Thực trạng tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2009 - Các biện pháp mà chính phủ đã thực hiện để cải thiện tình hình xuất nhập khẩu của Viêt Nam

MỤC LỤC Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT NHẬP KHẨU 1.1. Khái niệm và vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của xuất nhập khẩu 1.1.2. Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu 1.2. Các yếu tố tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu 1.2.1. Yếu tố tác động tới xuất khẩu 1.2.2. Yếu tố tác động đến nhập khẩu Chương 2: THỰC TRẠNG CỦA TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM NĂM 2009 2.1. Đánh giá chung về tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2009 2.2. Mười điểm đáng chú ý về tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2009 2.3. Thực trạng tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2009 2.3.1. Giá trị và tốc độ tăng trưởng của xuất nhập khẩu năm 2009 2.3.2. Các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu của nước ta 2.4. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng giảm xuất khẩu và tăng nhập siêu của Việt Nam 2.4.1. Nguyên nhân làm giảm tỷ lệ xuất khẩu của Việt Nam năm 2009 2.4.2. Nguyên nhân làm cho nhập siêu năm 2009 tăng cao Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ GIẢI QUYẾT TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM NĂM 2009 LỜI MỞ ĐẦU Trong điều kiện tiến bộ khoa học công nghệ và của phân công lao động quốc tế hiện nay, không thể có một nước phát triển bình thường mà không cần sự giao lưu, hợp tác quốc tế. Do vậy, quan hệ kinh tế quốc tế là nhân tố, là biện pháp thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững và hiệu quả nền kinh tế của một đất nước. Một trong những chiến lược phát triển nền kinh tế của Việt Nam đó là hoạt động xuất nhập khẩu, là kết quả tất yếu của quá trình tự do hoá thương mại, phân công lao động, quá trình nâng cao vai trò tự chủ của doanh nghiệp. Hoạt động xuất nhập khẩu là chiếc cầu nối giữa thị trường quốc gia và thị trường quốc tế. Thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, năng suất lao động tăng lên, tăng cường khả năng cạnh tranh, tăng thu nhập cho người lao động, đặc biệt nó giữ vai trò quan trọng trong việc tăng trưởng và phát triển kinh tế của một đất nước. Cho nên để tăng tốc độ xuất khẩu, đẩy nhanh tiến độ hội nhậpkinh tế với khu vực và thế giới, Đảng và chính phủ ta đã chủ trương tiếp tục đẩy mạnh hoạt động xuất nhâp khẩu, mở cửa nền kinh tế tiếp tục đa dạng hoá thị trường và đa phương hoá mối quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới. Trước tình hình như vậy nhóm em đã thực hiện đề tài: “Thực trạng tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2009. Các biện pháp mà chính phủ đã thực hiện để cải thiện tình hình xuất nhập khẩu của Viêt Nam”

doc26 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3926 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2009 - Các biện pháp mà chính phủ đã thực hiện để cải thiện tình hình xuất nhập khẩu của Viêt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển và ổn định, tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và năng lực sản xuất trong nước thông qua việc thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ từ các nước phát triển nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước tạo ra một năng lực sản xuất mới. Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành được cơ cấu sản xuất thích nghi được với mọi thị trường. Việc xuất khẩu các sản phẩm hàng hoá qua các thị trường quốc tế phải cần một lượng lớn nhân công để sản xuất và hoạt động nhập khẩu thu về một lượng ngoại tệ đáng kể để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng phục vụ đời sống và đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng, phong phú của nhân dân. Do vậy, xuất khẩu tác động đến giải quyết công an việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Xuất khẩu là một hình thức của kinh tế đối ngoại, điều này giúp nền kinh tế nước ta gắn chặt với nền kinh tế thế giới và tham gia vào phân công lao động quốc tế, thông qua xuất khẩu và các quan hệ đối ngoại mà hiện nay nước ta đã thiết lập mối quan hệ thương mại với hơn 140 nước trên thế giới, ký các hiệp định thương mại với hơn 70 nước là thành viên của tổ chức kinh tế của thế giới và khu vực. * Đối với hoạt động nhập khẩu Nhập khẩu cho phép bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo một sự phát triển cân đối và ổn định. Khai thác đến mức tối đa tiềm năng và khả năng kinh tế. Sản xuất trong nứơc phải học tập, nghiên cứu và đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng để cạnh tranh với hàng nhập. Thông qua nhập khẩu các thiết bị máy móc được trang bị hiện đại, bổ sung nguyên vật liệu đảm bảo đầu vào cho sản xuất, từ đó tạo việc làm cho người lao động, góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Nhập khẩu góp phần thúc đẩy xuất khẩu do có nguyên liệu và máy móc để sản xuất hàng xuất khẩu. Từ đó, thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tóm lại, hoạt động xuất nhập khẩu có vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế của đất nước. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, đang tiến trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại đặc biệt quan trọng. Hơn hai mươi năm qua, với nhiều chủ trươnng và chính sách của Đảng và nhà nước, các mối quan hệ ngày càng mở rộng và phát triển, kim ngạch xuất khẩu ngày càng gia tăng tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho sự giao lưu các ngành kinh tế của ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Các yếu tố tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu 1.2.1. Yếu tố tác động đến hoạt động xuất khẩu * Nhân tố kinh tế Yếu tố thị trường tác động rất lớn đến các hoạt động xuất khẩu. Việc lựa chọn đúng đắn thị trường cho xuất khẩu là một nhân tố đòi hỏi phải tính toán dự báo chính xác thị trường đó phải là thị trường tiềm năng có triển vọng trong tương lai. Các yếu tố đối tác trong nhân tố kinh tế là một nhân tố quan trọng, nó là đầu mối để lưu thông sản phẩm hàng hoá trên thị trường. Do vậy, việc thiết lập mối quan hệ tốt hay tìm hiểu kỹ đối tác đem lại lợi ích to lớn cho hoạt động xuất khẩu. Các chính sách quốc gia, quốc tế ảnh hưởng to lớn đến hoạt động xuất khẩu. Khi mối quan hệ kinh tế với các đối tác không còn thuận lợi thì sẽ có các chính sách hạn nghạch xuất khẩu làm cho việc xuất khẩu trở nên khó khăn hơn. Hàng hoá xuất khẩu của nước ta phải chịu rất nhiều sức ép từ các phía. Do vậy, để tồn tại và phát triển ở nước ngoài thì các sản phẩm xuất khẩu của nước ta phải được người tiêu dùng chấp nhận và có tính cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. * Nhân tố khoa học và công nghệ Việc xuất khẩu hàng hoá sang thị trường