vụt trong những tháng qua.
-Áp lực lạm phát ở Việt Nam trong năm 2011 chủ yếu sẽ đến từ các nguyên nhân sau:
+Việc điều chỉnh giá điện (với mức tăng ít nhất 18% so với năm 2010) dự kiến bắt đầu từ 1-3-2011 và việc cho phép các hàng hóa năng lượng quan trọng như xăng, dầu, than “vận hành theo cơ chế thị trường” chắc chắn sẽ là một cú hích đáng kể đối với lạm phát. Điện ở Việt Nam cũng được chính phủ bao cấp lâu nay. Giá thành cao hơn giá bán. Giá điện trung bình tại Việt Nam hiện nay là 5.2 cent / kWh (tính theo USD), chỉ bằng một nửa so với giá điện của các nước trong khu vực. Chi phí sản xuất ra 1kWh điện trung bình từ 7 đến 12 cent. Việc hủy bỏ bao cấp là cần thiết và nhà nước đã cho phép tăng giá điện 15.3% bắt đầu có hiệu lực vào tháng 3. Đây cũng là một quyết định không hợp thời vì Việt Nam đang phải đối phó với nạn lạm phát cao. Nhưng áp lực là do công ty quốc doanh Điện Việt Nam (EVN) bị lỗ lã và ngân sách thiếu hụt. Ông Đinh Quang Tri, Phó Tổng Giám Đốc EVN cho biết thêm rằng giá điện tăng vừa qua không bù đắp được tất cả những lỗ lã của công ty trong năm 2010. Con số này lên tới 8,000 tỉ VNĐ. Như vậy có nghĩa nhà nước có thể sẽ cho phép EVN tăng giá điện lên nữa trong tương lai. Thực vậy, một bản tin của Bloomberg News viết rằng “Một quyết định của chính phủ cho phép giá điện được điều chỉnh ba tháng một lần tùy theo điều kiện thị trường có thể báo hiệu cho một sự tăng giá 40% vào tháng Sáu, theo một nguồn tin của Viet Capital Securities.”
+Xu thế giá thế giới của các hàng hóa cơ bản (đặc biệt là năng lượng, thực phẩm, vật tư nông nghiệp và kim loại) tiếp tục tăng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến mặt bằng giá trong nước vì nền kinh tế của chúng ta đã trở nên rất mở. Không những thế, như một hiện tượng có tính quy luật, giá hàng hóa cơ bản ở các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) một khi đã tăng thì thường tăng cao hơn nhiều so với các nước phát triển. Chẳng hạn như trong năm 2010, chỉ số giá hàng hóa cơ bản ở các nước đang phát triển là 31% trong khi trên toàn thế giới chỉ là 19%.
+Trong năm 2010, với tốc độ tăng cung tiền và tín dụng đều ở mức trên 25% và tỷ lệ đầu tư trên 40% trong khi tốc độ tăng trưởng GDP thực chỉ là 6,8% thì lạm phát tiền tệ sau một độ trễ nhất định sẽ được thể hiện trong chỉ số giá. Điều chỉnh tỷ giá và tăng giá điện đều là những việc không thể không làm để giảm sự méo mó trong giá thị trường, vốn là một điều kiện cần để nền kinh tế có thể giảm chi phí giao dịch và phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả.
+Ngoài ra Việt Nam còn có vấn đề bội chi ngân sách tương đương với 8.9% và 5.9% của tổng sản phẩm nội địa (gross domestic product – GDP) lần lượt trong hai năm 2009 và 2010. Cán cân thương mại thiếu hụt thường xuyên trong nhiều năm vừa qua. Mức thiếu hụt này tương đương với 8.9% và 10.2% của GDP trong 2009 và 2010. Những con số này chứng tỏ rằng chi tiêu của nhà nước cao hơn thu nhập và nhu cầu nhập khẩu cao hơn trị giá hàng xuất khẩu. Hai sự thiếu hụt này tạo áp lực trên giá cả bằng cả hai tác động cầu kéo và chi phí đẩy. Tuy nhiên trong trường hợp bội chi ngân sách, chi tiêu của nhà nước làm tăng GDP trong ngắn hạn còn cán cân thương thiếu hụt làm giảm GDP.
