LỜI MỞ ĐẦU
Nước là tài sản chung của nhân loại, là một trong bốn nhân tố tạo nên môi trường, nó có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự sống của con người và sinh thực vật. Không có nước thì sự sống của muôn loại trên hành tinh không thể tồn tại được. Con người khai thác từ nguồn tự nhiên và sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau như phục vụ ăn uống, sinh hoạt của chính con người, nước dùng cho sản xuất công nghiệp, cho sản xuất nông nghiệp và cho rất nhiều hình thức dịch vụ khác Nước sử dụng cho những mục đích trên lại thải vào chính nguồn nước nơi mà con người đã khai thác cho mục đích sử dụng của mình. Tất cả những hoạt động đó do thiếu quản lí hay hiểu biết đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm nguồn nước và ở nhiều nơi đã trở nên trầm trọng.
Nước có vai trò quan trọng đối với sự sống nhưng nước không phải là vô tận. Khoảng 97% khối lượng nước trên bề mặt trái đất là nước mặn chỉ có một phần nhỏ lượng nước ngọt phục vụ cho nhu cầu của con người. Nguồn nước ngọt vốn đã hạn chế đối với nhu cầu ngày càng gia tăng của con người vậy mà tại nhiều khu vực kể cả nước mặt lẫn nước ngầm đang bị ô nhiễm nghiêm trọng: như nước thải không được xử lí từ các nhà máy, xí nghiệp, từ các loại dịch vụ và các khu đô thị vào các nguồn nước nhận. Đã có rất nhiều ví dụ về sự ô nhiễm nước tại một số khu vực và thành phố lớn đặc biệt là các khu đô thị và khu công nghiệp lớn như Hà nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Hà Đông
Sự phát triển các đô thị cùng với việc gia tăng tỷ lệ dân số đô thị gây áp lực rất lớn đến môi trường đô thị, bên cạnh sự phát triển mạnh ngành công nghiệp một mặt góp phần rất lớn vào sự phát triển kinh tế nhưng lại gây ảnh hưởng môi trường nghiêm trọng, đặc biệt là môi trường nước. Ở Việt Nam bảo vệ tài nguyên nước và tránh sự ô nhiễm ở các khu đô thị gây ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng là vấn đề được nhà nước và xã hội quan tâm rất nhiều. Tình trạng úng ngập đô thị sau mỗi trận mưa lớn và cung cấp nước sạch, nước thải chưa qua xử lí đã thật sự là vấn đề nan giải cần giải quyết. Đã có rất nhiều chính sách, biện pháp được áp dụng nhằm bảo vệ nguồn nước, ngăn chặn hành vi gây ô nhiễm nguồn nước của nhà nước ta, song vì để giải quyết vấn đề phức tạp này đòi hỏi phải có sự quản lí thật chặt chẽ của nhà nước phối hợp với ý thức bảo vệ môi trường nước của toàn dân, nó đòi hỏi một thời gian khá dài và nguồn lực rất lớn nên hiện nay vấn đề về môi trường nước vẫn còn tồn tại và nhiều bất cập.
Để góp phần nghiên cứu các giải pháp của nhà nước trong việc giải quyết các vần đề về môi trường nước đô thị hiện nay tôi đã lựa chọn đề tài : “Thực trạng và giải pháp của nhà nước trong việc giải quyết vấn đề môi trường nước ở đô thị hiện nay’’.
Mục tiêu của đề tài nghiên cứu là:
Thứ nhất, tìm hiểu về vai trò của nhà nước trong quản lí môi trường nước ở đô thị .
Thứ hai, các công cụ quản lí môi trường nước áp dụng vào quản lí môi trường nước ở các khu đô thị.
Thứ ba, thực trạng môi trường nước các khu đô thị hiện nay và nguyên nhân của tình trạng đó.
Thứ tư, các giải pháp của nhà nước để giải quyết vấn đề môi trường nước ở đô thị.
Thứ năm, kiến nghị với cơ quan nhà nước về công tác quản lí môi trường nước ở đô thị hiện nay.
MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU 3
B. PHẦN NỘI DUNG 5
Chương I: Vai trò của nhà nước trong quản lí môi trường nước ở đô thị
1.QLNN về môi trường nước ở đô thị 5
1.1.Quản lí môi trường nước ở đô thị 5
1.2.Quản lí nhà nước về môi trường nước ở đô thị 6
1.3.Chức năng, nội dung của QLNN về môi trường nước ở đô thị 6
2.Những công cụ quản lí môi trường nước ở đô thị 8
2.1.Công cụ kinh tế 8
2.2.Công cụ pháp lí 13
2.3.Công cụ kĩ thuật 17
2.4.Công cụ giáo dục và truyền thông 21
3.Tính tất yếu khách quan của QLNN về môi trường nước ở đô thị 23
ChươngII:Thực trạng môi trường nước ở đô thị & nguyên nhân
1.Thực trạng 26
1.1.Cấp nước 26
1.2.Úng ngập đô thị 28
1.3.Nước thải 30
2.Nguyên nhân 31
2.1.Nguyên nhân ô nhiễm từ nguồn nước thải 31
2.2.Nguyên nhân tình trạng úng ngập 34
ChươngIII: Giải pháp của nhà nước trong QLMT nước ở đô thị
1.Sử dụng các công cụ quản lí vào quản lí môi trường nước ở đô thị 36
1.1.Sử dụng công cụ pháp lí 36
1.2.Sử dụng công cụ kĩ thuật trong quản lí môi trường nước 36
1.3.Sử dụng công cụ kinh tế 37
1.4.Sử dụng công cụ giáo dục và truyền thông 38
2.Kiến nghị với cơ quan nhà nước 39
2.1.Về vấn đề xử lí nước thải ở đô thị 39
2.2.Về vấn đề giải quyết úng ngập 40
2.3.Về vấn đề cung cấp nước sạch 40
2.4. Về vấn đề xử lý vi phạm nguồn nước ở đô thị 40
C. PHẦN KẾT LUẬN 42
D.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 43
44 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3565 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và giải pháp của nhà nước trong việc giải quyết vấn đề môi trường nước ở đô thị hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
định và kiểm soát rõ ràng, thường xuyên.
Ở nhiều nước trên thế giới đã dành các khoản trợ cấp, các khoản vay lãi suất thấp hoặc giảm nhẹ thuế để khuyến khích các cơ sở sản xuất đầu tư kĩ thuật để ngăn chặn hoặc giảm nhẹ ô nhiễm môi trường nước. Thí dụ như ở Philippin, theo Luật môi trường, giảm 50% thuế đối với các thiết bị kiểm soát ô nhiễm nhập khẩu, luật này cũng quy định miễn thuế cho tất cả thiết bị xử lí ô nhiễm môi trường được sản xuất trong nước. Ở nước ta hiện nay cũng đã có quy định miễn thuế nhập khẩu, áp dụng những hình thức trợ cấp hoặc cho vay với lãi suất rất thấp đối với các cơ sở sản xuất đầu tư cải tiến, đổi mới công nghệ để giảm lượng thải chất ô nhiễm, hoặc đối với nhà máy gây ô nhiễm trầm trọng phải di chuyển địa điểm từ nội thành ra các khu công nghiệp ở ngoại thành
2.2.Công cụ pháp lý Giáo trình kinh tế và quản lí môi trường – NXB Thống kê- PGS.TS Nguyễn Thế Chinh. Tr 417
Công cụ pháp lý trong quản lí môi trường nước ở đô thị hay còn gọi là công cụ luật pháp, chính sách bao gồm : các văn bản về luật quốc tế, luật quốc gia, các văn bản khác dưới luật, các kế hoạch, chiến lược và chính sách liên quan đến môi trường nước ở đô thị của một quốc gia, các ngành kinh tế và các địa phương.
2.2.1.Quy hoạch, kế hoạch hoá bảo vệ môi trường nước đô thị
Bảo vệ môi trường nước đô thị là công tác được tiến hành trên quy mô lãnh thổ lớn, trong thời gian dài, có liên quan đến nhiều ngành, nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội .Vì vậy công tác này chỉ có thể được thực hiên tốt trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch hoá. Nội dung cơ bản của quy hoạch, kế hoạch hoá bảo vệ môi trường nước ở đô thị là:
Điều tra cơ bản về chất lượng môi trường nước ở đô thị, trữ lượng tài nguyên, thu thập số liệu để làm cơ sở cho việc lập quy hoạch.
Bảo vệ môi trường nước ở đô thị là làm sao phải duy trì được môi trường nước cơ bản, nhằm tạo điều kiện tái tạo môi trường nước ở đô thị, phát huy đặc điểm tự điều chỉnh của hệ thống môi trường nước ở đô thị. Vì vậy phải đặt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong kế hoạch chung, phù hợp với điều kiện bảo vệ và duy trì môi trường nước cơ bản, nhằm hướng tới sự phát triển bền vững.