ngoài nước đòi hỏi các sản phẩm của nước ta phải có một đặc tính riêng biệt và có thể cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại trên thị trường nước bạn và của các nước khác nhập vào. Để tạo ra được tính ưu việt, các nhà xuất khẩu phải không ngừng đổi mới đầu tư trang thiết bị, khoa học công nghệ cho dây chuyền sản xuất để ngày càng đổi mới sản phẩm, thích nghi với nhu cầu đa dạng phong phú của người tiêu dùng là nước ngoài. Do vậy, nhân tố khoa học công nghệ ảnh hưởng quyết định đến mức tiêu thụ sản phẩm và việc đáp ứng nhu cầu thị trường cả về số lượng và chất lượng. * Nhân tố chính trị, xã hội và quân sự Sự ổn định hay không ổn định về chính trị xã hội cũng là nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Hệ thống chính trị, các quan điểm chính trị, xã hội đều tác động trực tiếp đến phạm vi lĩnh vực và các đối tác kinh doanh. Mặt khác xung đột giữa các quốc gia dẫn đến sự thay đổi lớn về các chính sách kinh tế, chính trị quân sự. Từ đó, tạo nên hàng rào ngăn cản hoạt động kinh doanh quốc tế, đặc biệt là xuất khẩu. * Nhân tố liên minh, liên kết về kinh tế, chính trị Việc mở rộng ngoại giao, hình thành các khối liên kết quốc tế, chính trị, quân sự góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên. Tăng cường tích cực tiến hành ký kết với các quốc gia ngoài khối những hiệp định, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh phát triển. Từ đó, xúc tiến thương mại, đẩy mạnh các hoạt động xuất nhập khẩu giữa các nước. 1.2.2.Yếu tố tác động đến hoạt động nhập khẩu * Nhân tố về vốn vật chất hay sức mạnh về tài chính Vốn là yếu tố tác động lớn nhất đến hoạt động nhập khẩu của nước ta, nếu không có vốn thì hoạt động nhập khẩu không thể diễn ra được. Nguồn sức mạnh tài chính sẽg giúp cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu diễn ra dễ dàng hơn. * Các chính sách của chính phủ Chính sách của chính phủ có tác động không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động nhập khẩu. Chính sách bảo hộ nề sản xuất trong nước và khuyến khích thay thế hàng nhập khẩu đã làm giảm hiệu quả kinh doanh của các nhà nhập khẩu muốn thu lợi nhuận qua vuệc bán hàng nhập khẩu trong nước nhưng góp phần mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, tạo công an việc làm cho người lao động và khuyến khích các nhà sản xuất trong nước phát huy hết được khả năng của mình. * Thuế nhập khẩu Thuế nhập khẩu là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá hoặc tính theo phần trăm đối với tổng giá trị hàng hoá hay là kết hợp cả hai cách nói trên đối với hàng xuất khẩu. Thuế nhập khẩu nhằm bảo vệ và phát triển sản xuất, hướng dẫn tiêu dùng trong nước và góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên thuế nhập khẩu làm cho giá bán trong nước của hàng nhập khẩu cao hơn mức giá nhập và chính người tiêu dùng trong nước phải chịu thuế này. * Yếu tố về hạn ngạch nhập khẩu Hạn ngạch nhập khẩu là quy định của nhà nước nhằm hạn chế nhập khẩu về số lượng hoặc giá trị một số hàng nhất định hoặc từ những thị trường nhất định trong một khoảng thời gian thường là một năm. Việc áp dụng biện pháp quản lí nhập khẩu bằng hạn ngạch của nhà nước nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, sử dụng hiệu quả quỹ ngoại tệ, đảm bảo các cam kết của chính phủ ta với nước ngoài. * Tỉ giá hối đoái Các phương tiện thanh toán quốc tế được mua và bán trên thị trường hối đoái bằng tiền tệ quốc gia của một nước theo một giá cả nhất định, vì vậy giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ của nước kia gọi là tỉ giá hối đoái. Việc áp dụng loại tỉ giá hối đoái nào, cao hay thấp đến ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu. Việc phá giá đồng nội tệ hay chính là tỉ giá hối đoái cao lên sẽ có tác dụng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Ngược lại, tỉ giá hối đoái thấp sẽ hạn chế xuất khẩu và đẩy mạnh nhập khẩu. * Nhân tố văn hoá, thị hiếu của mỗi quốc gia Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau và mỗi quốc gia có một phong tục tập quán khác nhau. Mỗi quốc gia sẽ nhập khẩu hàng hoá để bổ sung thay thế cho việc tiêu dùng hoặc nhập khẩu để tiếp tục sản xuất các loại hàng hoá phù hợp với nhu cầu và thị hiếu trong một giai đoạn nhất định của một dân cư. Việc nghiên cứu văn hoá, thị hiếu sẽ quyết định kết quả hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu của từng quốc gia. Chương 2 THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM NĂM 2009 2.1. Đánh giá chung về tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2009 Tháng 12, kim ngạch xuất khẩu (5,47 tỷ USD) và nhập khẩu (7,4 tỷ USD) đạt mức cao nhất trong năm, nâng kim nhạch xuất khẩu cả năm lên 57,1 tỷ USD, giảm 8,9% so với năm 2008 và nhập khẩu là 69,95 tỷ USD, giảm 13,3%. Như vậy tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước năm 2009 là 127,05 tỷ USD, giảm 11,4% so với năm 2008, cán cân thương mại hàng hóa thâm hụt 12,85 tỷ USD, bằng 22,6% xuất khẩu. Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất nhập khẩu và cán cân thương mại năm 2009 Năm 2009, xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư trục tiếp nước ngoài (FDI) đạt 24,18 tỷ USD, chiếm 42,3% kim ngạch xuất khẩu của cả nước và nhập khẩu là 26,07 tỷ USD, giảm 6,5% so với năm 2008. 2.2. Mười điểm đáng chú ý về tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2009 Xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2009 đã có một năm “hụt hơi” và kém rất xa so với kim ngạch đạt được trong năm 2008. Khi kinh tế thế giới đi vào giai đoạn trì trệ, những giải pháp chính sách chỉ có thể thúc đẩy xuất khẩu Việt Nam tăng về mặt lượng. Nỗ lực từ phía chính phủ đang bị “hãm phanh” bởi các hàng rào kỹ thuật có xu hướng gia tăng trên thế giới, thay thế những bức tường chính sách được “đập bỏ” vì cam kết mở cửa và hội nhập. Theo đó là mười điểm đáng chú ý về tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2009 đó là: 1.Chính phủ buộc phải điều chỉnh chỉ tiêu xuất khẩu Sau kết quả tăng trưởng xuất khẩu xấp xỉ 30% trong năm 2008, cuối năm ngoái, chính phủ trình lên quốc hội một kế hoạch kinh tế đầy tham vọng, với kim ngạch xuất khẩu năm 2009 dự kiến đạt khoảng76,7 tỷ USD, tăng 18% so với năm 2008. Cẩn trọng trước diễn biến kinh tế thế giới có chiều hướng đi xuống, gần 88% đại biểu quốc hội đã bỏ phiếu tán thành nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2009, trong đó tốc độ tăng trưởng xuất khẩu được điều chỉnh xuống còn 13%. Tháng 1/2009, kim ngạch xuất khẩu xụt giảm mạnh, chỉ còn hơn 3,7 tỷ USD (năm 2008, kim ngạch xuất khẩu bình quân một tháng đạt gần 5,25 tỷ USD). Dù hai tháng kế tiếp, xuất khẩu có phục hồi, nhưng tiếp đến là giai đoạn trầm lắng hơn với kim ngạch tháng 4 và 5/2009 chưa đầy 4,5 tỷ USD mỗi tháng. Trong các cuộc họp của Bộ Công Thương với