+Nguyên nhân kế tiếp không kém quan trọng là việc gia tăng tín dụng quá cao, trên 20% trong suốt 10 năm vừa qua, đôi khi lên đến 50.2% vào 2007 và 45.6% vào năm 2009. Theo Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN), mức tín dụng tăng 27% trong năm 2010, vượt quá mục tiêu 25%. Mức tín dụng chỉ tiêu cho năm 2011 là 23%. Nay mới hạ xuống dưới 20%. Ngoài ra, phần lớn những tín dụng này lại được ưu tiên dành cho những , thường doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, với những điều kiện thuận lợi.
+Năng suất của kinh tế Việt Nam thấp. Đây là hệ quả tất yếu của một nền kinh tế xây dựng trên một khu vực nhà nước lớn với các doanh nhà nước nghiệp làm ăn thường là thua lỗ. Vào cuối năm 2010, công ty quốc doanh xây cất tầu thủy Vinashin rơi vào tình trạng gần phá sản là một thí dụ mới nhất. Vinashin hay là Vietnam Shipbuilding Industry Group, được thành lập vào năm 2005 với số vốn 750 triệu USD từ công trái phiếu của nhà nước. Vào tháng 7, 2010, Việt Nam công bố rằng Vinashin mắc món nợ chồng chất lên 4.4 tỉ USD, không có khả năng trả nợ và bị đe dọa phá sản. Vào tháng 8, 2010, cựu chủ tịch Vinashin Phạm Thanh Bình và một số viên chức điều hành bị bắt vì vi phạm luật lệ quản trị, nhưng cho tới nay chưa có ai bị truy tố. Vào cuối năm 2010, Vinashin điều đình với các chủ nợ để xin hoãn trả 60 triệu USD trên số nợ 600 triệu USD. Cho đến đầu tháng 3 vừa qua, Vinashin vẫn chưa trả được nợ. Khả năng phá sản có thể sẽ xảy ra.
+Trong khi vụ Vinashin chưa giải quyết xong và ngay sau khi nhà nước tuyên bố cho tăng giá xăng dầu và điện, gần đây lại xẩy ra vụ Công Ty Cho Thuê Tài Chánh ALC II thua lỗ 3,000 tỉ đồng. Công ty nhà nước này thua lỗ đã nhiều năm, những đến 2007 mới bị phát hiện. Đến cuối 2009 ông Vũ Quốc Bảo, Tổng Giám Đốc ALC II mới bị mãn nhiệm, và cho mãi đến giữa tháng 4 vừa qua, dân mới được biết vì cơ quan cảnh sát điều tra quyết định bắt tạm giam ông Bảo.
+Chi phí gia tăng trong nhiều tháng vừa qua. Theo Nghị Quyết số 11/NQ-CP ban hành ngày 24/2/2011, nhà nước cho phép gia tăng giá xăng dầu trong nước cho phù hợp với giá xăng dầu thế giới và giá điện trong nước theo cơ chế thị trường. Tăng giá điện và xăng ảnh hưởng đến tất cả mọi lãnh vực kinh tế và trực tiếp làm nạn lạm phát trầm trọng thêm. Đây là một hiện tượng chi phí đẩy.
+Việc tăng giá xăng là một việc không tránh được vì giá xăng dầu trên thế giới tăng và Việt Nam là một nước nhập cảng xăng dầu nhiều hơn gấp bội lượng xăng dầu xuất khẩu. Việc điều chỉnh giá xăng dầu được quy định theo Nghị Định 84/2009 của nhà nước về kinh doanh xăng dầu. Vì ngân sách quốc gia thiếu hụt nghiêm trọng cộng thêm kinh tế bất ổn nói chung mà nhà nước đã có quyết định không hợp thời là tăng giá xăng liên tục ba lần kể từ đầu năm nay. Lần tăng 30% mới nhất đã đưa giá xăng lên đến 21,300 VN/lít trong tháng 3. Cũng vào dịp này giá dầu diesel tăng 24%.