Quy hoạch, kế hoạch hóa môi trường nước ở đô thị phải đảm bảo tính đồng bộ, cân đối với mục tiêu và nguồn lực, gắn chặt với chính sách đầu tư phát triển.
2.2.2.Về pháp luật
Thông thường, hệ thống luật của mỗi quốc gia bao gồm hai bộ phận chính là luật chung ( Luật Bảo vệ môi trường nước ở đô thị ) và luật về các thành phần của môi trường nước ở đô thị .
Quy định là những văn bản dưới luật nhằm cụ thể hoá hoặc hướng dẫn thực hiện các nội dung của luật liên quan đến môi trường nước ở đô thị.
Chế định là các quy định về chế độ, thể chế tổ chức quản lí bảo vệ môi trường nước ở đô thị. Chẳng hạn quy định chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan Bộ, Sở tài nguyên và môi trường .
Hệ thống văn bản pháp luật về quản lí nhà nước về môi trường nước ở đô thị nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong bảo vệ môi trường nước ở đô thị và phát triển tài nguyên. Đây là công cụ hay biện pháp mang tính pháp lí do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các hoạt động phát triển của cá nhân, doanh nghiệp, cộng đồng, các ngành ,các cấp, các địa phương sao cho phù hợp với mục đích bảo vệ môi trường nước ở đô thị, đảm bảo cân bằng sinh thái, thông qua hàng loạt các văn bản pháp quy đối với việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, tức là thực thi các biện pháp bắt buộc hoặc cưỡng chế đối với người gây ô nhiễm phải huỷ bỏ hay hạn chế bớt một số hoạt động gây tổn thất cho môi trường nước ở đô thị.
Một trong những công cụ pháp lí quan trọng trong quản lí môi trường nước mặt là xây dựng, ban hành các tiêu chuẩn, quy định về bảo vệ môi trường nước.
Ở Mỹ và một số nước phát triển từ lâu đã thực hiện quy định : tất cả các cơ sở sản xuất công nghiệp cần phải có giấy phép xả thải vào hệ thống thoát nước chung của đô thị hoặc đổ thải vào nguồn nước mặt. Các giấy phép xả thải được cấp cho từng thời kì 5 năm và sau đó phải xin gia hạn hoặc cấp giấy phép mới mới được tiếp tục xả thải. Những cơ sở sản xuất xả nước thải thực hiện ghi chép lưu trữ hồ sơ và tiến hành tự quan trắc giám sát nước thải của mình. Ở Anh, giấy phép xả thải được cấp hai năm một lần, trong giấy phép xả thải thường quy định rõ lượng nước thải tối đa cho phép và các giới hạn đối với chỉ tiêu: BOD, COD, độ pH, nhiệt độ và một số kim loại nặng. Các cơ quan quản lí nhà nước về môi trường nước ở đô thị định kì đến kiểm tra các cơ sở đổ thải nước, nếu phát hiện các cơ sở không tuân thủ tiêu chuẩn môi trường nước ở đô thị và các quy định trong giấy phép thì thực hiện ngay các biện pháp tương ứng như cảnh cáo, xử phạt, thu hồi giấy phép, bắt cơ sở tạm ngừng sản xuất, thậm chí là đóng cửa nhà máy. Mức độ xử phạt đến 400 USD đến 20,000 USD. Thực tế ở nhiều nước phát triển chứng tỏ sử dụng hiệu quả công cụ pháp lí này trong quản lí môi trường nước.
Tuỳ theo tình hình cụ thể ở mỗi địa phương mà bổ sung thêm hoặc chi tiết hoá các quy định và tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường nước. Trong nhiều trường hợp giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường các dòng sông, các thuỷ vực cần có sự phối hợp giữa các địa phương với nhau, giữa các tỉnh, thành trong cùng khu vực, các địa phương ở đầu nguồn nước( thượng lưu) phải có trách nhiệm đối với bảo vệ môi trường nước ở hạ lưu.
2.2.3.Về chính sách
Chính sách bảo vệ môi trường nước ở đô thị là công cụ chỉ đạo toàn bộ hoạt động bảo vệ môi trường nước ở đô thị trên một phạm vi lãnh thổ rộng lớn như một vùng hay một quốc gia trong thời gian dài (10 – 15 năm trở lên). Chính sách phải nêu lên mục tiêu và định hướng lớn để thực hiện mục tiêu. Chính sách đó phải hợp lí, có cơ sở vững chắc về khoa học và thực tiễn. Phải có chiến lược để cụ thể hoá chính sách ở một mức độ nhất định, chọn các mục tiêu khả thi, xác định các phương hướng biện pháp thực hiện các mục tiêu đề ra.
Đây vừa là nhiệm vụ quan trọng vừa là công cụ trong quản lí nhà nước về môi trường nước ở đô thị. Vì vậy, Đảng và nhà nước ta đã đề ra chính sách bảo vệ môi trường nước ở đô thị gắn liền với chính sách phát triển kinh tế - xã hội, trên cơ sở đó, Chính phủ đã xây dựng chiến lược bảo vệ môi trường nước quốc gia theo từng giai đoạn phát triển của đất nước. Trên cơ sở chiến lược bảo vệ môi trường, các cơ quan quản lí nhà nước về tài nguyên và môi trường nước ở đô thị tiến hành nhiệm vụ cụ thể sau đây:
2.2.4.Xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường nước ở đô thị
Nhà nước thực hiện chính sách xã hội hoá bảo vệ môi trường nước ở đô thị bằng pháp luật và các văn bản pháp lý, để huy động cộng đồng tham gia vào các hoạt động quản lí môi trường các cấp, vào việc ra quyết định của các cơ quan nhà nước bằng các phong trào quần chúng như phong trào tự quản vệ sinh - môi trường, phân loại phế thải tại nguồn, làng sinh thái, làng văn hoá, thông tin môi trường nước ở đô thị cho cộng đồng…theo hướng thân thiện với môi trường nước ở đô thị. Đầu tư bảo vệ môi trường nước ở đô thị phải được đa dạng hoá về hình thức và nguồn vốn nhằm huy động được mọi nguồn lực trong xã hội. Hình thức đầu tư bao gồm đầu tư bằng trí lực, vật lực, ngày công lao động hữu ích và bằng tiền. Đây là công cụ được nghiên cứu áp dụng rộng rãi do được đánh giá là có hiệu quả vì nó huy động nhiều nguồn lực cho quản lí và bảo vệ môi trường nước ở đô thị.
2.3.Công cụ kĩ thuật quản lí môi trường nước ở đô thị
Các công cụ kỹ thuật quản lí môi trường nước ở đô thị thực hiện vai trò kiểm soát và giám sát Nhà nước về chất lượng và thành phần môi trường nước ở đô thị, về sự hình thành và phân bố chất ô nhiễm trong môi trường nước ở đô thị .
Công cụ kĩ thuật có thể bao gồm các đánh giá môi trường nước ở đô thị, kiểm toán môi trường nước ở đô thị, các hệ thống quan trắc môi trường , xử lí chất thải, tái chế và tái sử dụng chất thải. Các công cụ kĩ thuật được coi là những công cụ hành động quan trọng của các tổ chức trong công tác bảo vệ môi trường nước ở đô thị .
Thông qua việc thực hiện các công cụ kĩ thuật, các cơ quan chức năng có thể có những thông tin đầy đủ, chính xác về hiện trạng và diễn biến chất lượng môi trường nước ở đô thị, đồng thời có những biện pháp, giải pháp phù hợp để xử lí, hạn chế những tác động tiêu cực đối với môi trường nước ở đô thị
Các công cụ kĩ thuật cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tuân thủ các tiêu chuẩn, quy định về bảo vệ môi trường nước ở đô thị.
Đây là công cụ thực hiện vai trò kiểm soát và giám sát nhà nước về sự hình thành và phân bố ô nhiễm. Công cụ kĩ thuật quản lí bao gồm các biện pháp chính sau đây:
Thứ nhất, tăng cường thu thập thông tin giữ liệu môi trường nước :
Công cụ bao gồm hệ thống quan sát, đo đạc, các thông số kĩ thuật về môi trường nước, tạo nên cơ sở dữ liệu thống nhất quốc gia. Các công cụ này có vai trò quyết định tính đúng đắn, độ chính xác của việc đánh giá hiện trạng, dự báo diễn biến môi trường nước trong tương lai
Thứ hai, tổ chức bộ máy quản lí: Quản lí nguồn nước ở đô thị được tổ chức kết hợp theo ngành và lãnh thổ, cụ thể là:
Ở Trung ương có Bộ Tài nguyên và Môi trường bao quát quan hệ vĩ mô về môi trường nước, thực hiện các hoạt động điều chỉnh trong cả nước.
Bộ Tài chính, với tư cách là chủ sở hữu, đại diện cho nhà nước quản lí nguồn tài nguyên nước
Bộ Kế hoạch và đầu tư làm tham mưu cho nhà nước trong việc huy động, sử dụng tài nguyên môi trường nước hợp lí, phù hợp với quá trình xây dựng đất nước, cũng như tư vấn trong việc giao trọng trách khai thác đúng đối tượng.