các hiệp hội trong thời gian này, hầu hết các ngành hàng xuất khẩu chủ lực đều kiến nghị điều chỉnh giảm chỉ tiêu tăng trưởng xuất khẩu, tiêu biểu là dệt may, gỗ, thuỷ sản… Cuối tháng 5/2009, chính phủ buộc trình Quốc hội điều chỉnh kim ngạch xuất khẩu theo hướng giảm mạnh, từ mức 13% xuống còn 3%. Mục tiêu xuất khẩu được điều chỉnh xuống 34,6 tỷ USD kim ngạch. Trong khoảng 4 tháng kế tiếp, liên tục xuất hiện các điều chỉnh trong ước tính kim ngạch xuất khẩu của Bộ Công Thương. Cuối tháng 7/2009, Bộ Công Thương ước tính kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 61 tỷ USD, giảm 3% so với con số thực hiện năm 2008. Trong 8 tháng đầu năm 2009, Việt Nam là nhà xuất khẩu hàng hóa tới Myanmar đứng thứ 14 sau các nước và vùng lãnh thổ: Singapore, Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Indonesia, Pháp, Australia, Hoa Kỳ, Đức, Đài Loan, Việt Nam. Hàng hóa 8 tháng đầu năm 2009 Thép các loại 2.518.287 Nguyên phụ liệu may mặc 2.258.344 Thuốc chữa bệnh và thiết bị y tế 1.430.723 Ô tô 1.200.000 Nguyên phụ liệu các ngành công nghiệp khác 1.085.526 Xăm lốp các loại 867.890 Thiết bị điện và điện tử 804.042 Hoá chất 455.260 Phụ tùng máy móc 350.224 Nguyên phụ liệu sản xuất giày dép 345.666 Vật liệu xây dựng 318.513 Dụng cụ nhà bếp 316.989 Chất dẻo nguyên liệu 226.579 Nguyên liệu cho ngành công nghiệp thực phẩm 205.790 Nguyên liệu sản xuất xà phòng 173.583 Tái xuất sản phẩm chế tác đá quý 140.661 Mỹ phẩm 104.587 Máy tính điện tử và linh kiện 72.445 Tổng kim ngạch xuất khẩu Theo số liệu của  Cục Hải quan Myanmar 13.764.300 Theo số liệu của  Tổng  Cục Hải quan Việt Nam 14.000.000 Bảng 1:Kim ngạch xuất nhập khẩu một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam tới Myanma 8 tháng đầu năm 2009 được thể hiện qua bảng số liệu sau: (đơn vị tính: USD) Trong nửa cuối tháng 9/2009, Bộ Công Thương tiếp tục đưa ra các dự báo mà con số được điều chỉnh xuống 59 tỷ USD (giảm khoảng 6,5%), tiếp đó là 56,7 tỷ USD (giảm khoảng 9,5%). 2. Lần đầu tiên sau 20 năm, xuất khẩu giảm so với trước Kết thúc năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu ước tính đạt 56,584 tỷ USD, giảm 9,7% so với thực hiện năm 2008. So sánh với số liệu tương ứng từ năm 1986 trở lại đây, năm 2009 là năm đầu tiên kim ngạch xuất khẩu giảm so với năm trước đó.Đóng góp vào việc giảm kim ngạch xuất khẩu trong năm 2009, dầu thô chiếm 69,7%. Tiếp đến giày dép chiếm khoảng 12,6%, cao su chiếm xấp xỉ 6,8%, cà phê 6,7%, gỗ và sản phẩm gỗ 4,7%, thuỷ sản 4,4%... Về nhập khẩu, kim ngạch cả năm 2009 ước đạt 68,83 tỷ USD và giảm 14,7% so với năm 2008. Năm nay là năm thứ hai, sau năm 1998, kim ngạch nhập khẩu giảm so năm trước đó, nhưng mức độ giảm mạnh hơn. Và theo như thống kê, trong 8 tháng đầu năm 2009, Việt Nam là nhà nhập khẩu hàng hoá từ Myanmar đứng thứ 13 sau các nước và vùng lãnh thổ: Thái Lan, Ấn Độ, Singapore, Hongkong, Trung Quốc, Bờ biển Ngà, Nhật Bản, Malaysia, Bangladesh, Nam Phi, Hàn Quốc, Đức, Việt Nam. Hàng hóa 8 tháng đầu năm 2009 Gỗ tròn các loại 20.595.209 Mủ cao su Rss5 2.859.300 Đậu xanh 1.510.925 Cá khô 1.505.271 Cá biển đông lạnh 877.069 Đồng nguyên liệu 849.887 Tôm hùm 849.049 Cua biển 570.234 Dây thép 529.003 Đậu đen  360.431 Đậu tương, 181.500 Tổng kim ngạch nhập khẩu Theo số liệu của Cục Hải quan Myanmar 32.411.273 Theo số liệu của Tổng  Cục Hải quan  Việt Nam 35.000.000 Bảng 2: Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chính của Việt Nam từ Myanmar trong 8 tháng đầu năm 2009 được thể hiện qua bảng số liệu sau: (đơn vị tính:USD) Trong các nguyên nhân giảm kim ngạch xuất khẩu, xăng dầu chiếm 40%, sắt thép chiếm khoảng 13,2%, máy móc thiết bị dụng cụ và phương tiện chiếm 6,1%, nguyên phụ liệu dệt may, giày dép chiếm 3,5%... Với diễn biến này, độ mở nền kinh tế, theo cách hiểu là tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, đã giảm mạnh trong năm 2009, từ mức 143,4 tỷ USD của năm 2008 xuống chỉ còn trên 125,4 tỷ USD, giảm tới 12,6%. 3. Nhập siêu được kiềm chế Diễn biến nhập siêu cũng chứng kiến nhiều bất thường trong năm 2009. Quý 1/2009, Việt Nam xuất siêu xấp xỉ 1,5 tỷ USD với cả 3 tháng đầu năm đều có xuất siêu, tuy nhiên xu thế này không duy trì được lâu. Trong 9 tháng còn lại của năm, nhập siêu gia tăng dần sức ép. Quý 2/2009, nhập siêu đạt xấp xỉ 3,6 tỷ USD, xoá sạch thành tích xuất siêu của quý 1/2009. Tính cho đến giữa năm, Việt Nam đã nhập siêu gần 2,1 tỷ USD. Sang quý 3/2009, nhập siêu của Việt Nam đột ngột tăng mạnh. Con số ghi nhận trong 3 tháng này đã đạt trên 4,67 tỷ USD. Quý 4/2009, nhập siêu vẫn duy trì ở mức cao, đạt khoảng 4,8 tỷ USD, trong đó riêng nhập siêu tháng 11/2009 đã vượt 2 tỷ USD. So với con số nhập siêu trên 18 tỷ của năm 2008, năm nay chenh lệch thương mại quốc tế đã được kiềm chế chỉ còn khoảng 2/3, đạt gần 12,25 tỷ USD. 4. Giá hàng hoá xuất nhập khẩu giảm mạnh Đa số các mặt hàng xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng về lượng. Nhưng giá của hầu hết các hàng hoá đều theo chiều hướng giảm mạnh. Trong năm vừa qua, cá biệt có mặt hàng giá bình quân cả năm giảm tới 40%. Về phía xuất khẩu, giá dầu thô xuất bán bình quân cả năm chỉ đạt khoảng 46,3 tỷ USD, giảm tới 38,5% so với năm 2008 (giá xuất khẩu bình quân của năm 2008 đạt trên 75,3 USD). Tiếp đến giá cao su xuất khẩu đã giảm khoảng 32%, cà phê 27%, gạo 25%, than đá 26%, hạt tiêu 24%, hạt điều 13%... Đối với hàng dệt may, mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn hơn trong năm 2009, giá bình quân xuất khẩu trong năm 2009 đã giảm từ 10- 15% so với năm 2008 (theo ước tính của Hiệp hội Dệt may Việt Nam). Giá hàng hoá nhập khẩu cũng giảm mạnh trong năm 2009. Bình quân, giá xăng dầu nhập khẩu đã giảm 42%, lúa mỳ giảm 40%, phân bón 35%, sắt thép 32%, chất dẻo 24%, sợi dệt 15%... Do xuất khẩu tăng mạnh về lượng, những tính toán sơ bộ của Tổng cục Thống kê cho biết, chênh lệch xuất nhập khẩu năm nay vẫn đóng góp đáng kể vào tăng trưởng GDP, khoảng 30%. Nếu như tăng trưởng năm 2009 đạt 5,3% như tính toán của Tổng cục Thống kê thì đóng góp của xuất khẩu ròng năm 2009 vào khoảng 1,6% điểm. 5.Hàng nông nghiệp “thăng hoa” Theo Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm, thuỷ sản năm 2009 ước đạt khoảng 15,3 tỷ USD, trong đó nông sản đạt trên 8 tỷ USD, thuỷ sản trên 4 tỷ USD, lâm sản trên 2 tỷ USD…Với kết quả này, kim ngạch xuất khẩu ngành nông nghiệp năm 2009 đã vượt dự kiến hồi đầu năm (12 tỷ USD) và chỉ tiêu thủ tướng chính phủ giao (14 tỷ USD). Trong 2 tháng cuối năm, việc giá nhiều mặt hàng nông sản như gạo, cao su, hạt tiêu…tăng trở lại đã góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng này. Nhìn nhận những nhân tố đóng góp tích cực vào kết quả xuất khẩu năm 2009 thì trong 8 mặt hàng tác động kìm hãm sự suy giảm của kim ngạch xuất khẩu năm 2009 thì nhóm nông lâm,thuỷ sản chiếm một nửa. Đứng đầu là sắn và các sản phẩm sắn. Nhóm hàng này đạt tăng trưởng 52,8% về giá trị trong năm 2009 và đóng góp 3,2% vào việc kìm hãm giảm kim ngạch xuất khẩu. Tiếp đến là hạt tiêu tăng trưởng 14,3% và đóng góp 0,8%, chè 21,3% và 0,5%, cuối cùng là rau quả 6,1% và 0,4%. 