+Việc phá giá đồng bạc Việt Nam (VNĐ). Trong 15 tháng vừa qua, Việt Nam đã phá giá VNĐ tất cả 4 lần và trong khoảng thời gian này trị giá của VNĐ đã giảm tổng cộng khoảng 20% so với đồng US dollar (USD). Trong lần thứ tư xẩy ra vào ngày 11/2/2011, VNĐ sụt giá 9.3% so với USD. Hối suất chính thức của VNĐ tăng từ 18,932 lến đến 20,693 cho một USD. Ngân hàng nhà nước quyết định phá giá VNĐ là để giảm bớt sự chênh lệch giữa hối suất chính thức và hối suất chợ đen, đôi khi sự cách biệt lên đến 9% và làm giảm sự khan hiếm ngoại tệ. Sự phá giá VNĐ cũng giúp tăng xuất khẩu và giảm chênh lệch cán cân thương mại vì làm giảm chi phí sản xuất trong nước. Tuy nhiên, đồng Việt Nam mất giá cũng làm tăng lạm phát vì giá sản phẩm và nguyên liệu nhập khẩu sẽ gia tăng tính theo VNĐ.
-Ngoài ra, còn có những nguyên nhân bên ngoài là giá thực phẩm và giá xăng dầu gia tăng. Nhưng tất cả mọi nước đều chịu ảnh hưởng của hai thứ sản phẩm này không phải chỉ riêng Việt Nam.
Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế:
-Lạm phát tác động xấu đến tình hình tăng trưởng kinh tế xã hội. Lạm phát làm giảm trầm trọng tốc độ tăng trưởng GDP vì nó làm cho người dân nghèo thêm, kiềm chế sản xuất trong khối doanh nghiệp.
-Ảnh hướng đến đời sống của các tầng lớp dân cư: Người dân nhất là những người làm công ăn lương, những hộ nghèo phải chiụ sự tác động trực tiếp nhất của lạm phát trong cơn bão tăng giá. Lạm phát cũng làm giảm việc làm cho người dân trong trung và dài hạn.
-Ảnh hưởng nhiều đến khối doanh nghiệp: Lạm phát cũng gây ra tình trạng thiếu tiền vì các doanh nghiệp không khai thác được nguồn tín dụng cho việc duy trì sản xuất của mình. Do đó, số lượng công việc cho người dân làm cũng giảm thiểu trong trung và dài hạn.
-Mặt bằng lãi suất cao sẽ gây ra những tác động xấu cho nền kinh tế, dẫn đến những rủi ro cao. Doanh nghiệp vay vốn với lãi suất cao khả năng sinh lời sẽ thấp, dễ dẫn đến kinh doanh thua lỗ, hoặc phá sản, không có khả năng trả nợ. Ngoài ra, lãi suất càng cao rủi ro cho nền kinh tế sẽ càng lớn, kìm hãm những hoạt động đầu tư sinh lời, các dự án cũng sẽ chậm được triển khai. Bên cạnh đó, nó còn có thể dẫn đến hiện tượng các nhà sản xuất kinh doanh nản lòng trong đầu tư, và mang tiền gửi lại cho ngân hàng.
-Khi lạm phát xảy ra thì hầu hết mọi thành phần của nền kinh tế đều trở thành nạn nhân của lạm phát, bởi nhìn một cách tổng thể thì mỗi người đều là người tiêu dùng. Tuy nhiên, 3 thành phần chịu nhiều thiệt thòi nhất là:
+ Người về hưu: lương hưu là một trong những “hàng hóa” ổn định nhất về giá cả, thường chỉ được điều chỉnh tăng lên đôi chút sau khi giá cả hàng hóa đã tăng lên gấp nhiều lần.
+Những người gửi tiền tiết kiệm: Hẳn nhiên sự mất giá của đồng tiền khiến cho những người tích trữ tiền mặt nói chung và những người gửi tiền tiết kiệm đánh mất của cải nhanh nhất.
+Những người cho vay nợ: Khoản nợ trước đây có thể mua được một món hàng nhất định thì nay chỉ có thể mua được những món hàng có giá trị thấp hơn. Vậy ai là người được hưởng lợi? Có lẽ khi đồng tiền mất giá dần thì người sung sướng nhất chính là những con nợ vì nay khoản nợ họ phải trả có vẻ nhẹ gánh hơn.
- Chỉ số giá các yếu tố đầu vào dùng cho sản xuất tăng khiến giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu tăng. Gần đây do giá nhiên liệu đầu vào ( xăng dầu, giá điện, giá than, lãi suất...) tăng cao nên ngày 30-3, giá bán của nhiều thương hiệu xi măng đã tăng với mức 150.000 đồng/tấn.