Các Bộ kinh tế như Bộ công nghiệp, xây dựng …được nhà nước giao trách nhiệm quản lí các doanh nhân, các học giả được phép hay thuê mướn các hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác tài nguyên nước phải tuân thủ pháp luật, các điều khoản hợp đồng mà họ đã cam kết với nhà nước.
Ở mỗi địa phương, các khu đô thị lớn đều có cơ quan quản lí tương ứng làm chức năng quản lí nhà nước về môi trường
Lực lượng bảo vệ môi trường nước, trực tiếp làm sạch môi trường nước rộng khắp và quan trọng là nhân dân, đựơc chính quyền cơ sở tổ chức, chỉ đạo. Đồng thời, trong các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp và các tổ chức công dân đều có lực lượng làm nhiệm vụ vệ sinh môi trường nước công sở, cơ quan.
Thứ ba, nghiên cứu và triển khai khoa học kĩ thuật:
Trước tiên là phát triển hệ thống thoát nước và hệ thống xử lí nước thải đô thị và công nghiệp đầy đủ và phù hợp:
Tách hệ thống thoát nước mưa và hệ thống thoát nước bẩn thành hai hệ thống riêng. Xây dựng các trạm xử lí nước thải sinh hoạt đô thị tập trung cho từng khu vực. Tất cả các nhà máy, xí nghiệp, bệnh viện, khách sạn, các cơ sở dịch vụ có lượng nước thải lớn đều phải có trạm xử lí nước thỉ đảm bảo tiêu chuẩn môi trường mới được thải ra hệ thống thoát nước chung.
Trong phát triển đô thị phải dành đất để xây dựng các trạm xử lí nước đô thị tập trung. Luôn luôn quan tâm bảo vệ an toàn hệ thống thoát nước đô thị, vì trong quá trình phát triển đô thị, hệ thống thoát nước đô thị bị lấn chiếm và hư hỏng, như san lấp hai bên bờ để mở rộng đất ở, mở rộng đường, sân bãi xây dựng nhà cửa đè lên hệ thống thoát nước, làm nứt gãy hệ thống thoát nước, đổ chất thải xây dựng vào kênh mương làm tắc nghẽn dòng chảy.
Thứ tư, phổ biến kinh nghiệm chọn lựa công nghệ xử lí nước thải đô thị thích hợp Quản lí môi trường – NGUYỄN ĐỨC HIỂN-NXB LĐ-XÃ HộI.tr 278
:
Tuỳ theo tính chất ô nhiễm và khối lượng nước thải khác nhau mà cần lựa chọn các công nghệ thích hợp. Thông thường, hệ thống công nghệ và xử lí nước thải bao gồm kĩ thuật xử lí bậc 1, bậc 2 và bậc 3, trong một số trường hợp cần đến kĩ thuật xử lí bậc 4. Xử lý bậc 1 và bậc 2( xử lí cơ học và sinh học) chủ yếu là tập trung vào việc làm giảm cặn, vi khuẩn và kử các chất hữu cơ dễ phân huỷ. Xử lí bậc 3 thường là bước xử lí hoá học để khử photpho. Trong một số trường hợp cần đến xử lí bậc 4 là bước tinh lọc - để giảm thiểu triệt để các chất ô nhiễm dinh dưỡng trước khi nước chảy vào nguồn nước mặt. Xử lí hoá học để khử photpho (bậc3) nên được áp dụng ở các khu đô thị lớn, phương pháp này bổ sung cùng với phương pháp xử lí cơ học và sinh học.
Thứ năm, cần phải có biện pháp ngăn chặn để các cơ sở công nghiệp không thải ra các chất nguy hiểm, có thể làm ảnh hưởng đến tới quá trình xử lí nước thải ở các trạm xử lí nước thải tập trung của thành phố. Các biện pháp phòng ngừa trong việc này cụ thể :
Phải thực hiện quá trình tiền xử lí ở các cơ sở công nghiệp trước khi đưa nước thải về trạm xử lí nước tập trung là một cách tiếp cận theo cách chi phí hiệu quả.
Biểu thuế xử lí theo thang đối chiếu thuế dựa vào cường độ liên quan của chất thải được đưa vào hệ thống thải thành phố - là cách tiếp cận khuyến khích tiền xử lí.
Hạn chế sử dụng các hoá chất gây ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất công nghiệp và sinh hoạt đô thị
Thứ sáu, thanh tra và giám sát môi trường nước :
Việc thanh tra, giám sát phải diễn ra thường xuyên và trung thực. Đoàn thanh tra có quyền:
Yêu cầu các tổ chức, các nhân có liên quan cung cấp tài liệu và trả lời những vấn đề cần thiết
Tiến hành các biện pháp kiểm tra kĩ thuật thực tế tại các doanh nghiệp và nguồn nước thải bệnh viện…
Quyết định tạm đình chỉ các cơ sở sản xuất và trường hợp làm ô nhiễm môi trường nước quá lớn
Xử lí theo thẩm quyền hoặc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lí các vi phạm về môi trường nước.
2. 4.Công cụ giáo dục và truyền thông môi trường nước ở đô thị Giáo trình kinh tế và quản lí môi trường – NXB Thống kê- PGS.TS Nguyễn Thế Chinh. Tr 439.
Giáo dục môi trường nước ở đô thị là một quá trình thông qua các hoạt động giáo dục chính quy và không chính quy nhằm giúp con người có được sự hiểu biết, kĩ năng và giá trị, tạo điều kiện cho họ tham gia vào phát triển một xã hội bền vững về sinh thái.
Mục đích của giáo dục môi trường nước ở đô thị là nhằm vận dụng những kiến thức và kĩ năng vào giữ gìn, bảo tồn và sử dụng môi trường nước ở đô thị theo cách bền vững cho cả thế hệ hiện tại và tương lai. Giáo dục môi trường nước ở đô thị cũng bao hàm cả việc học tập cách sử dụng những công nghệ mới nhằm tăng sản lượng kinh tế và tránh những thảm hoạ môi trường nước. Hơn nữa, giáo dục môi trường bao hàm cả việc đạt được những kĩ năng, có những kỹ năng, có những động cơ và cam kết hành động, dù với tư cách cá nhân hay tập thể, để giải quyết những vấn đề môi trường nước ở đô thị hiện tại và phòng ngừa những vấn đề mới nảy sinh.
Giáo dục môi trường nước ở đô thị bao gồm, những nội dung chủ yếu :
- Đưa giáo dục môi trường nước ở đô thị vào trường học
- Cung cấp thông tin cho những người có quyền ra quyết định
- Đào tạo chuyên gia về môi trường nước ở đô thị.
Truyền thông môi trường nước ở đô thị là một quá trình tương tác xã hội hai chiều nhằm giúp cho những người có liên quan hiểu được các yếu tố môi trường nước ở đô thị then chốt, mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng và cách tác động vào vấn đề có liên quan một cách thích hợp để giải quyết các vấn đề về môi trường nước ở đô thị.
Thông tin cho người bị tác động bởi các vấn đề môi trường nước biết tình trạng của họ, từ đó giúp họ quan tâm đến việc tìm kiếm cá giải pháp khắc phục.
Huy động các kinh nghiệm, kỹ năng, bí quyết của những người sống ở đô thị tham gia vào các chương trình liên quan đến bảo vệ nguồn nước.
Thương lượng hoà giải các xung đột, khiếu nại, tranh chấp về môi trường nước ở đô thị nước giữa các cơ quan và trong nhân dân.
Tạo cơ hội cho mọi thành phần trong xã hội tham gia bảo vệ môi trường nước ở đô thị, xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường nước
Khả năng thay đổi các hành vi sẽ được hữu hiệu hơn thông qua đối thoại thường xuyên trong xã hội.
Truyền thông về môi trường nước ở đô thị có thể thực hiện thông qua các phương thức chủ yếu sau:
Chuyển thông tin tới từng cá nhân qua việc tiếp xúc tại nhà, tại cơ quan, gọi điện thoại, gửi thư.
Chuyển thông tin tới các nhóm thông qua hội thảo tập trung, huấn luyện, họp nhóm, tham quan khảo sát.