6. “Ẩn số” xuất, nhập vàng Năm 2009 cũng chứng kiến một nhân tố gây đột biến lớn tới kim ngạch xuất nhập khẩu, đó là vàng vật chất. Theo Tổng cục Thống kê, tái xuất vàng quý 1/2009 khoảng 2,287 tỷ USD. Đây cũng là động lực chính khiến Việt Nam xuất siêu trong giai đoạn này. Tính chung cả năm, xuất khẩu nhóm đá qúy, kim loại quý và sản phẩm đã đạt trên 2,7 tỷ USD kim ngạch. Nhân tố này đóng góp tới 32,4% tổng các cản lực đối với suy giảm kim ngạch xuất khẩu. Cũng liên quan đến diễn biến khá bất thường này, nhiều ý kiến đã chỉ trích Tổng cục Thống kê về việc đưa vàng vào kim ngạch xuất khẩu chung cả nước, cho rằng động thái này nhằm để làm đẹp con số, và vàng không phải là hàng hoá thông thường. Trong một diễn biến ngược chiều, đến cuối năm 2009, trước việc giá vàng trong nước đã lên quá cao, có độ chênh lệch lớn so với mặt bằng giá thế giới, ngân hàng nhà nước ra quyết định cho phép nhập khẩu một số lượng lớn vàng vật chất. Theo số liệu của cơ quan thống kê, riêng tháng 11/2009, kim ngạch nhập khẩu vàng đã trên 337 tỷ USD. Nếu tính giá vàng ở mức 1100- 1200 USD/oz (1 Troy oz =31,1 gam), lượng vàng nhập khẩu vào Việt Nam trong tháng 11/2009 tương đương khoảng 9 – 10 tấn. 7. Điều chỉnh tỷ giá Từ biên độ +/-3% được công bố cuối năm 2008, sang đến tháng 3/2009, biên độ tỷ giá VND/USD được điều chỉnh lên +/-5% với tỷ giá bình quân liên ngân hàng sau lần điều chỉnh cuối cùng ở mức 17.034 VND/USD. Cũng trong thời gian này, trên thị trường tự do giá USD liên tục tăng cao. Chỉ số giá USD bình quân năm 2009 đã tăng 9,17% so với năm trước đó, gây sức ép rất lớn lên chính sách tỷ giá của ngân hàng Nhà nước. Trên thực tế, giá mua và bán được các ngân hàng thương mại công bố liên tục kịch trần, nhiều thời điểm các ngân hàng niêm yết giá mua bằng với giá bán. Trong các giao dịch mua ngoại tệ với ngân hàng, nhiều doanh nghiệp luôn phải chấp nhận tính thêm vào giá USD chính thức một vài loại chi phí khác. Phần chênh lệch này được các doanh nghiệp gọi đùa là “chi phí không biết đưa vào đâu”. Cục thống kê Lao Động Hoa Kỳ công bố hôm 16/12 cho biết, lạm phát khu vực thành thị trong vòng một năm qua, tính đến tháng 11/2009 đã tăng 1,8%. Trong khi đó lạm phát tại Việt Nam trong 12 tháng qua đã trên 6,5%. Trước những sức ép kể trên, ngày 25/11, ngân hàng nhà nước Việt Nam đã công bố mức tỷ giá USD/VND bình quân liên ngân hàng áp dụng cho ngày 26/11/2009 là 17.961 và biên độ được thu hẹp về còn +/-3%. 9. Kiện chống phá giá tăng Theo hội đồng trọng tài quốc tế Việt Nam, tính đến hết tháng 7/2009, Việt Nam bị kiện chống phá giá 39 vụ, tỷ lệ thua kiện gần 70% đứng thứ 7 trong 100 nước bị kiện nhiều nhất thế giới. Tuy nhiên, đó chưa phải là con số cuối cùng. Trong năm nay, nhiều vụ kiện chống bán phá giá mới lại tiếp tục, đáng chú ý có các vụ như sau: Ngày 27/2, Canada chính thức khởi xướng vụ điều tra chống bán phá giá đối với giầy và đế giầy cao su không thấm nước Việt Nam. Ngày 31/3, hai công ty nhựa Hoa Kỳ đã gửi đơn kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với túi nhựa PE Việt Nam. Ngày 25/7, Cục điều tra trợ cấp và bán phá giá Thổ Nhĩ Kỳ ra quyết định số 2009/26 về việc khởi xướng điều tra chống lẩn tránh thuế đối với sản phẩm máy điều hoà có xuất xứ từ Việt Nam, Indonesia, Philippin, Pakistan và Ai Cập. Ngày 8/9, Bộ thương mại Hoa Kỳ (DOC) điều chỉnh mức thuế chống bán phá giá đối với cả ba đơn vị bắt buộc Minh Phu Corp (từ 1,66% xuống 0,43%), Phuong Nam (từ 5,6% xuống 0,21%), và Caminex (từ 19,8% xuống mức 0,08%). Ngày 22/12, Liên minh châu Âu (EU) đã bỏ phiếu chính thức thông qua đề xuất của uỷ ban châu Âu (EC) kéo dài thêm 15 tháng thời hạn áp thuế chống bán phá giá đối với giày mũ da nhập khẩu của Việt Nam. Mức thuế mà EC áp đặt với giày dép nhập khẩu từ Việt Nam là 10%. 10. Thi nhau dựng rào cản kỹ thuật Khủng hoảng kinh tế khiến các rào cản thương mại được dựng lên ngày càng nhiều. Các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang phải đầu tư, chi phí cả nhân lực và vốn, thiết bị để đáp ứng các yêu cầu mới. Liên quan đến thị trường Hoa Kỳ, Đạo luật Lacey sửa đổi, đạo luật Nông nghiệp Mỹ 2008 (Farm Bill 2008), đạo luật cải tiến an toàn sản phẩm tiêu dùng đều yêu cầu cung cấp chứng nhận xuất xứ sản phẩm, kiểm tra hoá chất, an toàn cháy…Những thay đổi này sẽ tác động trực tiếp đến xuất khẩu nông sản, hải sản, đồ gỗ, dệt may, hàng tiêu dùng… Đạo luật FLEGT của EU quy định tất cả các chuyến hàng gỗ xuất khẩu vào thị trường EU chỉ được cơ quan thẩm quyền cấp phép sau khi kiểm tra nguồn gốc xuất xứ. Quy định IUU (cũng của EU) bắt buộc mỗi lô hàng thuỷ sản xuất khẩu sang EU phải tuân thủ quy định về khai thác hợp pháp, phải có cam kết của nhà máy chế biến về nguồn gốc sản phẩm. Hàn Quốc cũng thắt chặt kiểm tra các sản phẩm nhập khẩu theo hình thức OEM (Original Equipment Manufacturing). Các doanh nghiệp Hàn Quốc nhập khẩu sản phẩm từ các công ty gia công ơ nước ngoài cần phải kiểm tra cơ sở sản xuất ít nhất một lần trong một năm. 2.3. Thực trạng tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2009 2.3.1. Giá trị và tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2009 Mức nhập siêu năm 2009 của Việt Nam thấp hơn nhiều con số của năm 2008, nhưng tăng gần 250 triệu USD so với mục tiêu đề ra. Nhập siêu năm 2009 ước tính lên tới 12,246 tỷ USD, báo cáo tình hình xuất nhập khẩu của tổng cục thống kê công bố cho biết như vậy. Nhập siêu năm 2009 bằng khoảng 21,6% tổng kim ngạch xuất khẩu Con số của tổng cục thống kê cho biết thấp hơn nhiều mức nhập siêu thực hiện lên tới 18,029 tỷ USD của năm 2008, nhưng tăng gần 250 triệu USD so với mục tiêu đề ra. Tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm 2009 ước tính đạt 56,584 tỷ USD, giảm 9,7 % so với thực hiện năm 2008. Bên phía nhập khẩu, các con số tương ứng là 68,83 tỷ USD và giảm 14,7% so với thực hiện. Như vậy, nhập siêu năm 2009 bằng khoảng 21,6% tổng kim ngạch xuất khẩu ( năm 2008 khoảng 28,5%) . Do sự sụt giảm kim ngạch cả xuất khẩu và nhập khẩu, quy mô giao dịch thương mại quốc tế của Việt Nam năm 2009 đã giảm nhiều. Tổng xuất khẩu cả năm ước tính chỉ còn trên 125,4 tỷ USD, giảm 12,6% so với năm 2008 (143,4 tỷ USD). Số liệu cho thấy, hoạt động xuất khẩu có chiều hướng tăng trong 3 tháng đầu năm với lượng kim ngạch lớn đem về từ tái xuất vàng (2.287 tỷ USD), tuy nhiên sau đó, xuất khẩu lại sụt giảm khoảng 20% trong tháng 4, để rồi tăng dần đến cuối năm, đan xen bằng những tháng giảm kim ngạch. Về phía nhập khẩu, kim ngạch tăng liên tục 