- Giá cả những mặt hàng thiết yếu như lương thực thực phẩm, giá nhà ở, vật
liệu xây dựng tăng làm cho người tiêu dùng phải cân nhắc khi lựa chọn, thay đổi thói quen tiêu dùng, thay đổi kế hoạch chi tiêu, cơ cấu các nhóm mặt hàng cũng thay đổi. Phần chi tiêu cho thực phẩm tăng đối với các hộ gia đình (theo báo sài gòn tiếp thị ), chuyển hướng tiêu dùng hàng nội, giảm sức tiêu thụ các mặt hàng phi thực phẩm ( theo co.op, big c).
- Chi phí đi lại tăng lên ( tăng giá vé tàu, xe, máy bay).
- Bộ phận dân cư có thu nhập thấp, những người làm công ăn lương, sinh viên chịu tác động trực tiếp từ tình hình lạm phát hiện tại.
- Những tác động tới tâm lý người tiêu dùng là không nhỏ. Lợi dụng tình hình giá xăng dầu tăng các tiểu thương tát nước theo mưa dẫn tới tình trạng tăng giá hàng hóa tại các chợ.
- Xuất hiện hiện tượng đầu cơ nhất là các mặt hàng như dầu ăn, đường, xi măng, sắt théplàm giá các hàng hóa tăng lên cao.
- Đối với các doanh nghiệp, lạm phát làm giảm lợi nhuận thu được trên thực tế.
trong khi các nhà quản lý cứ ngỡ rằng công ty minh đang phát triển. Lạm phát cũng khiến mức đầu tư giảm và ảnh hưởng đến phân bổ tài nguyên. Giá trị thị trường suy giảm, cổ phần hầu như không sinh lãi trong thời ki lạm phát.
- Với tình hình lạm phát như hiện nay, các ngân hàng khó có thể hạ lãi suất cho vay trong thời gian 3 đến 4 tháng tới. Với mức lãi suất vay vốn trên dưới 20%, duy trì hoạt động thực sự là thách thức với các DN nhất là DN vừa và nhỏ.
- Khó khăn trong huy động vốn ( phát hành trái phiếu ), dự trữ ngoại tệ chưa được cải thiện. Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 22/02/2011 đạt 1558 triệu USD, bằng 68% cung kỳ năm 2010, bao gồm: Vốn đăng ký 1472 triệu USD của 93 dự án được cấp phép mới (giảm 25,7% về vốn và giảm 51,6% về số dự án so với cung kỳ năm trước); vốn đăng ky bổ sung 86 triệu USD của 14 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước.
- Lạm phát nói chung ảnh hưởng đến lương bổng của công nhân và những dân nghèo ở nông thôn một cách mạnh mẽ. Vì giá xăng dầu và điện gia tăng, các công ty chuyên chở đã tăng chi phí chuyên chở bằng 15%-20%. Các công ty đường sắt cũng gia tăng lệ phí 25% kể từ 1/4/2011. Những công ty hàng không cũng có những quyết định tương tự. Cuối cùng chỉ có những người tiêu thụ chịu mọi hậu quả.
- Tình trạng lạm phát cao và kéo dài sẽ dẫn đến sự suy thoái kinh tế trầm trọng và sự phân phối của cải lại một cách độc đoán làm tăng hố sâu ngăn cách giữa người giàu và người nghèo, giữa các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển.
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Thực hiện chính sách tài chính- tiền tệ một cách thận trọng, linh hoạt và hiệu quả:
- Thắt chặt tiền tệ: Các biện pháp dành cho chính sách thắt chặt tiền tệ hiện nay cần phải được áp dụng một cách linh hoạt. Xuất phát từ nhận định lạm phát thường xuất hiện khi lượng tiền trong lưu thông tăng, chúng ta cần hạn chế lượng tiền trong lưu thông bằng cách: Tăng lãi suất cho vay vốn và lãi suất tái chiết khấu và hạn chế mức tăng tín dụng. Quy định dự trữ bắt buộc hợp lí để vừa bảo đảm an toàn hệ thống đồng thời nâng cao được khả năng thanh khỏan trong hoạt động ngân hàng. Thêm nữa là việc phát hành tín phiếu và phân hạn mức mua cho các Ngân hàng Thương mại để rút bỏ bớt tiền khỏi lưu thông.
-Điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt phù hợp với diễn biến thị trường tiền tệ để ổn định lãi suất nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trường hợp có nhiều yếu tố bất lợi làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng vượt khỏi tầm kiểm soát,cần áp dụng kịp thời các giải pháp thắt chặt tiền tệ trên cơ sở sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ, như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để kiểm soát tín dụng, đồng thời tiếp tục sử dụng nghiệp vụ thị trường mở như công cụ chủ đạo trong việc điều tiết tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), trong đó lãi suất nghiệp vụ thị trường mở được điều chỉnh tăng trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc thị trường để phát tín hiệu điều hành chính sách tiền tệ thận trọng và thúc đẩy các tổ chức tín dụng tập trung huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư.
- Lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thông thường Ngân hàng Trung ương cần phải thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, hạ thấp lãi suất chủ đạo, mở rộng cửa cung ứng tiền cho nền kinh tế, tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Song bên cạnh việc kinh tế tăng trưởng theo ý muốn, thì lạm phát có thể tăng cao. Vì vậy, trong thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, thông thường ít khí đạt được hai mục tiêu cùng một lúc. Lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thông thường Ngân hàng Trung ương cần phải thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, hạ thấp lãi suất chủ đạo, mở rộng cửa cung ứng tiền cho nền kinh tế, tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Song bên cạnh việc kinh tế tăng trưởng theo ý muốn, thì lạm phát có thể tăng cao. Vì vậy, trong thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, thông thường ít khí đạt được hai mục tiêu cùng một lúc.
- Đẩy mạnh cải cách hệ thống ngân hàng, đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá NHNN, nâng cao tính độc lập của NH trung ương trong việc hoạch định thực thi chính sách tiền tệ và sự bền vững của hệ thống ngân hàng còn nhiều rủi ro; đẩy mạnh cải cách tài chính công theo hướng phân công, xác định trách nhiệm của các cơ quan, trách nhiệm giải trình đảm bảo công khai minh bạch; đẩy mạnh xã hội hoá kinh tế, xã hội. Ngoài ra, phải phát triển thị trường vốn, tài chính phục vụ hiệu quả đầu tư phát triển, tăng cường kiểm soát chặt chẽ đầu tư gián tiếp, khuyến khích đầu tư dài hạn ...
- Điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là các loại lãi suất và lượng tiền cung ứng để bảo đảm kiềm chế lạm phát. Lãi suất và tỷ giá cần được điều hành ở mức phù hợp với các cân đối kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hệ thống, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà Nước. Tỷ giá và quản lý ngoại hối linh hoạt hơn theo tín hiệu thị trường, phù hợp với diễn biến lãi suất, cân đối hài hòa cung – cầu ngoại tệ, tăng tính thanh khoản cho thị trường va thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, giảm dần tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế; thực hiện đa dạng hóa ngoại tệ trong thanh toán. Ngân hang Nhà Nước cần phối hợp với cac bộ , ngành liên quan theo dõi, quản lý chặt chẽ thị trường vàng và thị trường ngoại tệ.
- Tập trung xậy dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật theo chương trinh kế hoạch, trong đó tập trung vào các văn bản hướng dẫn hai Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng. Ngân hàng Nhà Nước cần tiếp tục thực thi các biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng, đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng của các tổ cức tín dụng; củng cố, sắp xếp lại các tổ chức tín dụng phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, tăng cường tính công khai minh bạch trong hoạt động ngân hàng; tăng cường thanh tra, giám sát, đặc biệt là giám sát từ xa, phát hiện, cảnh báo sớm rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
- Theo dõi, giám sát chặt chẽ và dự báo kịp thời diễn biến kinh tế vĩ mô, diễn biến thị trường tài chính trong nước và quốc tế để phục vụ có hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động tiền tệ, ngân hàng; đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2011-2015; tăng cường hoạt động thông tin tuyên truyền, chủ động trong việc cung cấp thông tin...
- Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng. Quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do; ngăn chặn hiệu quả cac hoạt động buôn lậu vàng qua biên giới.
-Trước tình trạng lạm phát gia tăng, chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24-02-2011 đưa ra bảy “giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.” Thi hành nghị quyết này, nhà nước đã cho thi hành chính sách siết chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất và cắt giảm mức gia tăng tín dụng. NHNN đã tăng lãi suất tài trợ (refinance rate) lên đến 14% và lãi suất chiết khấu (discount rate) lên đến 13%. Các lãi suất mới bắt đầu có hiệu quả từ 1/5/2011. Cũng về mặt tiền tệ, NHNN nhắm cắt giảm mức gia tăng tín dụng từ 23% xuống còn 18%-19% trong năm nay.