Chuyển thông tin tới các phương tiện truyền thông đại chúng : báo chí, ti vi, radio, pano, áp phích, tờ rơi, phim ảnh…
Thực hiện giáo dục về môi trường nước ở đô thị để vấn đề bảo vệ môi trường nước trở thành trách nhiệm của tất cả mọi người. Có những biện pháp khuyến khích những cá nhân, tập thể, doanh nghiệp…có những việc làm tốt, có sáng kiến trong giữ gìn bảo vệ môi trường nước ở đô thị bằng việc tuyên dương, khen thưởng hoặc tổ chức thăm quan, học tập và nhân rộng các mô hình tiên tiến về quản lí và bảo vệ môi trường nước
Phát triển đào tạo đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực quản lí môi trường nước ở đô thị thông qua đào tạo chuyên nghiệp về các vấn đề môi trường cấp bách: đội ngũ kiểm tra tiêu chuẩn nguồn nước, chuyên gia tư vấn xử lí nước thải, kĩ sư thiết kế công trình xử lí nước thải, cán bộ kiểm tra có phẩm chất và kĩ năng…
Tăng cường cảnh báo về vấn đề nguy hại của môi trường nước, kêu gọi toàn dân tham gia các chương trình hành động như: chương trình thi viết về các giải pháp bảo vệ môi trường nước ở đô thị…
3.Tính tất yếu khách quan của quản lí nhà nước về môi trường nước ở đô thị Giáo trình quản lí môi trường bằng công cụ kinh tế - NXB Lao động- Trần Thanh Lâm. Tr 22
Mọi quốc gia trên thế giới đều phải thực hiện sự quản lý nhà nước về môi trường nước vì các lí do sau:
Thứ nhất, tầm quan trọng của tài nguyên nước vì nó là yếu tố của môi trường. Con người và các thực thể sống trên trái đất không thể thiếu nguồn nước, đối với con người nguồn nước sạch để phục vụ ăn uống và sinh hoạt hàng ngày là vô cùng cần thiết. Như vậy môi trường nước càng trở nên quan trọng hơn ở các khu đô thị , nơi dân cư đông đúc và nhiều cơ sở sản xuất.
Thứ hai, bảo vệ tài nguyên và môi trường nước ở đô thị là sự nghiệp toàn dân, nhất là dân sinh sống ở đô thị và lâu dài, đòi hỏi sự tham gia đồng bộ của nhiều ngành, mọi địa phương và nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Để có sự đồng bộ đó thì chỉ có nhà nước mới có khả năng tổ chức, quản lý các hoạt động đó.
Thứ ba, với tài nguyên nước, việc bảo vệ nó không chỉ cần thống nhất hành động của cả một quốc gia mà còn cần hành động của cả khu vực toàn cầu. Vì vậy, chỉ có nhà nước nhân danh cộng đồng , quốc gia mới có thể tham gia vào các hoạt động chung của khu vực hay toàn cầu để thực hiện các chương trình phối hợp chung nhằm bảo vệ nguồn nước chung.
Thứ tư, do chất lượng môi trường nước ở đô thị nước có thể bị “ ngoại ứng”, đó là sự tác động các lợi ích và chi phí nằm ngoài thị trường (Thí dụ như nước thải của một nhà máy vào một con sông làm nó bị ô nhiễm, không sử dụng nước của con sông vào mục đích khác được. Đây là ngoại ứng tiêu cực, vì thiệt hại do ô nhiễm nước sông xã hội phải gánh chịu ). Các vấn đề về môi trường nước ở đô thị có thể được xem xét như các vấn đề của ngoại ứng, nghĩa là các vấn đề không được đề cập đến trong thị trường giao dịch. Ngoại ứng được xem là các hàng hoá không có chủ sở hữu xác định.
Thứ năm, do chất lượng môi trường nước là hàng hoá công cộng nên một số người có thể tiêu dùng mà không ảnh hưởng đến số lượng vốn có của chúng đối với những người khác và không thể loại trừ ai ra khỏi việc tiêu dùng chúng, trừ khi họ phải trả giá rất cao.
Khi tồn tại ngoại ứng và hàng hoá công cộng, giá cả của sản phẩm không phản ánh đúng giá trị xã hội của nó. Vì thế các doanh nghiệp có thể sản xuất quá nhiều hoặc quá ít, do đó kết quả của thị trường là không hiệu quả và tác động xấu đến tài nguyên nước và môi trường nước ở đô thị (sử dụng lãng phí tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường nước ở đô thị ). Vì vậy nhà nước phải điều chỉnh và quản lí ngoại ứng hoặc đảm nhiệm sản xuất và cung ứng toàn bộ hay một phần hàng hoá công cộng, nên cũng phải điều chỉnh và quản lí loại hàng hoá này.
Thứ sáu, xem xét về sở hữu tài nguyên và thành phần môi trường, chúng ta đều thừa nhận các tài nguyên thiên nhiên và thành phần môi trường nước ở đô thị thuộc sở hữu nhà nước, như vậy nhà nước không thể giao cho đối tượng nào khác để chịu trách nhiệm chính về quản lí môi trường nước ở đô thị, trách nhiệm đó phải thuộc về nhà nước…
Ở nước ta, nguồn nước mặt và nước ngầm đang càng ngày bị ô nhiễm và cạn kiệt, nhiều đô thị và khu công nghiệp bị ô nhiễm do nguồn nước thải, chất thải…Việc gia tăng dân số, việc di dân tự do diễn ra ồ ạt và không kiểm soát được, không kiểm soát được, việc khai thác có tính chất huỷ diệt các nguồn lợi sinh vật trên cạn và dưới nước. Do sản xuất công nghiệp vẫn còn nằm trong tình trạng phân bố tuỳ tiện, không tính toán hướng, vị trí, xả thải bừa bãi, không xử lí đúng mức, còn sử dụng nhiều chất hoá học độc hại ảnh hưởng đến nguồn nước…Mặt khác, do đòi hỏi của cộng đồng quốc tế đối với nước ta về hưởng ứng các chương trình chung về bảo vệ môi trường khu vực và quốc tế. Vì vậy, nhà nước phải có trách nhiệm thay mặt nhân dân ta thực hiện các cam kết đó và quản lí, bảo vệ môi trường nước ở đô thị trên địa bàn cả nước.
Chương II
THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC Ở ĐÔ THỊ VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ NGUYÊN NHÂN
1.Thực trạng về môi trường nước đô thị ở nước ta hiện nay
Hiện nay ở Việt Nam, mặc dù các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường nước ở đô thị, nhưng tình trạng ô nhiễm môi trường nước đô thị và công nghiệp vẫn là vấn đề rất đáng lo ngại.
1.1.Cấp nước
Phần lớn các hệ thống cấp nước máy ở đô thị đều lấy nước từ nguồn nước mặt, khoảng 30% nước cấp lấy từ nước ngầm. Hiện nay, nhiều hệ thống cấp nước đã được xây dựng rất hiện đại và ngày càng nhiều ở các khu đô thị trên toàn quốc. Tuy nhiên, bên cạnh đó hệ thống phân phối nước nhiều nơi còn tồi tàn gây thất thoát rò rỉ (thường là tới 30-40%).Còn nhiều đô thị (các thị trấn, đô thị loại IV, V ) chưa được cấp nước máy, hiện vẫn lấy nước từ các giếng khoan nông, bơm tay, một số trường hợp còn là sử dụng giếng lộ thiên. Tỷ lệ dân số được cấp nước còn thấp, 60-70% đối với đô thị loại I, II; 40-50% đối với đô thị loại III, nhưng lượng nước chỉ đạt 40–50% tiêu chuẩn cần thiết theo đầu người. Hầu hết các hệ thống cấp nước đã được xây dựng từ lâu, chắp vá và xuống cấp nghiêm trọng.
Các công ty cấp nước hầu như chưa cân đối được thu chi, do giá nhà nước thường thấp hơn so với giá chung trong khu vực. Ở nước ta biểu giá nước dân dụng thường là khoảng 0,25USD/m3, và nước dùng trong sản xuất là 0.35USD/m3, so với giá tương ứng tại các nước khác trong khu vực là 0.3USD/m3 và 0,5USD/m3. “Việt Nam môi trường và cuộc sống”- NXB Chính Trị Quốc gia- Tr 223
Hiện nay
, nhiều đô thị lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng... vẫn thường xuyên thiếu nước. Ở VN nguồn nước chủ yếu sử dụng là nước mặt và nước ngầm, trong đó 2/3 là nước mặt từ các sông. Nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước mặt và nước ngầm do tác động của con người và thiên nhiên gia tăng. Chất lượng nguồn nước ngày càng không ổn định và diễn biến theo chiều hướng xấu. Tỷ lệ thất thoát và thất thu nước còn cao, vào khoảng 30 - 50%, có nơi lên đến 60% khiến tình trạng thiếu nước tại các đô thị càng trầm trọng. Mặt khác, trong tổng số 17.600 km đường ống cấp nước có đến 60% xây dựng cách đây hơn 35 năm đã xuống cấp nghiêm trọng, vừa gây thất thoát, vừa khiến chất lượng nước sạch không bảo đảm tiêu chuẩn. Sự cố nước bị nhiễm bẩn tại TP. Hồ Chí Minh, chất lượng nước kém tại nhiều đô thị như Hà Nội, Quảng Ninh, Thái Bình, Hưng Yên hay nước nhiễm mặn tại Huế đang trở thành vấn đề bức xúc. Các công ty cấp nước còn mang nặng dấu ấn thời bao cấp, công tác quản lý tổ chức, điều hành và nhân lực còn yếu gây ức chế, mất lòng tin của khách hàng...