7 tháng đầu năm, sau đó giảm khoảng 8% trong tháng 8, tiếp tục tăng trong 3 tháng sau đó, trước khi điều chỉnh nhẹ trong tháng cuối cùng của năm. Đáng chú ý, trong trong 3 tháng cuối năm cán cân thương mại đã có sự đổi chiều ngoạn mục. Trong khi xuất khẩu thực hiện tháng 11 chỉ đạt mức 4,686 tỷ USD, giảm tới 10% từ 5,206 tỷ USD của tháng trước đó, nhập khẩu lại tăng nhẹ và đạt mức kỷ lục 6,767 tỷ USD trong tháng 11 năm 2009. Biểu đồ 2: Biểu đồ xuất, nhập khẩu và chênh lệch xuất khẩu so với nhập khẩu qua các tháng năm 2009 - Nguồn: Tổng cục Thống kê Nhìn vào từng mặt hàng xuất nhập khẩu, tình hình không có sự biến động lớn. Trong 25 mặt hàng xuất khẩu được liệt kê, so với thực hiện năm 2008, chỉ có dầu thô giảm về lượng ( âm 2,4%) do đã dành hơn 2 triệu tấn cho nhà máy lọc dầu Dung Quất. Các mặt hàng còn lại đều tăng. Tuy nhiên, do giá giảm mạnh nên kim ngạch đa số các mặt hàng đều giảm so với năm 2008 ( chỉ có 8 mặt hàng tăng). Tương tự, trong 27 mặt hàng nhập khẩu, đa số tăng về lượng (chỉ có 3 mặt hàng giảm), nhưng số mặt hàng tăng về giá trị cũng không nhiều (9 mặt hàng). Liên quan đến hoạt động nhập khẩu vàng trong hai tháng cuối năm 2009, thì theo một nguồn tin từ Tổng cục Thống kê, kim ngạch nhập khẩu vàng tháng 11 năm 2009 đạt trên 337 triệu USD và được tính chung vào nhóm hàng hoá khác, không có thống kê riêng. Theo ước tính của VnEconomy, lượng vàng nhập khẩu tương ứng khoảng 9- 10 tấn và theo nguồn tin này thì kim ngạch nhập khẩu vàng trong tháng 12 năm 2009 là không đáng kể. Như vậy, kết quả xuất nhập khẩu năm 2009 đã khép lại với xuất khẩu, nhập khẩu và nhập siêu không thực hiện đựơc như kế hoạch đã đề ra. Tuy nhiên, mức giảm nhập siêu so với năm 2008 ít nhiều đã tạo thuận lợi cho việc ổn định kinh tế vĩ mô trong năm 2009. 2.3.2 Các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu của nước ta năm 2009. a. Một số mặt hàng xuất khẩu chính * Dầu thô Lượng xuất khẩu trong tháng 12 là 713 nghìn tấn, tăng 8,3% so với tháng 11, kim ngạch đạt 426 triệu USD. Tính đến hết tháng 12/2009, lượng dầu thô xuất khẩu của nước ta đạt 13,4 triệu tấn, giảm 2,8% so với năm 2008. Đơn giá xuất khẩu bình quân giảm mạnh 38,5% so với năm trước (tương ứng giảm 290 USD/tấn) nên kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này cả năm chỉ đạt 6,19 tỷ, giảm 40,2%. Trong năm qua, dầu thô của nước ta chủ yếu được xuất khẩu sang Ôxtrâylia với 3,33 triệu tấn, giảm 20,1 so với năm 2008; sang Singapore là 2,25 triệu tấn, tăng 9,5%; sang Malaysia là 1,79 triệu tấn, tăng 50,2%; sang Hoa Kỳ là 1,06 triệu tấn, giảm 27,5% so với năm 2008… Biểu đồ 3:Lượng và đơn giá dầu thô xuất khẩu từ năm 1999- 2009 * Cà phê Lượng xuất khẩu cà phê trong tháng 12 đạt 145 nghìn tấn, tăng 79,3% so với tháng trước, nâng tổng lượng xuất khẩu cả năm lên 1,18 triệu tấn, tăng 11,75 so với năm 2008. Do đơn giá xuất khẩu bình quân giảm 26,6% nên trị giá chỉ là 1,73 tỷ USD, giảm 18% so với năm trước. Các thị trường chính nhập khẩu cà phê Việt Nam trong 12 tháng qua là Đức: 136 nghìn tấn, tăng 0,2% so với năm 2008; Bỉ: 132 nghìn tấn, tăng 49,5%; Hoa Kỳ: 128 nghìn tấn, tăng 20,4%; Italia: 96,2 nghìn tấn, tăng 11,3%... * Hạt điều Lượng xuất khẩu hạt điều trong tháng 12 là 15,5 nghìn tấn, tăng 3,1% so với tháng 11, nâng tổng lượng xuất khẩu của cả nước trong 12 tháng qua là 177 nghìn tấn, tăng 7,1% và đạt kim ngạch là 847 triệu USD, giảm 7,2% so với năm 2008. Năm 2009, hạt điều của nước ta chủ yếu xuất sang Hoa Kỳ với 53,3 nghìn tấn, tăng 9,4% so với năm trước và chiếm 30,1% lượng xuất khẩu mặt hàng này của cả nước. Tiếp theo là thị trường Trung Quốc: 38,5 nghìn tấn, tăng 25,7%; Hà Lan: 24,4 nghìn tấn, giảm 12,2%; Úc: 11,9 nghìn tấn, tăng 3,5%... * Than đá Lượng xuất khẩu trong tháng 12 là 2,42 triệu tấn, giảm 6,7% so với tháng trước, nâng tổng lượng than xuất khẩu của cả nước năm 2009 lên gần 25 triệu tấn, tăng 29,1% và đạt kim ngạch 1,32 tỷ USD, giảm 5,15% so với năm trước. Trong năm 2009, than đá của nước ta chủ yếu xuất sang thị trường Trung Quốc với 20,5 triệu tấn, chiếm 81,8% tổng lượng xuất khẩu hàng này của cả nước. Tiếp theo là thị trường Hàn Quốc: 1,78 triệu tấn, Nhật Bản: 1,38 triệu tấn, Thái Lan: 608 nghìn tấn… * Gạo Năm 2009, lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam lên mức kỷ lục với 5,96 triệu tấn, tăng 25,7% so với năm 2008. Tuy vậy, giá xuất khẩu bình quân giảm 26,8% ( tương ứng giảm 163USD/ tấn) nên trị giá là 2,66 tỷ USD giảm 8% so với năm trước. Năm 2009, Việt Nam xuất khẩu gạo sang châu Á đạt 3,21 triệu tấn, tăng 19,9% so với năm 2008 và chiếm 53,8% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước (trong đó, Philippin tiếp tục là nước dẫn đầu với 1,71 triệu tấn, tăng 41,7%; châu Mỹ: 497 nghìn tấn, giảm 9,2% so với năm trước… * Cao su Lượng xuất khẩu trong tháng 12 đạt 90,4 nghìn tấn, nâng tổng lượng xuất khẩu mặt hàng này cả năm đạt 731 nghìn tấn, tăng 11,1% so với năm 2008. Mặc dù vậy, do giá xuất khẩu bình quân giảm mạnh đến 31,1% nên kim ngạch chỉ đạt 1,23 tỷ USD, giảm 23,5% so với năm trước. Trung Quốc tiếp tục là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu cao su của Việt Nam trong năm qua với 510 nghìn tấn (chiếm 69,6% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước), tăng 18,4% so với năm 2008. Tiếp theo là sang Malaysia : 30,1 nghìn tấn, tăng 43,3% ; sang Hàn Quốc : 28,3 nghìn tấn, giảm 2,4% ; sang Đài Loan : 25 nghìn tấn, tăng 18,1% ; sang Đức : 21,4 nghìn tấn, giảm 12,4%... Biểu đồ 4: Lượng cao su xuất khẩu theo tháng các năm 2006- 2009 Biểu đồ 5: Lượng gạo xuất khẩu theo tháng các năm 2006- 2009 * Hàng dệt may Tháng 12/2009, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam là 882 triệu USD, tăng 20,8% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch nhóm hàng này lên 9,06 tỷ USD, giảm 0,6% so với năm 2008. Năm 2009, Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản tiếp tục là 3 đối tác lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam, chiếm tỷ trọng xuất khẩu lần lượt là 55,1% ; 18,2% và 10,5% trong tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Tuy nhiên so với năm 2008, chỉ có xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản là có tốc độ tăng trưởng dương (tăng 16,3%) đạt kim ngạch 954 triệu USD còn thị trường Hoa Kỳ đạt 4,99 tỷ USD, giảm 2,25 và EU đạt 1,65 tỷ USD, giảm 3,1%. * Giày dép các loại Trong tháng 12, xuất khẩu nhóm hàng này là 472 triệu USD, tăng 37,6% so với tháng 11, nâng tổng trị giá xuất khẩu cả năm lên 4,07 tỷ USD, giảm 14,7% so với năm 2008 và chiếm 48,5% trị giá xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Tiếp theo là sang thị trường Hoa Kỳ: 1,04 tỷ USD, giảm 3,4%; sang Mexico: 138 triệu USD, giảm 10,1%; sang Nhật Bản : 122 triệu USD, giảm 10,9%;… * Hàng thuỷ sản Năm 2009, hàng thuỷ sản của nước ta