- Đồng bộ các chính sách về tiền tệ với chính sách tài khoá và chính sách tỉ giá để nâng cao hiệu quả đầu tư của kinh tế nhà nước, giảm bớt sức ép của chính sách tiền tệ đến hoạt động của các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp, bảo đảm các doanh nghiệp có nguồn tín dụng để mở rộng đầu tư, làm cho việc chống lạm phát không ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng và việc làm. Vào cuối tháng 4 vừa qua, nhà nước Việt Nam trình bày dự định thực hiện một số biện pháp tài khóa song song với các biện pháp tiền tệ để chống lại nạn lạm phát bao gồm việc giảm bớt chương trình đầu tư công, cắt giảm bội chi ngân sách xuống dưới 5% của GDP, và giảm những chi phí thường xuyên 10% trong 9 tháng còn lại của năm 2011.
3.2. Thực hiện chính sách tài khóa thu hẹp, thắt chặt đầu tư công, giảm bội chi ngân sách:
- Chính sách tài khóa: Cần phải thực hiện từng bước kế hoạch giảm thâm hụt để tiến tới cân bằng ngân sách, vì đây cũng là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng. Thắt chặt chi tiêu của chính phủ; kiểm soát chặt chẽ đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước; giảm mạnh chi phí hành chính trong các cơ quan nhà nước nhằm giảm bớt sức ép về cầu nhất là các loại cầu không tạo ra hiệu quả. Với các dự án, cần loại bỏ những dự án đầu tư kém hiệu quả, thắt chặt những khoản chi chưa thực sự cần thiết nhưng tạo mọi điều kiện cho đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát phát huy tính công khai minh bạch của chi tiêu công. Cần rà soát, xét lại các chương trình, dự án đầu tư, hoạt động chi tiêu cả trung ương va địa phương, đầu tư của các thành phần kinh tế, kiểm tra tiến độ thực hiện các dự án, các công trình đầu tư. Khẩn trương hoàn thành các dự án, các công trình, đặc biệt là những công trình trọng điểm, hòan thành dứt điểm các công trình dây dưa kéo dài để chúng sớm phát huy tác dụng. Chủ động điều chỉnh kế hoạch triển khai các dự án đầu tư, tập trung ngân sách vào những công trình cấp thiết, những chương trình không cấp thiết nên chuyển vào những năm sau. Công khai
minh bạch, thông qua sự giám sát chi tiêu công của các tổ chức phi Chính phủ, các đoàn thể chính trị xã hội và tổ chức quần chúng.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát trong quản lý thu thuế, chống thất thu thuế; tập trung xử lý các khoản nợ đọng thuế; triển khai các biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng và hạn chế phát sinh số nợ thuế mới.
- Tiết kiệm các khoản chi thường xuyên. Tạm dừng các khoản tiêu dung mua sắm máy móc, trang thiết bị, không bố trí kinh phí cho các việc thật sự cấp bách.
- Giảm bội chi ngân sách nhà nước. Giám sát chặt chẽ việc vay, nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, nhất là vay ngắn hạn. Thực hiện rà soát nợ Chính phủ, nợ quốc gia, hạn chế nợ dự phòng, không mở rộng đối tượng phạm vi bảo lãnh của Chính phủ. Bảo đảm dư nợ Chính phủ, dư nợ công, dư nợ nước ngoài trong giới hạn an toàn va an toàn tài chính quốc gia.
3.3. Chính sách ổn định tỷ giá:
- Tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý.
- Thành lập “Quỹ ổn định tỷ giá” hay một hình thức nào đó để cho thấy lực lượng kinh tế của nhà nước đủ sức khống chế thị trường ngoại hối. Tính toán ngay qui mô của quỹ đủ sức kiềm giữ tỷ giá VND và công bố mạnh mẽ để tác động vào tâm lý đầu cơ.
- Xây dựng tỷ giá ổn định cho đến hết năm 2011 để Ngân hàng Nhà Nước có cơ sở điều hành chính sách tiền tệ.
- Cần có chính sách mạnh tay là yêu cầu các tổng công ty và doanh nghiệp nhà nước không được phép găm giữ USD: khi có USD, buộc phải gửi ngân hàng và đẩy ra thị trường. Cần có biện pháp, chế tài xử phạt nếu không tuân theo chính sách.