Đặc biệt, hiện cả nước chưa có một cơ cấu tổ chức cấp nước thống nhất: Có địa phương giao cho công ty cấp nước tỉnh quản lý toàn bộ hệ thống cấp nước trên địa bàn, có tỉnh lại giao cho các nhà máy nước theo từng địa bàn riêng biệt; có nơi để các công ty cấp nước trực thuộc tỉnh, có địa phương giao các công ty cấp nước cho UBND thị xã quản lý, đa phần trực thuộc Sở Xây dựng, Sở Giao thông - Công chính. Cơ cấu không đồng bộ đang là trở ngại kìm hãm sự phát triển của hệ thống cấp nước đô thị VN. Nguồn nhân lực không được quan tâm đào tạo, trình độ cán bộ và công nhân thấp, ảnh hưởng đến công tác vận hành, bảo dưỡng cũng như tiếp thu công nghệ mới. Ngoài ra, hầu hết các địa phương đều định giá nước làm nhiều loại giá, tăng giá nước sản xuất và kinh doanh để bù cho giá nước sinh hoạt và công cộng. Nhiều nơi vẫn còn quy định mức sử dụng, dùng nhiều không khuyến khích mà còn bị trả tiền theo lũy tiến, đi ngược nguyên lý kinh doanh thông thường và sự phi lý bắt buộc phải chấp nhận...
1.2.Úng ngập đô thị
Vào mùa mưa, ở nhiều đô thị thường xảy ra úng ngập.Tình trạng úng ngập không những gây ô nhiễm môi trường nước ở đô thị, làm cho nước cống rãnh bẩn lan tràn trên đường phố, mà còn cản trở giao thông đô thị gây ra các thiệt hại lớn về kinh tế và xã hội. Ở nước ta, phần lớn các đô thị được phát triển ở vùng đồng bằng, nên tình trạng úng ngập trong đô thị về mùa mưa xảy ra rất phổ biến. Vì vậy vấn đề thoát nứơc mưa và chống ngập úng trong mùa mưa đối với đô thị có ý nghĩa rất quan trọng về mặt môi trường nước ở đô thị, cũng như về mặt kinh tế - xã hội.
Áp lực phát triển của các đô thị đang dẫn đến tình trạng: tại các lưu vực thoát nước, các ao hồ chứa nước mưa thiên nhiên đều bị san lấp, làm cho các hệ thống thoát nước càng bị quá tải và dẫn đến tình trạng úng ngập. Hơn thế nữa do không có một quy hoạch cụ thể để xây dựng một hệ thống đô thị thống nhất, các đường ống , các kênh thoát nước ở các khu vực mới phát triển thường được xây dựng mâu thuẫn với phương thức thoát nước của khu vực cũ. Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long đã gặp phải những vấn đề đặc biệt phức tạp, mức nước sông hiện nay cao hơn khu vực xung quanh, bắt buộc người ta phải bơm nước ra để thoát nước trong mùa mưa bão. Đây là phương thức vừa quá tốn kém, vừa không đáp ứng nổi nhu cầu.
Trong những năm gần đây, phần lớn các hệ thống thoát nước đều trong tình trạng nhanh chóng xuống cấp và không được bảo dưỡng, đều không đáp ứng nổi công suất cần thiết, vì mức độ phát triển của các đô thị ngày càng tăng thì chiều dài và chiều rộng của các khu vực không được thoát nước ngày càng lớn. Nhiều đường phố không có hệ thống thoát nước mưa và nước sinh hoạt nên thưòng bị úng ngập khi mưa và tình trạng ứ đọng nước thải sinh hoạt là thường xuyên.
Việc tiêu thoát nước mưa gặp nhiều khó khăn: tự chảy chỉ được một phần ,chủ yếu tiêu bằng động lực. Hệ thống thu hứng và thoát nước tập trung nhỏ, thường bị tắc nghẽn . Trong các trận mưa lớn 1-2 giờ, cường độ từ 50mm trở lên, là xuất hiện một số điểm úng ngập, chiều sâu ngập, thời gian ngập đều không giảm, thậm chí có nơi còn phát sinh thêm. Hiện trạng ngập úng đã dẫn đến mức độ ô nhiễm tương đối cao xung quanh hầu hết các điểm thải nước.
Ở tất cả các khu đô thị trong cả nước, hầu như không có một hệ thống thoát nước thải riêng nào. Các hệ thống thoát nước thải đều chung với hệ thống thu gom nước mưa, cả bùn rác, nước cống đều xả vào một hệ thống thoát nước chung - kết hợp. Ở hầu hết các đô thị, đặc biệt là ở Miền Nam, rác thải được xả trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua bể phốt vào hệ thống thoát nước này. Tỷ lệ dân số được sử dụng các hệ thống thoát nước tại các trung tâm đô thị đang còn thấp – vào khoảng 50 - 60% tại thành phố HCM và 35-40% tại Hà Nội và Hải Phòng,và thậm chí còn thấp hơn nữa ở các đô thị cấp thấp hơn. Chỉ tính riêng các đường ống thoát nước thải thì chiều dài đường ống ở thành phố và thị xã thuộc tất cả các cấp đều dưới 0,2m/người.
Dự báo đến năm 2010, công tác thoát nước đô thị ở nước ta cũng chỉ tập trung giải quyết úng ngập, chưa thể giải quyết úng ngập ,chưa thể giải quyết được việc xử lí nước thải tập trung. Như vậy, đối với đô thị tới năm 2010 cũng vẫn sử dụng hệ thống thoát nước chung và xử lí nước thải phân tán ở các bể tự hoại, tức là chỉ xử lí được khoảng 30% lượng chất lơ lửng và 5-10% lượng BOD.Ô nhiễm môi trường nước mặt trong đô thị vẫn còn trầm trọng.
Thống kê của Bộ xây dựng cho thấy hệ thống thoát nước tại các đô thị hiện nay bị xuống cấp nghiêm trọng, chỉ đáp ứng được 60% nhu cầu thoát nước.Tại thành phố HCM, hiện có trên 100 điểm úng ngập, tại Hà Nội là 30 điểm, đặc biệt là tại thành phố Buôn Mê Thuột có tới 60% đường phố bị úng ngập khi có mưa lớn xảy ra.
Ông Nguyễn Sĩ Bảo, Giám đốc Công ty Thoát nước Hà Nội, cho biết: dân cư ở gần các khu đô thị mới Việt Hưng, Gia Quất, Phúc Đồng, Yên Hoà, Nam Trung Yên, Dịch Vọng... sẽ bị úng ngập trong mùa mưa năm nay. Lý do: Ảnh hưởng từ việc nâng cao cốt nền ở các khu đô thị mới.
1.3.Nước thải
Sự tập trung công nghiệp và đô thị hoá cao độ gây tác động lớn đối với môi trường nước ở đô thị , trong đó có môi trường nước. Các dòng xả nước thải gây ô nhiễm môi trường nước mặt, nước ngầm, gây ô nhiễm đất.
Nước thải là nước sau khi đã sử dụng và được đào thải vào các nguồn tiếp nhận nước thải. Một trong các cách phân loại nước thải là có thể phân loại theo nguồn gốc phát sinh ra chúng, đó là cơ sở trong việc lựa chọn các biện pháp để quản lí hoặc công nghệ xử lí thích hợp. Các nguồn nước thải chính ở các khu công nghiệp và đô thị hiện nay là:
Nước thải sinh hoạt: là nước thải được thải từ các khu dân cư, khu hoạt động thương mại dịch vụ, khu vực công sở, trường học và các cơ sở tương tự khác.
Nước thải từ các cơ sở công nghiệp và dịch vụ: Là nước thải từ các quá trình công nghệ hay dịch vụ có sử dụng nước và thành phần của nước thải phụ thuộc vào công nghệ hay dịch vụ.
Nước thải từ các bệnh viện: Số lượng vi sinh vật lớn và đa dạng, nhiều vi sinh vật gây bệnh đặc biệt là các bệnh truyền nhiễm các hoá chất độc hại, nguy hiểm và có thể có phóng xạ. Phần lớn các bệnh viện và cơ sở y tế chưa có hệ thống xử lý nước thải.
Nước mưa nhiễm bẩn: Độ nhiễm của nước mưa phụ thuộc vào môi trường không khí, bề mặt khu vực có nước chảy tràn.