xuất khẩu đạt kim ngạch 4,25 tỷ USD, giảm 5,7% so với năm 2008 (nhưng tăng 14,2% so với năm 2007). Trong đó, tôm đạt 211 nghìn tấn với trị giá: 1,69 tỷ USD; cá tra và cá Basa đạt 614 nghìn tấn, trị giá: 1,36 tỷ USD. Loại thuỷ sản Năm 2008 Năm 2009 Tốc độ tăng/giảm (%) Lượng (nghìn tấn) Trị giá (triệu USD) Lượng (nghìn tấn) Trị giá (triệu USD) Lượng Trị giá Cá Tra & Basa 644 1.460 614 1.357 -4,7 -7,1 Tôm 192 1.630 211 1.692 9,8 3,8 Loại khác 403 1.419 408 1.203 1,2 -15,3 Tổng cộng 1.239 4.510 1.232 4.251 -0,5 -5,7 Bảng 3: Lượng, kim ngạch, tốc độ tăng/giảm xuất khẩu thuỷ sản năm 2009 so với năm 2008 Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang các đối tác lớn trong năm qua như sau: thị trường EU đạt 1,12 tỷ USD, giảm 2,9%; sang Nhật Bản đạt 761 triệu USD, giảm 8,4%; sang Hoa Kỳ đạt 711 triệu USD, giảm 3,8%.... * Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện Trong hai tháng cuối năm, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này liên tục giảm từ hơn 284 triệu USD của tháng 10 xuống 274 triệu USD trong tháng 11 và tháng 12 là 260 triệu USD. Nhưng tính đến hết năm, kim ngạch xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm và linh kiện điện tử đạt 2,76 tỷ USD, tăng 4,6% so với năm trước. Các thị trường chính trong năm 2009 cho sản phẩm này là Hoa Kỳ với 433 triệu USD, tăng 41,2%; Nhật Bản: 381 triệu USD, tăng 1,4%; Thái Lan: 288 triệu USD, giảm 28,8%; Trung Quốc 287 triệu USD, tăng 4,9%... * Máy móc thiết bị, dụng cụ và phụ tùng Liên tục đạt kim ngạch trên 200 triệu USD/tháng trong 4 tháng cuối năm và tính hết năm 2009 xuất khẩu của nhóm hàng này đạt trên kim ngạch 2,06 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2008. Dẫn đầu về nhập khẩu nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ và phụ tùng của Việt Nam là Nhật Bản với gần 600 triệu USD, tăng nhẹ (0,6%) so với năm 2008; tiếp theo là thị trường Hoa Kỳ: 244 triệu USD, giảm 4,4%; Trung Quốc: 134 triệu USD, tăng 44,3%; Hồng Kông: 118 triệu USD, tăng 26,4%; Singapore: 102 triệu USD, tăng 23,6%... b. Một số hàng nhập khẩu chính * Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng Trong tháng 12, trị giá nhập khẩu nhóm hàng này là 1,45 tỷ USD, tăng 9,2% so với tháng 11. Nâng tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2009 lên 12,67 tỷ USD, giảm 3,3 so với năm 2008. Nhóm hàng này nhập khẩu chủ yếu có xuất xứ từ Trung Quốc với 4,16 tỷ USD, tăng 6,1% so với năm 2008; tiếp đến là Nhật Bản: 2,3 tỷ USD, giảm 13,5%; EU: 2,2 tỷ USD, giảm 14,1%; Hàn Quốc: 808 triệu USD; giảm 15,6%; Hoa Kỳ: 7,16 triệu USD, tăng 9,4%... * Xăng dầu Trong tháng 12 cả nước nhập khẩu 934 nghìn tấn xăng dầu các loại, tăng 31% so với tháng 11, đạt trị giá là 545 triệu USD. Tính đến hết tháng 12/2009, cả nước nhập khẩu 12,7 triệu tấn xăng dầu các loại, giảm 2% so với năm trước. Giá nhập khẩu bình quân nhóm hàng này giảm mạnh (41,8%) so với cùng kỳ năm 2008 nên kim ngạch nhập khẩu là gần 6,3 tỷ USD giảm tới 43%. Xăng dầu các loại nhập khẩu vào Việt Nam trong năm qua chủ yếu có xuất xứ từ Singapore với 4,9 triệu tấn, tiếp theo là Trung Quốc: 2,4 triệu tấn, Đài Loan: 2 triệu tấn, Hàn Quốc: 1,3 triệu tấn, Thái Lan: 685 nghìn tấn, Malaysia: 660 nghìn tấn, Nga: 613 nghìn tấn... * Nhóm hàng nguyên liệu ngành dệt may, da giày Trong tháng 12, trị giá nhập khẩu là 730 triệu USD, tăng 6,6% so với tháng 11/2009. Trong đó giá trị nhập khẩu vải là gần 400 triệu USD, tăng 4,5%; nguyên phụ liệu dệt may da giày 191 triệu USD, tăng 0,6%; xơ sợi dệt là gần 94 triệu USD, tăng 14,8% và bông 44,5 triệu USD, tăng 20,4%. Hết tháng 12/2009, nhập khẩu nguyên phụ liệu ngành dệt may da giày có kim ngạch là 7,36 tỷ USD, giảm 8,5% so với năm 2008. Trong đó, nhập khẩu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 4,6 tỷ USD, giảm 6,2% so với năm 2008. Các thị trường chính cung cấp nhóm hàng này cho Việt Nam trong năm qua là: Trung Quốc: 2,09 tỷ USD, Đài Loan: 1,47 tỷ USD, Hàn Quốc: 1,44 tỷ USD, Nhật Bản: 466 triệu USD, Hồng Kông: 415 triệu USD... * Sắt thép các loại Trong tháng 12, lượng sắt thép nhập khẩu là hơn 813 nghìn tấn, giảm 1,4% so với tháng 11, nâng lượng nhập khẩu cả năm 2009 lên 9,75 triệu tấn, tăng 15,2% so với năm 2008, trong đó lượng phôi thép là 2.4 triệu tấn, tăng nhẹ (1%) so với năm 2008, trị giá đạt hơn 1 tỷ USD. Năm 2009, Việt Nam nhập khẩu sắt thép chủ yếu có xuất xứ từ Nga: 1,74 triệu tấn, tăng 1,79%; Nhật Bản: 1,46 triệu tấn, tăng 11,5%; Trung Quốc: 1,3 triệu tấn, giảm 57,6%; Hàn Quốc: gần 1,3 triệu tấn, tăng 105%; Đài Loan: 1,17 triệu tấn, tăng 32%; Maylaixia: 726 nghìn tấn, tăng 98% so với năm 2008... * Kim loại thường Trong tháng 12, nhập khẩu nhóm hàng này là: 60,6 nghìn tấn, tăng 21,6% so với tháng 11, trị giá đạt gần 206 triệu USD. Hết tháng 12, tổng lượng nhập khẩu nhóm hàng này là 550 nghìn tấn, tăng 15,1% so với năm 2008, trị giá đạt 1,62 tỷ USD. Trong đó, nhập khẩu nhóm hàng kim loại chưa gia công tăng cao. Cụ thể: nhôm dạng thỏi và chưa gia công: đạt 174 nghìn tấn, chì: 76,7 nghìn tấn, kẽm: 58,6 nghìn tấn... Trong năm 2009, Việt Nam nhập khẩu kim loại thường chủ yếu có xuất xứ từ: Australia: 102,6 nghìn tấn, Hàn Quốc: 78,6 nghìn tấn, Đài Loan: 68,5 nghìn tấn, Trung Quốc: 57,2 nghìn tấn... * Chất dẻo nguyên liệu Nhập khẩu nhóm hàng này trong tháng 12 là hơn 188 nghìn tấn, giảm 2,5% so với tháng trước, trị giá đạt 274 triệu USD. Hết tháng 12, lượng nhập khẩu chất dẻo nguyên liệu là 2,2 triệu tấn, tăng 25,2% so với năm 2008, trị giá đạt 2,8 tỷ USD. Nhóm hàng này nhập khẩu trong năm qua chủ yếu có xuất xứ từ: Hàn Quốc: 404 nghìn tấn, tăng 40,6%; Đài Loan: 329 nghìn tấn, tăng 3,5%; Thái Lan: 283 nghìn tấn, tăng 7,2%... * Thức ăn gia súc và nguyên liệu Trong tháng 12 nhập khẩu đạt 150,5 triệu USD, tăng 42,7% so với tháng 11, nâng tổng trị giá nhập khẩu mặt hàng này trong năm 2009 lên gần 1,77 tỷ USD, tăng 1% so với năm trước. Trong đó, mặt hàng khô dầu đậu tương nhập khẩu trong tháng là 206 nghìn tấn với trị giá 90,2 triệu USD nâng lượng nhập khẩu cả năm lên gần 2,5 triệu tấn với trị giá là 1,03 tỷ USD, chiếm 58,2% kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này. Thị trường chính cung cấp nhóm hàng này cho Việt Nam là: Ấn Độ; 470 triệu USD, giảm 41,5%; Achentina: đạt 451 triệu USD, tăng 97%; Mỹ: 176 triệu USD, tăng 14%: Trung Quốc: 141 triệu USD, tăng 51% so với năm 2008... * Phân bón Tính đến hết tháng 12/2009, tổng lượng phân bón nhập khẩu vào Việt Nam là 4,5 triệu tấn, tăng 48,9% so với năm 2008. Trong đó, lượng phân Ure nhập khẩu tháng 12 là 142,6 nghìn tấn, tăng 98,4% so với tháng 11, nâng tổng lượng nhập khẩu cả năm lên 1,43 triệu tấn, trị giá gần 417 triệu USD. Mặt hàng phân bón được nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu có xuất xứ từ Trung Quốc với 1,85 triệu tấn. Tiếp theo