- Ngân hàng Nhà Nước phải mạnh tay “bơm” USD vào ngân hàng thương mại để họ có USD bán cho các khách hàng.
- Chính phủ và Ngân hàng Nhà Nước cần sớm có những biện pháp mạnh hơn để kiểm soát chặt thị trường ngoại tệ tự do, thu hẹp các giao dịch và xử phạt nặng hơn các trường hợp vi phạm về thu đổi ngoại tệ trái phép nhằm thu hẹp khoảng chênh lệch tỷ giá giữa thị trường ngoại hối chính thức và phi chính thức.
- Sử dụng công cụ tỉ giá: Nên điều chỉnh tăng nhẹ VND so với USD. Điều này cũng phù hợp với việc đồng đô la Mỹ liên tục bị giảm giá so với các đồng tiền khác. Tăng nhẹ giá trị VND tuy có ảnh hưởng đến xuất khẩu nhưng không quá lớn. Tăng giá VND sẽ làm giá hàng nhập khẩu giảm, tăng nguồn cung, có tác dụng giảm mức tăng giá trên thị trường nội địa, nhất là trong điều kiện nhập khẩu hiện chiếm tỉ lệ cao trong GDP của nước ta. Tăng giá VND cũng góp phần kìm giữ giá luơng thực hiện đang tăng tăng cao và có khả năng còn tiếp tục tăng trước nhu cầu của thị trường thế giới.
- Tiếp tục thực hiện cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt bám sát cung cầu về ngoại tệ trên thị trường, đảm bảo tỷ giá danh nghĩa bám sát tỷ giá thực, không để xảy ra các cú sốc đột biến về tỷ giá; tiếp tục phát triển các công cụ phòng chống rủi ro trên thị trường ngoại hối; phối hợp việc điều hành tỷ giá và điều hành lãi suất nhằm đảm bảo mối quan hệ hợp lý giữa lãi suất VND - tỷ giá - lãi suất ngoại tệ tránh gây tác động xấu thị trường ngoại hối đối với phát triển kinh tế. Ngoài ra, NHNN cần củng cố hoạt động hệ thống ngân hàng thương mại an toàn, lành mạnh, hiện đại và bền vững hơn thông qua việc sửa đổi các quy định về mở văn phòng, chi nhánh, về phân loại nợ đọng và trích lập rủi ro tín dụng...
3.4. Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng:
- Sử dụng công cụ hạn ngạch, thuế... để điều tiết hoạt động xuất, nhập khẩu mặt hàng có thể gây biến động giá trong nước như gạo, sắt thép, phân bón, chất dẻo...; đồng thời thực hiện tốt dự trữ các mặt hàng trên để can thiệp thị trường trong nước khi xảy ra những biến động do thiên tai, và giá cả thế giới lên cao.
- Thực hiện tốt công tác kiểm tra, quản lý thị trường, hệ thống phân phối để tránh đầu cơ, đẩy giá lên cao, đồng thời tiếp tục chấn chỉnh, sắp xếp lại mạng lưới kinh doanh, ban hành và tổ chức thực hiện quy chế kinh doanh đối với một số vật tư, hàng hoá quan trọng như xi măng, sắt thép, phân bón, điện, than, thuốc chữa bệnh... để khắc phục tình trạng đầu cơ, mua bán lòng vòng, lũng đoạn thị trường
- Việt Nam đang tiếp tục mở cửa nền kinh tế theo xu hướng hội nhập, thực hiện các cam kết của Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, AFTA, cam kết gia nhập WTO, nên thị trường trong nước diễn biến theo sát thị trường quốc tế. Trong quá trình đó, Việt Nam được hưởng lợi từ giá cả xuất khẩu các mặt hàng có khối lượng lớn, thì cũng bị ảnh hưởng của giá cả biến động tăng của những mặt hàng nhập khẩu. Thời gian tới đây giá cả thị trường thế giới tiếp tục có những biến động phức tạp khó lường trước. Đó là tính tất yếu khách quan của các giao dịch buôn bán trên thị trường quốc tế. Vì vậy Việt Nam cần tôn trọng tính thị trường, tôn trọng quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường, Chính phủ không nên làm thay thị trường.
