MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 4
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ THUẾ 6
CHƯƠNG II: KHÁI NIỆM THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN 10
CHƯƠNG III: HỆ THỐNG QUẢN LÝ THUẾ TNCN Ở VIỆT NAM 18
CHƯƠNG IV: THỰC TRẠNG THUẾ TNCN Ở VIỆT NAM 27
CHƯƠNG V: KẾT QUẢ VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỀ RA 45
KẾT LUẬN 57
PHẦN MỞ ĐẦU
Việt Nam đang đi trên con đường đổi mới và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Những quy luật kinh tế khách quan và tất yếu đang từng giờ, từng phút điều chỉnh nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế của từng khu vực, từng quốc gia và bản thân mỗi chúng ta. Quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế trong khu vực tiến đến toàn cầu hoá nền kinh tế đang dần chứng tỏ là một quy luật của loài người tiến bộ. Để bắt kịp với quá trình này thì mỗi quốc gia phải liên tục có những cải cách nhằm làm phù hợp và thích nghi với môi trường bên ngoài. Trong công cuộc cải cách đó, cải cách về thuế luôn đươc các quốc gia chú trọng.
Đối với Việt Nam trong thời gian tới sau khi Việt Nam được gia nhập WTO thì những biến đổi về cơ cấu thuế và nguồn thu ngân sách sẽ là một điều không thể tránh khỏi. Thuế là một vấn đề nhạy cảm ở khắp mọi nơi trên thế giới không riêng gì Việt Nam, thế nhưng tính trên dân số 82 triệu đa số người dân chỉ quen trả thuế gián thu qua tiêu sài mua hàng hoá, ít người phải đóng thuế lợi tức.
Thuế là một trong những khoản thu ngân sách quan trọng nhất của nhà nước. Nộp thuế là trách nhiệm và nghĩa vụ của mội người dân và các tổ chức xã hội khác. Hiện nam, các Nhà nước thong qua việc thuế điều tiết một phần thu nhập của người giàu, nhằm góp phần giảm khoảng cách giàu nghèo đang ngày một nới rộng. Thuế là khoản thu không hoàn trả trực tiếp của Ngân sách nhà nước. Hệ thống thuế hiện nay bao gồm nhiều sắc thuế khác nhau, lập nên nguồn thu cho Ngân sách nhà nước.
Việt nam là một đất nước đang trên đà phát triển, trước bối cảnh mở cửa nền kinh tế hiện nay khoảng cách về thu nhập của người dân ngày càng rộng ra, Vì thế, thuế thu nhập cá nhân là điều đáng quan tâm không chỉ đối với Nhà nước mà còn đối với mỗi người dân. Việt nam mới ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007, và nó vẫn đang là một vấn đề nóng được toàn xã hội quan tâm.
Thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế trực thu có vai trò hết sức quan trọng. Nó đã ra đời tương đối sớm ở các nước phát triển và ngày nay thì phát triển rộng rãi ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Sự phát triển của nó đồng hành với sự phát triển của nền kinh tế và ngày càng khằng định được vai trò, chức năng là một nguồn thu quan trong trong ngân sách nhà nước và là công cụ góp phần đảm bảo công bằng xã hội một cách đắc lực. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và hoàn chỉnh pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân, đồng thời sớm xây dựng thành Luật thuế thu nhập cá nhân là một việc làm cần thiết từ bây giờ.
Bởi vậy, mong muốn được tìm hiểu và nghiên cứu sâu hơn về thuế, đặc biệt là về thuế thu nhập các nhân, nhóm em đã chọn đề tài: “ Thuế thu nhập cá nhân và thực trạng ở Việt Nam ”.