là Nga: 395 nghìn tấn, Hàn Quốc: 348 nghìn tấn; Philippin: 294 nghìn tấn, Nhật Bản: 191 nghìn tấn,... * Dược phẩm Trong tháng 12 nhập khẩu 118,7 triệu USD, tăng 20,7% so với tháng trước và nâng trị giá nhập khẩu tháng 12 lên gần 1,1 tỷ USD, tăng 26,95 so với cùng kỳ năm trước. Nhóm hàng này nhập khẩu trong năm qua chủ yếu có xuất xứ từ: Pháp (193 triệu USD), Ấn Độ (149 triệu USD), Hàn Quốc 108 triệu USD), Đức (90 triệu USD). * Linh kiện và phụ tùng ô tô Nhập khẩu nhóm hàng này trong tháng 12 đạt gần 218 triệu USD, tăng 5,4% so với tháng 11, nâng tổng giá trị nhập khẩu mặt hàng này cả năm 2009 lên 1,8 tỷ USD, giảm 1,6% so với năm 2008. Nhập khẩu nhóm hàng này chủ yếu có xuất xứ từ: Thái Lan: 406 triệu USD, Nhật Bản: 395 triệu USD, Trung Quốc: 314 triệu USD, Hàn Quốc: 287 triệu USD… * Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện Tổng giá trị nhập khẩu nhóm hàng này năm 2009 là 3,95 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2008. Năm 2009, Trung Quốc là thị trường dẫn đầu về cung cấp nhóm hàng này cho nước ta với 1,46 tỷ USD, tăng 12,3% so với năm 2008. Tiếp theo là Nhật Bản: 839 triệu USD, giảm 0,8%, Đài Loan: 309 triệu USD, tăng 8,6%; Hàn Quốc: 307,6 triệu USD, tăng 33,5%, Malaysia: 281 triệu USD, tăng 2,2%... *Ô tô nguyên chiếc các loại và linh kiện, phụ tùng ô tô Lượng nhập khẩu cả năm 2009 lên 80,6 nghìn chiếc, trong đó xe dưới 9 chỗ là 47,1 nghìn chiếc chiếm 58,4% lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu của cả nước. Biểu đồ 6:Lượng nhập khẩu ô tô từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2009 2.4. Các nguyên nhân làm giảm xuất khẩu và tăng nhập siêu của Việt Nam 2.4.1. Nguyên nhân làm giảm tỷ lệ xuất khẩu củaViệt Nam năm 2009 Có rất nhiều nguyên nhân khiến cho xuất khẩu của Việt Nam năm 2009 giảm mạnh trong đó có các yếu tố chính như: tỷ giá hối đoái, năng lực sản xuất của các doanh nghiệp ở trong nước, tâm lý chuộng hàng nội/ ngoại của người dân (ví dụ như ở Việt Nam chuộng hàng ngoài thì xuất khẩu sẽ nhiều nhưng năng lực sản xuất trong nước kém), thị trường nước ngoài và nguyên nhân tác động mạnh mẽ nhất tới tình hình xuất khẩu của nước ta đó là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới. Kinh tế thế giới suy giảm là nguyên nhân ảnh hưởng rõ rệt nhất đến kim ngạch xuất khẩu Việt Nam. Nhu cầu trên thế giới giảm đã làm cho các ngành dệt may, hàng điện tử, sản phẩm gỗ...gặp khó khăn trong việc ký kết hợp đồng. Kinh tế thế giới suy thái đã khiến cho tiêu thụ các mặt hàng nông sản xuất khẩu của nước ta gặp nhiều khó khăn trong việc tìm đầu ra. Mặt hàng chiếm kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là dầu thô nhưng giá dầu thô thế giới giảm, tình hình thế giới có nhiều biến động nên việc tìm kiếm khách hàng gặp rất nhiều khó khăn. Nhóm hàng nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất hàng hoá tiêu dùng và xuất khẩu giảm. Nguyên nhân là do nhu cầu trên thế giới giảm, việc ký kết hợp đồng mới khó khăn, sản xuất chững lại khiến cho nhập khẩu nguyên vật liệu giảm. Nhóm các mặt hàng tiêu dùng theo quy luật những năm trước thường tăng mạnh do các doanh nghiệp nhập khẩu hàng phục vụ tết Nguyên đán. Tuy nhiên, năm nay do nhu cầu của toàn xã hội giảm nên nhập khẩu nhóm hàng này cũng giảm. Ngoài ra xuất khẩu nước ta giảm còn do nguyên nhân về thị trường. Những thị trường lớn thì do tác động của cuộc khủng hoảng nhu cầu bị co lại, những thị trường nhỏ mới được mở rộng tăng khá nhưng do tỷ trọng thấp nên dù tăng cao tác động cũng không lớn. Có nguyên nhân về giá cả. Chỉ những mặt hàng tính được đơn giá chung do giá giảm mạnh đã làm cho kim ngạch bị giảm (như dầu thô, gạo, cà phê, xăng dầu, than đá, cao su, hạt điều, hạt tiêu, chè). Có nguyên nhân về thanh toán của khách hàng nhập khẩu do việc vay vốn nhập hàng ở các nước này khó khăn hơn. Có nguyên nhân do các nước đã dựng những hàng rào kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu. 2.4.2. Nguyên nhân khiến nhập siêu năm 2009 tăng cao. Nhập siêu năm 2009 tăng cao chủ yếu là do chính sách mở cửa nền kinh tế của nước ta. Về mặt lý thuyết, khi các nền kinh tế được tự do thông thương với nhau, các doanh nghiệp của nền kinh tế có thể mua được các yếu tố đầu vào với chi phí thấp hơn từ một số nền kinh tế khác so với trước khi thông thương. Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam chủ yếu nhập siêu từ các nước trong khu vực ASEAN và Trung Quốc, nhưng lại xuất siêu sang Mỹ và châu Âu. Việt Nam nhập khẩu chủ yếu các mặt hàng tư liệu sản xuất khoảng trên dưới 90% tổng giá trị nhập khẩu. Nhập siêu hàng tư liệu sản xuất từ các nước trong khu vực ASEAN và Trung Quốc không phải là một lựa chọn tồi của các doanh nghiệp Việt Nam. Với các hàng hoá nguyên vật liệu, do tính chuẩn hóa của chúng, nhập khẩu từ các nước trong khu vực giúp doanh nghiệp tiết kiệm được rất nhiều chi phí vận chuyển. Nhập siêu của nước ta năm nay tăng cao do ảnh hưởng của việc cắt giảm thuế và nhu cầu tiêu dùng, sức mua trong nước tăng cao đối với hàng hóa nhập khẩu cũng đã góp phần làm cho kim ngạch nhập khẩu tăng cao, cùng với đó các giải pháp nhằm hạn chế nhập siêu chưa được triển khai quyết liệt và có hiệu quả trong các ngành và doanh nghiệp, chưa đẩy mạnh sản xuất trong nước nhóm hàng vật tư- thiết bị phục vụ xây dựng cơ bản, mở rộng sản xuất và phục vụ xuất khẩu hiện có nhu cầu lớn chưa tập trung năng lực các ngành sản xuất những mặt hàng có hàng rào thuế quan nhập khẩu. Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là gia công chế biến và nguyên liệu thô. Điều này cho thấy, nền sản xuất trong nước còn phụ thuộc rất lớn vào nguồn nguyên liệu, vật liệu các thiết bị nhập khẩu. Thêm vào đó do nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất và đầu tư chiều sâu tănh mạnh cùng với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài liên tục tăng đã dẫn đến lượng hàng hoá nhập khẩu tăng mạnh, từ đó làm cho nhập siêu năm 2009 tăng cao. Tuy nhiên, nhập siêu cao không hẳn là một điều xấu, nó là một hiện tượng bình thường của nền kinh tế thị trường và về cơ bản giúp cho nền kinh tế phát triển tốt hơn. Nó là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực sản xuất của mình theo chuẩn mực quốc tế. Chương 3 CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ GIẢI QUYẾT TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM NĂM 2009 Phân tích tác động của hoạt động xuất nhập khẩu tới GDP cho thấy, hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu đóng góp một phần quan trọng vào GDP ở Việt Nam. Nếu xét trên mô hình tổng cầu, tăng xuất khẩu sẽ làm tăng GDP, nhưng đồng thời cũng kéo theo tăng nhập khẩu phục vụ xuất khẩu làm giảm GDP. Trên thực tế, chúng ta luôn ở trong tình trạng nhập siêu, nên phần đóng góp của trực tiếp của khu vực xuất nhập khẩu vào GDP là âm. Tuy