2.Nguyên nhân của hiện trạng môi trường nước đô thị hiện nay
2.1. Nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường nước từ nước thải “Việt Nam môi trường và cuộc sống”- NXB Chính Trị Quốc gia- Tr 224
2.1.1.Nguyên nhân từ nước thải sinh hoạt
Hiện nay, Hà Nội là thành phố có mật độ dân số cao, nhưng hệ thống cơ sở hạ tầng còn rất nghèo nàn, đa số đời sống của nhân dân còn chật chội, các công trình phụ còn chưa hợp vệ sinh, nước thải vào hệ thống cống không được mở rộng và sửa chữa nên dẫn đến việc ô nhiễm trầm trọng nước trong hệ thống cống nước thải . Hiên nay nước thải sinh hoạt chiếm khoảng 80% lượng nước cấp và xả trực tiếp ra nguồn tiếp nhận mà không qua bất kì một biện pháp xử lý nào. Nước thải sinh hoạt chủ yếu chứa các chất ô nhiễm hữu cơ, đây là những chất dễ bị phân hủy và gây ra ô nhiễm. Và đặc biệt nghiêm trọng khi tình trạng ngập lụt do mưa lũ: nước thải thành phố ô nhiễm bởi các vi khuẩn, vi trùng, vi rút gây bệnh cho con người và từ cống rãnh đã lan rộng khắp địa bàn thành phố gây ra nhiều vấn đề về vệ sinh môi trường nước ở đô thị và cảnh quan.
2.1.2.Nguyên nhân từ nước thải công nghiệp
Trong nước thải công nghiệp phụ thuộc và loại hình công nghiệp có các chất độc hại như kim loại nặng, các chất hữu cơ, vô cơ cao. Hàm lượng BOD, COD cao làm giảm lượng oxy hoà tan trong nước và dẫn đến làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái của thuỷ vực. Một số nhà máy xí nghiệp tuy đã có hệ thống xử lí nước thải nhưng trang thiết bị và công nghệ cũ kĩ hoặc không có tiền để bảo trì, do đó nước thải sau xử lí vẫn còn nhiều thông số chưa đạt tiêu chuẩn cho phép. Các chất hợp chất hữu cơ trong nước thải công nghiệp rất đa dạng, thí dụ như bột giặt, nước thải từ các nhà máy chế biến lương thực - thực phẩm như nhà máy bia, rượu …bao gồm nhiều hợp chất hữu cơ có nguồn gốc động thực vật, có thể phân huỷ trong môi trường tự nhiên, nhưng rất gây ra ô nhiễm mùi và màu, và có đặc trưng là trị số BOD rất cao. Các nhà máy xí nghiệp dệt nhuộm thải ra môi trường ngoài xơ sợi, xút, axit, còn có nhiều hợp chất màu, chất thợ nhuộm, chất tẩy…là những hợp chất có thể khó phân huỷ và rất độc với môi trường thuỷ sinh. Nước thải ngành dệt nhuộm, công nghiệp giấy thải ra nước thải các chất hữu cơ rất độc cho môi trường nước ở đô thị, được biểu hiện qua giá trị BOD,COD cao…Kết quả khảo sát cho thấy, ô nhiễm nước do sản xuất công nghiệp là rất nặng nề, có khu công nghiệp thải ra tới 500.000m3 nước bẩn mỗi ngày, nước thải của một số ngành công nghiệp như hoá chất, phân bón, khai thác chế biến khoáng sản có lượng nước thải lớn, Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa xyanua (CN-) vượt đến 84 lần, H2S vượt 4,2 lần, hàm lượng NH3 vượt 84 lần tiêu chuẩn cho phép nên đã gây ô nhiễm nặng nề các nguồn nước mặt trong vùng dân cư.
2.1.3.Sự ô nhiễm từ các bãi rác và các chất thải rắn
Khi mưa, nước mưa cuốn trôi các chất thải rắn nhất là ở các bãi rác vào nguồn nước mặt đồng thời các chất bẩn cũng bị ngấm xuống nước ngầm gây ô nhiễm ảnh hưởng đến chất lượng nước mặt và nước ngầm. Hiện nay ở Việt Nam do các bãi rác chưa được thiết kế đúng tiêu chuẩn nên nước rác từ các nơi đổ rác không được thu gom và xử lí, dẫn đến việc nước rác làm ô nhiễm nguồn nước và đất. Nước rác chứa rất nhiều các chất ô nhiễm hữư cơ và vô cơ có độc tính cao cho người và các hệ sinh thái trong nguồn nước nhận. Tính trung bình một ngày một người thải 0,5 kg chất thải rắn từ đó lượng rác chưa được đưa đến bãi rác nó tồn đọng trên đường phố cũng góp phần đáng kể cho sự ô nhiễm. Các rác thải độc hại trong nhà máy hay bệnh viện không được phân loại và xử lí là những nguồn gây ô nhiễm rất nguy hiểm.
2.1.4. Sự ô nhiễm từ nước thải bệnh viện
Nước thải từ các bệnh viện là nước thải chứa rất nhiều hoá chất, bệnh phẩm và vi trùng nếu không được xử lí mà thải ra cống rãnh chung sẽ là nguồn ô nhiễm rất nguy hiểm độc hại không chỉ cho nguồn nứơc nhận mà còn cho người và động thực vật. Tại Việt Nam do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân về kinh phí hạn hẹp nên ít bệnh viện lắp đặt hệ thống xử lí nước thải, cá biệt các trạm xử lí nhưng bị hạn chế về kinh phí để duy trì hoạt động sửa chữa. Do đó nước thải bệnh viện đang là nguồn gây ô nhiễm rất đáng kể.
Nước thải sinh hoạt ở các thành phố là một nguyên nhân chính gây nên tình trạng ô nhiễm nước và vấn đề này có xu hướng càng ngày càng xấu đi. Nước thải và nước mưa, nhất là nước mưa đợt đầu, đều không được xử lý.Trong các đô thị, do dân số tăng nhanh, nhưng hệ thống thoát nước không được cải tạo xây dựng kịp thời, nên nước thải trực tiếp chảy vào các sông mà không được kiểm soát chặt chẽ. Vấn đề càng xấu đi do sự quản lí chất thải rắn và xử lí các chất thải công nghiệp không đầy đủ ở các thành phố lớn, thị xã và khu công nghiệp, nên tình trạng ô nhiễm vốn đã xấu, sẽ có chiều hướng nghiêm trọng hơn, kéo theo là vấn đề sức khoẻ cộng đồng, cũng như chất lượng đời sống sẽ xấu đi.
Tình trạng ô nhiễm nước rõ ràng nhất là ở Hà Nội, Thành phố HCM và Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế, Nam Định, Hải Dương và các thành phố thị xã lớn: Ở thành phố Hà Nội, tổng lượng nước thải của thành phố lên tới 450.000 m3/ngày;tuy nhiên chỉ có 5% lượng nước thải được xử lí,còn lại trực tiếp xả vào hệ thống thoát nước của hệ thống, hiện mới chỉ có 10/31 bệnh viện có hệ thống xử lí nước thải; 40/15880 cơ sở sản xuất tư nhân có xử lý nước thải; lượng rác thải sinh hoạt chưa được thu gom khoảng 1.200m3/ ngày đang xả vào các khu đất ven hồ, kênh, mương nội thành; chỉ số BOD, ôxy hoà tan, các chất NH4, NO2, NO3 ở các sông hồ nội thành đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Ở thành phố Hồ Chí Minh thì lượng rác thải lên tới gần 4.000 tấn/ngày, chỉ có 24/142 cơ sở y tế lớn là có xử lý nước thải, khoảng 3.000 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm thuộc diện phải di dời.
Nhìn chung các nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường nước ở các khu đô thị hiện nay đều bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Các nguyên nhân khách quan dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nước như: sự gia tăng dân số,mặt trái của quá trình công nghiệp hoá, cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu…Những nguyên nhân chủ quan như là nhận thức của người dân về vấn đề môi trường nước ở đô thị chưa cao, sự bất cập trong vấn đề quản lí, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ môi trường nước chưa sâu sắc và đầy đủ. Các quy định về quản lí và bảo vệ môi trường nước còn thiếu. Cơ chế phân phối và phối hợp giữa các cơ quan chưa đồng bộ, chưa có chiến lược, quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước theo lưu vực và các vùng lãnh thổ lớn. Ngân sách đầu tư cho bảo vệ môi trường nước ở đô thị còn rất thấp…
2.2. Nguyên nhân của tình trạng úng ngập
Ở các đô thị nước ta, nguyên nhân gây úng ngập thường là:
Thứ nhất, do thiếu sót trong thiết kế xây dựng hệ thống thoát nước trong quy hoạch phát triển đô thị, như là hệ thống thoát nước quá nhỏ, không đủ khả năng thoát nước mưa đối với các trận mưa lớn. Hệ thống thoát mưa chung của toàn thành phố hoặc hệ thống thoát nước mưa cục bộ của từng khu phố không tương ứng với yêu cầu thoát nước mưa. Các ao, hồ trong đô thị bị san lấp, diện tích các sông ngòi, kênh rạch trong đô thị bị san lấp, diện tích các sông ngòi, kênh rạch trong đô thị và vùng kế cận đô thị bị thu hẹp trong quá trình đô thị hoá, làm mất khả năng điều hoà nước mưa của đô thị. Các vùng ngập nước ở hai bên bờ sông cũng có vai trò quan trọng trong việc điều hoà nước mưa và bổ sung nước cho các tầng nước ngầm ở dưới đất đô thị. Đô thị hoá làm tăng bề mặt bị bê tông hoá, làm giảm diện tích mặt cỏ, cây xanh, giảm diện tích mặt đất thấm nước, do đó làm tăng cường độ dòng nước chảy bề mặt của đô thị. Không những thế, nhiều khi còn xây dựng nhà cửa, công trình đè lên trên hệ thống thoát nước, làm sụt lở, nứt gẫy, thu hẹp tiết diện thoát nước cảu hệ thống. Tất cả các yếu tố trên đã gây ra sự quá tải đối với hệ thống thoát nước của đô thị.