- Đặc biệt là không nên sử dụng các biện pháp có tính bao cấp từ nguồn ngân sách nhà nước như: cấp bù lỗ, cấp bù lãi suất, khoanh nợ,... khi mà thị trường trong nước có tính thông thương với thị trường thế giới. Cơ chế bao cấp qua giá một số mặt hàng có tính theo sát thị trường thế giới sẽ làm méo mó giá cả trong nước, tạo điều kiện cho tình trạng xuất lậu qua biên giới, tác động tiêu cực đến ngân sách quốc gia, tác động gây tiềm ẩn nguy cơ lạm phát.
- Việc sử dụng biện pháp tài chính hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong dự trữ và thu mua nông sản phẩm càng làm gia tăng cơ chế xin cho, kẽ hở cho nhiều loại tiêu cực khác, trong khi người nông dân, người sản xuất không được hưởng lợi trực tiếp. Cơ chế quản lý giá và quản lý thị trường cũng cần linh hoạt và đổi mới phù hợp với tình hình của nền kinh tế nước ta hiện nay.
- Điều tiết cân đối cung cầu đối với từng mặt hàng thiết yếu, bảo đảm kết hợp hợp lý, gắn sản xuất trong nước với điều hành xuất nhập khẩu. Xây dựng kế hoạch điều hành xuất, nhập khẩu.
- Xem xét, miễn, giảm thuế, gia hạn thời gian nộp thuế nguyên liệu đầu vào nhập khẩu phục vụ sản xuất xuất khẩu đối với những ngành hang trong nước còn thiếu nguyên liệu như dệt may, da giầy, thuỷ sản, hạt điều, gỗ, dược phẩm,
- Chủ động áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý về thuế, phí để điều tiết lợi nhuận do kinh doanh xuất khẩu một số mặt hàng như thép, xi măng thu được từ việc được sử dụng một số yếu tố đầu vào giá hiện còn thấp hơn giá thị trường.
- Áp dụng các biện pháp cần thiết và phù hợp để khuyến khích, khuyến cáo các doanh nghiệp, nhân dân sử dụng tiết kiệm năng lượng (điện, xăng dầu), sử dụng các công nghệ cao, công nghệ xanh, sạch, công nghệ tiết kiệm điện.
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Tóm lại, kiềm chế lạm phát không phải là một bài toán không có lời giải vấn đề là cần chấp nhận những thiệt hại nhất định cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, cho ngân sách nước nhà. Vì vậy, cần có sự đồng thuận và chia sẻ của Chính phủ, doanh nghiệp và nhân dân. Cần đặt nước ta trong nền kinh tế thế giới để có cái nhìn tổng hợp và toàn diện, chính xác hơn. Các Bộ, Ban, Ngành từ trung ương đến địa phương cầ làm hết sức mình, bằng những kế hoạch và biện pháp cụ thể để triển khai các chỉ đạo mà Chính phủ đã ban hành. Tiếp tục hoàn thiện mục tiêu chống lạm phát và kìm chế lạm phát là mục tiêu cơ bản để tăng trưởng và phát triển kinh tế ổn định xã hội, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá của nước ta trong thời gian tới. Phát huy kết quả đạt được trong những năm vừa qua, trong thời gian tới cần tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu là: nghiên cứu và tổ chức thực hiện các chính sách biện pháp bình ổn giá cả thị trường, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh mặt bằng giá, quan hệ giá sao cho phù hợp với tình hình, sản xuất và chi phí sản xuất, giữ quan hệ công nông hợp lý, cũng như quan hệ cung cầu và sự biến động của giá cả thị trường thế giới. Hoàn thiện cơ chế quản lý giá và kiểm soát giá độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh, thúc đẩy tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, mở rộng hợp tác quốc tế. Những kết quả khả quan sẽ đến với nền kinh tế Việt Nam nếu chúng ta đoàn kết và quyết tâm cao theo đường lối thống nhất của Đảng và Nhà nước ta đề ra./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiền tệ ngân hàng (2006), NXB Thống Kê, Thạc sĩ Lê Thị Tuyết Hoa.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu và ứng phó chính sách của Việt Nam một năm nhìn lại (2010), NXB Khoa học- xã hội, GS.TS.Đỗ Hoài Nam.
Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ (2009), NXB Thống Kê, PGS.TS.Phan Thị Cúc, TS. Đoàn Văn Huy, TS. Dương Hồng Thủy.
www.vietbao.vn
www.vnepress.vn
www.tailieu.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- baitieuluan_copy_8557.docx