58 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9729 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thuế thu nhập cá nhân và thực trạng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hư sau:
Thu nhập tính thuế
Thuế suất (%)
a) Thu nhập từ đầu tư vốn
5
b) Thu nhập từ bản quyền, nhượng quyền thương mại
5
c) Thu nhập từ trúng thưởng
10
d) Thu nhập từ thừa kế, quà tặng
10
đ) Thu nhập từ chuyển nhượng vốn
Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán
20
0,1
6. Về kê khai, thu nộp:
Trong 6 khoản thu nhập thuộc diện chịu thuế thì chỉ có 2 khoản thu nhập từ kinh doanh và thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất là cá nhân tự kê khai, tự tính thuế và tự nộp thuế, cơ quan thuế thực hiện kiểm tra, kiểm soát. Đối với tất cả các khoản thu nhập còn lại áp dụng phương pháp thu thuế khấu trừ tại nguồn. Theo phương pháp này, khi chi trả thu nhập cho người nộp thuế, cơ quan chi trả thu nhập thực hiện khấu trừ và nộp tiền thuế vào ngân sách; cuối năm cá nhân tổng hợp các khoản thu nhập thực hiện quyết toán nếu có số thuế nộp thừa thì được thoái trả tiền thuế
Nguồn:Tổng cục thuế
NHỮNG MẶT TÍCH CỰC CỦA LUẬT
Mặc dù còn những ý kiến khác nhau về Luật thuế TNCN, song có thể nói, đây là một văn bản luật được soạn thảo công phu nhất từ trước đến nay, phản ánh khá đầy đủ ý chí, nguyệnvọng của nhân dân với nhiều điểm mới so với Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao và phù hợp hơn với điều kiện kinh tế-xã hội nước ta hiện nay.
1.Bổ sung và quy định rõ hơn về đối tượng nộp thuế.
Điểm mới là việc đưa cá nhân kinh doanh vào diện nộp thuế TNCN. Việc điều tiết thu nhập của cá nhân kinh doanh theo Luật thuế TNCN thực hiện theo phương pháp luỹ tiến sẽ đảmbảo điều tiết hợp lý thu nhập dân cư, quy định này đảm bảo tính thông lệ quốc tế, vì hầu hết cácnước đều đưa cá nhân kinh doanh vào diện nộp thuế TNCN.- Định nghĩa rõ hơn đối tượng cư trú, đó là "cá nhân có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở lại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn".
2.Đổi mới cách phân loại thu nhập chịu thuế để xác định nghĩa vụ thuế.
Luật thuế TNCN phân loại thu nhập chịu thuế theo nguồn phát sinh thu nhập. Theo đó, thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập từ kinh doanh; thu nhập từ tiền lương, tiền công; thu nhập từđầu tư vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản; thu nhập khác (bao gồm: thu nhập từ trúng thưởng, thu nhập từ bản quyền, thu nhập từ thừa kế, quà tặng, thu nhậptừ chuyển nhượng quyền thương mại). Đây là cơ sở để tính thuế phù hợp với từng loại thu nhập. Từ cách phân loại này, việc áp dụng thuế suất được quy định theo hai hướng: đối với thunhập từ kinh doanh và tiền lương, tiền công thì áp dụng biểu thuế suất luỹ tiến từng phần; đối với các khoản thu nhập còn lại thì áp dụng biểu thuế luỹ tiến toàn phần.
3.Mở rộng diện điều tiết một cách hợp lý trên cơ sở bổ sung một số khoản thu nhập chịu thuế.
Một số khoản thu nhập được quy định trong Luật thuế TNCN gồm: thu nhập từ chuyển nhượng quyền thương mại, thu nhập từ quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các cơ sở kinh doanh, bất động sản hoặc tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc sử dụng, thu nhập từ casino, thu nhập từ trúng thưởng các cuộc thi có thưởng và các hình thức trúng thưởng khác.- Luật thuế TNCN quy định miễn thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng, thừa kế, quàtặng giữa vợ với chồng; cha mẹ đẻ; cha mẹ nuôi; mẹ nuôi với con đẻ, con nuôi; cha chồng mẹ chồng với con dâu; cha vợ mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại với cháu nội,cháu ngoại; anh chị em ruột với nhau.