Thứ hai, phát triển các khu đô thị mới có thể gây ra cản trở thoát nước đối với phần đô thị cũ, như là độ cao mặt nền phần đô thị mới cao hơn độ cao mặt nền phần đô thị cũ, hoặc làm tăng chiều dài các kênh mương thoát nước.
Thứ ba, do hệ thống thoát nước mưa bị bồi lắng, lấp đầy, làm giảm khả năng thóat nước mưa và hệ thống thoát nước thải là một hệ thống chung, như ở hầu hết các khu đô thị hiện nay. Sự bồi lắng này cũng rất nhanh chóng đối với các đô thị có có hoạt động sửa chữa nhà cửa, đường sá đất cát rơi vãi, chất thải xây dựng sẽ cuốn theo dòng nước mưa xuống kênh rãnh và lắng đọng, lấp đầy, làm giảm khả năng thoát nước của các kênh rãnh. Sự suy giảm diện tích cây xanh trong quá trình đô thị hoá sẽ làm tăng xói mòn mặt đất và cũng là nguyên nhân gây ra bồi lắng, lấp đầy các kênh rãnh tháo nước.
Thứ tư, thiếu sự duy tu, bảo dưỡng làm vệ sinh đối với hệ thống thoát nước mưa đô thị. Nếu cống rãnh, kênh rạch thoát nước mưa không được nạo vét thường xuyên, thì tiết diện của hệ thống thoát nước sẽ bị suy giảm nhanh, không đủ khả năng thoát nước đối với các trận mưa lớn nữa. Hệ thống thoát nước ở đô thị thường có hàm lượng các chất dinh dưỡng rất lớn, do nước thải đô thị chảy vào, nên là môi trường nước có nhiều rong, rêu, thực vật này sẽ cản trở dòng chảy rất lớn. Rác thải, nhất là váng dầu, các chất dẻo và phế thải kim loại vứt xuống kênh rãnh thóat nước cũng là nguyên nhân cản trở dòng chảy và gây ra các vấn đề sự cố đối với các vấn đề sự cố đối với các trạm bơm thoát nước.
Chương III
GIẢI PHÁP CỦA NHÀ NƯỚC TRONG QUẢN Í MÔI TRƯỜNG NƯỚC Ở ĐÔ THỊ
1. Nhà nước sử dụng các công cụ quản lí vào quản lí môi trường nước đô thị.
1.1 Sử dụng công cụ pháp lý vào quản lí môi trường nước đô thị:
Sử dụng công cụ pháp lí cụ thể bằng các biện pháp sau:
Thứ nhất, giảm thất thoát việc cấp nước sạch ở các khu đô thị, từ nay cho đến năm 2010 cần tập trung nâng cấp hệ thống thoát nước cho các thành phố lớn theo hướng hiện đại hoá.
Thứ hai, xem xét việc gia tăng giá nước sạch để bù đắp chi phí, và với mức giá nước cao như thế nhà cung cấp nước phải bảo đảm nguồn nước đầy đủ, đạt tiêu chuần.
Thứ ba, đảm bảo đến năm 2010: 100% dân số đô thị được cấp nước sạch.
Thứ tư, xử lí nghiêm các hành vi vi phạm về tiêu chuẩn nguồn nước thải. Đảm bảo chấm dứt hoàn toàn các cơ sở sản xuất, bệnh viện thải trực tiếp nước thải, chất rắn thải ra các sông hồ, kênh, mương.
Thứ năm, kiện toàn và nâng cao năng lực các cơ quan quản lí bảo vệ môi trường từ Trung ương đến địa phương, đào tạo cán bộ kiểm tra có phẩm chất và năng lực thực sự.
1.2. Sử dụng công cụ kĩ thuật trong quản lí môi trường nước đô thị
Các biện pháp cụ thể sử dụng công cụ kĩ thuật trong quản lí môi trường nước:
Bảo dưỡng, tu sửa các hệ thống thoát nước hiện có, nếu hệ thống không còn đáp ứng đủ khả năng thoát nước thì nên thay thế bằng những công nghệ mới hiện đại hơn vì mục đích sử dụng lâu dài.
Từng bước xây dựng các hệ thống thoát nước trong quy hoạch phát triển đô thị đủ khả năng thoát nước mưa đối với các trận mưa lớn
Kiểm tra thường xuyên và giám sát chặt chẽ việc xử lí nước thải của các cơ sơ sản xuất, các bệnh viện và các nguồn nước thải có nguy cơ gây ô nhiễm. Công việc này chỉ có hiệu quả nếu như các cán bộ chuyên trách kiểm tra có đủ năng lực và phẩm chất đạo đức tốt.
Tổ chức và tạo điều kiện di dời các cơ sở sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm nặng ra vùng ngoại thành hoặc về nơi quy hoạch để có thể kiểm tra, giám sát và xử lí triệt để nguồn nước thải.
Xây dựng hệ thống công trình kiểm tra nguồn nước thải để đo nồng độ các chất độc hại trong nước và lượng nước thải để từ đó dùng các biện pháp xử lí thích hợp và có hiệu quả.
Xử lí triệt để các khu vực hồ ao, các sông, kênh, mương trong khu vực đô thị bị nhiễm bẩn do chất thải sinh hoạt và sản xuất: khơi thông, nạo vét các hệ thống kênh rạch thoát nước, loại bỏ bùn thải đưa về nơi chứa rác thích hợp.
Xây dựng các công trình xử lí nước thải hiện đại, xây dựng một cách tập trung và tiến hành xử lí thưòng xuyên và triệt để.
1.3. Sử dụng công cụ kinh tế trong quản lí môi trường nước ở đô thị
Các biện pháp cụ thể sử dụng công cụ kinh tế trong quản lí môi trường nước :
Khuyến khích các tổ chức xử lí nguồn nước trước khi thải vào hệ thống nước thải chung bằng các biện pháp như: cho vay lãi suất thấp với những dự án đầu tư xử lí nước thải, khen thưởng với những tổ chức thực hiện tốt việc xử lí nước thải, trích tiền thưởng cuối năm…
Áp dụng phí xả thải và tính mức xả thải hợp lí với từng doanh nghiêp, cơ sở sản xuất dựa vào mức xả thải, loại hình, quy mô sản xuất hoặc là đối với nước thải sinh hoạt mà gây ô nhiễm nghiêm trọng cũng nên áp dụng phí xả thải, phí người sử dụng.
Việc tính phí người sử dụng nguồn nước cũng được áp dụng, phí tính dựa vào lượng nước sử dụng, phương pháp này vừa giúp tiết kiệm nguồn nước sạch, vừa thu được luôn phí xả thải bao gồm trong chi phí sử dụng nước( sử dụng cang nhiều lượng nước thì nước thải càng lớn và phí phải nộp cũng tăng theo).
Để góp phần làm tăng ý thức của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất… trong công tác xử lí nước thải là dùng công cụ nhãn sinh thái, đây là công cụ còn mới với nước ta song nó ảnh hưởng gián tiếp đến doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp, vì thế họ phải tìm cách thu hút khách hàng bằng các sản phẩm có dán nhãn sinh thải được nhà nước cấp. Nhà nước nên triển khai sử dụng công cụ này có hiệu quả, quản lí chặt chẽ và đúng tiêu chuẩn mới được dán nhãn sinh thái.
Nhà nước tổ chức thành lập Quỹ bảo vệ môi trường đô thị và hỗ trợ các trạm cấp nước, giải quyết úng ngập, xử lí nước thải trong các khu đô thị
Thành lập các hệ thống đặt cọc hoàn trả, tổ chức kí quỹ môi trường…cũng được áp dụng nhưng nhìn chung còn chưa phổ biến.
1.4. Sử dụng công cụ giáo dục và truyền thông
Nâng cao nhận thức của người dân về việc không sử dụng lãng phí các nguồn nước, nhất là vào mùa khô.
Truyền thông cộng đồng: huy động sự tham gia của cộng đồng hay nói cách khác là xã hội hoá bảo vệ môi trường nước đô thị theo phương châm: nhà nước và nhân dân cùng làm chú trọng phát huy nội lực và sức mạnh của toàn xã hội .
Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục cho tất cả các tầng lớp nhân dân, nhất là dân cư đô thị trên mọi phương tiện để họ nhận thức được việc bảo vệ và xử lí nguồn nước thải cùng với nhà nước là việc làm cần thiết, đồng thời phải khẳng định rõ việc quản lí môi trường nước đô thị là trách nhiệm và quyền lợi của mỗi người dân.
Bằng các biện pháp như thi đua, tổ chức các cuộc thi viết về sử dụng và xử lí nguồn nước ô nhiễm, hay hưởng ứng phong trào “ phụ nữ bảo vệ nguồn nước thải sinh hoạt’’, “ mùa hè xanh”…
Tiếp cận truyền thông qua những buổi biểu diễn lưu động, tổ chức hội diễn, các chiến dịch, các lễ hội, các ngày kỉ niệm…
2.Kiến nghị với các cơ quan quản lí nhà nước
2.1.Về vấn đề xử lí nước thải ở đô thị
Hiện nay nhà nước vẫn chưa sử dụng triệt để các công cụ quản lí môi trường vào ttrong quản lí môi trường nước ở đô thị như: Nhãn sinh thái, kí quỹ môi trường, hệ thống đặt cọc hoàn trả…mà chỉ triển khai áp dụng các công cụ quen thuộc truyền thống như phí sử dụng nước sạch, giáo dục và truyền thông. Bởi vì nguồn gốc gây ô nhiễm lớn nhất vẫn là từ các cơ sở sản xuất kinh doanh ở đô thị, thế nên trước mắt để giải quyết vấn đề ô nhiễm nguồn nước mặt nhà nước nên quán triệt và quản lí nguồn nước thải từ các doanh nghiệp bằng nhiều công cụ quản lí môi trường. Mặt khác, mỗi công cụ quản lí môi trường nước đều có những ưu và nhược điểm riêng nên đòi hỏi sự phối hợp của tất cả các công cụ và sử dụng hợp lí với đặc trưng kinh tế - xã hội của từng đô thị trên khắp đất nước. Tóm lại với vấn đề xử lí ô nhiễm trường nước ở đô thị nhà nước, với các công cụ: như Nhãn sinh thái, kí quỹ môi trường, giấy phép xả thải…nhà nước nên áp dụng triệt để đối với các tổ chức có nguy cơ gây hại cho môi trường nước
2.2.Về vấn đề giải quyết úng ngập
Vấn đề úng ngập, nguyên nhân chính là công trình, hệ thống thoát nước không đảm bảo yêu cầu và lỗi này thuộc về các cơ quan nhà nước: không kiểm tra, tu dưỡng thường xuyên và xây dựng không đúng kĩ thuật nên qua thời gian hệ thông thoát nước sẽ xuống cấp hoặc bị tắc nghẽn do không được nạo vét, khơi thông thường xuyên. Vì thế, tôi cho rằng nhà nước và các cơ quan chức năng phải tăng cường công tác bảo dưỡng, tu sửa và thường xuyên có kế hoạch nạo vét khơi thông hệ thống thoát nước ở các khu đô thị.
2.3.Về vấn đề cung cấp nước sạch
Vấn đề này được coi là ít bất cập hơn vấn đề xử lí nước thải và úng ngập, song nó cũng rất quan trọng vì nó ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ và đời sống của dân cư đô thị. Hiện nay, nhiều công trình cung cấp nước đã được xây dựng ở các khu đô thị nên tình trạng thiếu nước không còn là vấn đề đáng lo ngại, nhưng chất lượng nguồn nước thế nào mới là vấn đề đáng quan tâm. Khi ngày nay, vấn đề ô nhiễm nguồn nước ngầm đang rất đáng lo ngại thì nguồn để cung cấp nước sạch là rất hạn chế, chưa kể đến các dịch bệnh có thể lây nhiễm nhanh và có thể ảnh hưởng đến cả dân cư đô thị như: dịch cúm gà, dịch tả….Bởi vậy nhà nước phải kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguồn nước sinh hoạt, thường xuyên xét nghiệm các thành phần có trong nguồn nước sinh hoạt xem chúng có đảm bảo an toàn hay không và kiểm tra, xử lí kịp thời, mạnh tay với những tổ chức cấp nước vi phạm tiêu chuẩn đã quy định về nguồn nước sinh hoạt. Với các tổ chức, công ty đảm nhận cung cấp nguồn nước phải đảm bảo việc xử lí nguồn nước trước khi cung cấp cho dán cư phải đảm bảo các tiêu chuẩn quy định, luôn tìm cách tiếp cận và sử dụng công nghệ xử lí nước mới và có hiệu quả nhất.
2.4.Về vấn đề xử lí vi phạm nguồn nước ở đô thị
Nguyên nhân chính của tình trạng ô nhiễm nguồn nước hiện nay đó là: thứ nhất, do các cơ sở sản xuất và người dân thực sự chưa có ý thức chung trong công tác bảo vệ nên xả trực tiếp các nguồn nước thải độc hại ra nguồn nước chung, thứ hai là do sự quản lí và quan tâm của nhà nước còn chưa thích đáng, một số công tác kiểm tra nguồn nước thải ở các nhà máy còn chưa minh bạch, nhận đút lót, bao che…Nhà nước cũng có rất nhiều biện pháp và nguồn vốn đầu tư cho công tác quản lí môi trường nước nhưng nhìn chung chưa hiệu quả vì chưa được mọi người nhiệt tình chấp hành. Vì vậy, kiến nghị của tôi trước tình trạng môi trường nước ở đô thị hiện nay đó là nhà nước phải thật sự mạnh tay trong công tác kiểm tra nguồn nước thải, hay vứt rác thải bừa bãi, xử phạt những cơ sở sản xuất gây ô nhiễm nguồn nước, nếu các cơ sở vẫn không chấp hành có thể đình chỉ tạm thời hay phạt tài chính. Ngoài ra, phải tiến hành kiểm tra thường xuyên, bất chợt không báo trước và rõ ràng không bao che nhận hối lộ…nhà nước cũng phải có nguồn đầu tư thích đáng hơn nữa trong việc cung cấp nước sạch, giải quyết úng ngập và xử lí ô nhiễm như các biện pháp đã đề cập ở trên. Tôi tin rằng với biện pháp mạnh tay như vậy sẽ buộc mọi người phải chấp hành nghiêm chỉnh vì ai cũng mong muốn một môi trường nước trong sạch, an toàn phục vụ nhu cầu sống và sinh hoạt của con người hằng ngày.
PHẦN KẾT LUẬN
Môi trường nước đô thị là một vấn đề rất đáng được quan tâm trong giai đoạn hiện nay, nó không chỉ ảnh hưởng tới mỗi một con người, mỗi một cộng đồng xã hội mà còn ảnh hưởng tới sự phát triển của cả một quốc gia. Chính vì thế vai trò của nhà nước trong việc quản lí môi trường nước đô thị là thật sự rất cần thiết, và nhà nước phải có vai trò chịu trách nhịêm chính trong việc đưa ra các giải pháp cần thiết nhằm bảo vệ và cải thiện môi trường nước tại các khu đô thị đồng thời có nhiều biện pháp khuyến khích nhân dân tích cực tham gia bảo vệ môi trường đặc biệt là môi trường nước. Qua nghiên cứu về đề tài này chúng ta đã nắm bắt được sự cần thiết của nhà nước trong quản lí môi trường nước đô thị hiện nay, thấy được tình trạng của môi trường nước và các nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng úng ngập, ô nhiễm ở các khu đô thị, từ đó có những giải pháp cần thiết cụ thể để nhằm cải thiện những bất cập về vấn đề môi trường nước đô thị. Quản lí môi trường nước là một việc vô cùng phức tạp không phải ngày một, ngày hai, không phải nhiệm vụ chỉ thuộc về nhà nước, chỉ sử dụng một công cụ quản lí mà nó đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ tất cả các công cụ quản lí một cách có hiệu quả, cần sự ủng hộ và tham gia bảo vệ của tất cả mọi người, cả trong nước và quốc tế…Như thế mới hi vọng là khắc phục được tình trạng môi trường nước ở các khu đô thị như hiện nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình Kinh tế và Quản lý môi trường –PGS.TS NGUYỄN THẾ CHINH-NXB thống kê.
2.Giáo trình Kinh doanh & môi trường –NXB ĐH KINH TẾ QUỐC DÂN
3.Quản lí môi trường bằng công cụ kinh tế-TRẦN THANH LÂM-NXB LAO ĐỘNG.
4.Quản lí môi trường – NGUYỄN ĐỨC HIỂN-NXB LĐ-XH
5.Việt Nam môi trường & cuộc sống-NXB CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
6.
7.
8. Bộ tài nguyên và môi trường- ngày 8/6/2007)
9.
10.
11.Khoa học và đời sống, số 47.trang 5
12.
13.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng và giải pháp của nhà nước trong việc giải quyết vấn đề môi trường nước ở đô thị hiện nay.DOC