nhiên, xét tỷ trọng hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam có thể nhận thấy, phần lớn hàng nhập khẩu là để phục vụ sản xuất và được bù đắp bởi chi phí đầu tư. Bên cạnh đó, sản xuất hàng xuất khẩu tạo công an việc làm, giải quyết thu nhập cho một bộ phận lớn dân số và gián tiếp đóng góp vào GDP thông qua việc tiêu dùng của bộ phận dân số này. Đến cuối năm 2009, nền kinh tế thế giới chưa có dấu hiệu phục hồi. Nếu suy thoái kinh tế toàn cầu kéo dài, hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Để giảm tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế, cần thực hiện các biện pháp hạn chế nhập khẩu tạm thời và thúc đẩy xuất khẩu nhằm mục đích giảm tác động trực tiếp của thâm hụt thương mại tới GDP. Để thực hiện được điều này, cần phối hợp đồng loạt các biện pháp, chính sách sau: 1. Chính sách tỷ giá: Trong thời gian qua, chính phủ đã điều hành chính sách tỷ giá theo hướng tích cực: mở rộng biên độ dao động lên +/- 5% và cho phép tỷ giá VND/USD biến động theo hướng thực trạng cung, cầu ngoại hối trên thị trường. Trong thời gian tới, chính phủ tiếp tục phá giá dần dần tiền đồng, tránh gây sốc, nhưng đảm bảo theo khuynh hướng tăng/giảm giá trị của đồng USD trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, việc điều chỉnh tỷ giá cần cân nhắc theo một giỏ tiền tệ các ngoại tệ mạnh, tự do chuyển đổi (USD, EUR) theo tỷ trọng thương của Việt nam với các nước/khối nước liên quan. 2. Chính sách hỗ trợ tín dụng xuất khẩu: Nguồn kinh phí của gói kích cầu 1 tỷ USD cần được sử dụng đúng nơi, đúng chỗ nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Ví dụ, chỉ tài trợ cho các khoản tín dụng liên quan trực tiếp tới xuất khẩu: Cho phép doanh nghiệp xuất khẩu chiết khấu các loại hối phiếu thanh toán trả chậm, hoặc cấp tín dụng ngay cho các doanh nghiệp có thể chứng minh việc giao hàng và đang làm thủ tục thanh toán trên cơ sở đảm bảo thanh toán bằng chuyển giao chứng từ sở hữu cho ngân hàng. Chính phủ có thể bảo lãnh các khoản thanh toán này. 3. Chính sách hỗ trợ chi phí xuất khẩu: Hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu để giảm các loại chi phí liên quan tới xuất khẩu như chi phí tại cảng biển, sân bay và chi phí vận tải; giảm tối đa thủ tục hành chính gây phiền hà cho doanh nghiệp xuất- nhập khẩu (có thể tài trợ chi phí cho doanh nghiệp xuất- nhập khẩu để thực hiện các thủ tục này được thuận tiện, thông qua bộ máy hành chính nhà nước phục vụ xuất khẩu như thuế hải quan). 4. Đa dạng hoá cơ cấu mặt hàng xuất- nhập khẩu: Cơ cấu thị trường xuất- nhập khẩu của nước ta cho thấy, thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam tập trung cao độ vào một số thị trường trọng điểm đang chịu ảnh hưởng của cơn bão khủng hoảng tài chính thế giới. Do vậy cần huy động các cơ quan ngoại giao và mạng lưới doanh nghiệp Việt Nam trên toàn thế giới để phát triển mở rộng thị trường mới như Trung Đông, châu Phi, châu Đại Dương và Mỹ La- tinh, đồng thời khôi phục lại những thị trường cũ như Đông Âu và cộng đồng các quốc gia độc lập.... 5. Cải thiện cơ cấu mặt hàng xuất- nhập khẩu: Việc cải thiện cơ cấu mặt hàng xuất- nhập khẩu không thể thực hiện trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, cần xây dựng lộ trình cụ thể nhằm nâng cao chất lượng hàng hoá sản xuất trong nước, đặc biệt là các sản phẩm xuất khẩu truyền thống, đồng thời tìm thị trường cho các sản phẩm xuất khẩu mới. Hàng hóa nhập khẩu cần tiếp tục điều chỉnh theo hướng giảm tỷ trọng hàng hoá nhập khẩu thành phẩm, tăng tỷ trọng nhập khẩu nguyên, nhiên, vật liệu thô. 6. Khai thác thị trường trong nước: Cần khai thác tối đa thị trường trong nước để giảm quy mô nhập khẩu, nhằm giảm mức độ phụ thuộc của Việt Nam vào các thị trườn nguyên, nhiên, vật liệu đối với các nước trong khu vực. Nghiên cứu điều chỉnh công nghệ, nâng cao phần giá trị gia tăng sản xuất trong nước thông qua việc khai thác các nguồn nguyên, nhiên, vật liệu sẵn có trong nước. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu, đặc biệt là dệt may, giày dép, thiết bị điện tử đã đáp ứng được nhu cầu của các thị trường khó tính như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, cần nỗ lực khai thác thị trường nội địa để duy trì quy mô hoạt động trong thời kỳ khó khăn, đồng thời đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân trong nước, giảm áp lực nhập khẩu hàng tiêu dùng, góp phần cân bằng cán cân thương mại, nhất là hỗ trợ cho các nhà sản xuất lúc thị trường xuất khẩu có biến động xấu. 7. Chính sách thưởng xuất khẩu và giảm thuế cho các doanh nghiệp xuất khẩu: Có cơ chế thưởng xuất khẩu xứng đáng, đồng thời giảm thuế thu nhập cho các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là các doanh nghiệp giải quyết nhiều công ăn việc làm cho người lao động. 8. Các chính sách tài khoá khác: Để giảm thiểu tác động tiêu cực của suy giảm sản xuất xuất khẩu, đặc biệt là vấn đề công an việc làm và thu nhập cho công nhân sản xuất hàng xuất khẩu, chính phủ cần nghiên cứu chế độ trợ cấp thất nghiệp cho công nhân của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất khẩu bị mất việc làm, song song với các biện pháp hỗ trợ tạo công ăn việc làm cho công nhân mất việc trên cả nước nhằm tránh vòng xoáy suy thoái kinh tế- thất nghiệp, không có thu nhập, giảm tiêu dùng, buộc doanh nghiệp phải cắt giảm sản xuất và sa thải công nhân dẫn tới thất nghiệp trầm trọng hơn. 9. Chính sách tiền tệ: Cần nới lỏng chính sách tiền tệ một cách từ từ, nhằm tạo thanh khoản và huy động nguồn lực cho chính sách tài khoá của chính phủ. Tuy nhiên, việc nới lỏng chính sách tiền tệ cần được tiến hành thận trọng trên cơ sở giám sát chặt chẽ tỷ lệ lạm phát và thực hiện nghiêm túc các biện pháp giám sát cẩn trọng, minh bạch trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. KẾT LUẬN Năm 2009 đã trôi qua với rất nhiều biến động tới nền kinh tế trong đó hoạt động xuất nhập khẩu có nhiều thay đổi lớn do cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Mặc dù, xuất khẩu của nước ta năm 2009 giảm nhiều và tỷ lệ nhập siêu tăng cao, tuy nhiên hoạt động xuất nhập khẩu có nhiều đóng góp cho nền kinh tế nước ta, nó góp phần làm tăng GDP cho nước ta. Trước tình hình trong nước và trên thế giới như vậy, chính phủ ta đã đề ra rất nhiều các biện pháp khác nhau nhằm thúc đẩy tăng tỷ lệ xuất khẩu và giảm tỷ lệ nhập khẩu. Để kinh tế năm 2010 có một bước phát triển mới thì các công ty, các doanh nghiệp cần phải thực hiện nghiêm túc các chính sách mà chính phủ đã đề ra để từ đó có thể đưa kinh tế của đất nước đi lên thoát khỏi khủng hoảng, tăng cường nhập siêu và giảm tối đa tỷ lệ nhập siêu.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2009 Các biện pháp mà chính phủ đã thực hiện để cải thiện tình hình xuất nhập khẩu của Viêt Nam.doc
Luận văn liên quan