- Tính thuế đối với thu nhập từ đầu tư vốn, thu nhập từ chuyển nhượng vốn bao gồm cảchuyển nhượng chứng khoán. Tuy nhiên, phần thu nhập từ lãi tiền gửi tại các tổ chức tín dụng và lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được miễn thuế TNCN. Mở rộng diện điều tiết như trên sẽ góp phần điều tiết công bằng thu nhập của các tầng lớpdân cư theo hướng mọi cá nhân có thu nhập (trừ trường hợp thu nhập rất thấp và một số trườnghợp đặc biêt) đều phải có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Đồng thời, bằng quy định mới này,Luật thuế TNCN sẽ góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước một cách hợp lí trên cơ sở không bỏ sót nguồn thu của nền kinh tế.
4. Áp dụng giảm trừ gia cảnh khi xác định nghĩa vụ thuế.
Đây chính là vấn đề được ủng hộ của đông đảo nhân dân nhất song cũng là vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất khi dự thảo Luật được đưa ra lấy ý kiến nhân dân. Sự ủng hộ xuất phát từ cơ sở là, thay vì áp dụng mức khởi điểm chịu thuế chung cho mọi đối tượng nộp thuế thì chuyển sang áp dụng giảm trừ gia cảnh, tức là có tính đến hoàn cảnh cá nhân của đối tượng nộp thuế. Điều này làm cho việc xác định nghĩa vụ thuế của mỗi đối tượng nộp thuế được công bằng hơn. Mức giảm trừ cho bản thân đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng, cho mỗi người phụ thuộc mà đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ nuôi dưỡng là 1,6 triệu đồng/tháng. Mức giảm trừ gia cảnh như trên là phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của Việt Nam trong những năm tới và phù hợp với quản điểm cải cách hệ thống thuế của Việt Nam. Chỉ những người có thu nhập từ trung bình khá trở lên mới phải nộp thuế, khi thu nhập tăng lên, mức giảm trừ này sẽ tiến gần đến với mức thu nhập trung bình trong xã hội và khi đó những người có thu nhập ở mức trung bình trở lên đều có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước, từ đó đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của tầng lớp dân cư
5.Áp dụng giảm trừ đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo.
Khoản đóng góp từ thiện nhân đạo được trừ vào thu nhập trước khi tính thuế nhưng chỉ áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công và thu nhập từ kinh doanh; không áp dụng đốivới cá khoản thu nhập khác. Với quy định này, Luật đã khuyến khích mọi công dân trong xã hội tham gia các hoạt động từ thiện, nhân đạo.
6. Điều chỉnh thuế suất theo hướng giảm thuế suất cao nhất, thấp nhất, và tăng bậcthuế suất; thống nhất biểu thuế đối với người Việt Nam và người nước ngoài.
Tóm lại, Luật thuế TNCN vừa được Quốc hội thông qua có nhiều điểm mới, phù hợp với tiến trình đổi mới quản lý kinh tế của nhà nước, với quá trình hội nhập kinh tế của đất nước vàphù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay. Với việc ban hành Luật thuế quan trọng này, hệ thống thuế của chúng ta đang hướng đến phù hợp hơn với hệ thống thuế các nước, hướng tới một hệ thống thuế công bằng và hiện đại hơn.
NGHỊCH LÍ VÀ NHỮNG ĐIỂM BẤT HỢP LÍ VÈ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
Tuy nhiên, Luật thuế thu nhập cá nhân cũng còn tồn tại một số hạn chế, bất cập mà thời gian qua, dư luận tranh luận rất nhiều, các tranh luận xoay quanh các vấn đề sau:
1.Luật chỉ đánh thuế đối với những người làm công ăn lương
Trong điều kiện cơ sở hạ tầng về kinh tế, xã hội của nước ta còn thấp, các chính sách an sinh xã hội, quy định pháp lý về thanh toán, kiểm soát nguồn thu chưa đồng bộ, người dân có thói quen sử dụng tiền mặt trong sinh hoạt thì tính khả thi của Luật thuế TNCN đến đâu? Hiện có một bộ phận rất lớn người dân hoạt động sản xuất kinh doanh tự do, không thực hiện luân chuyển tiền qua hệ thống ngân hàng, cơ quan thuế không thể kiểm soát được thu nhập của họ là bao nhiêu để đánh thuế. Luật thuế TNCN do đó chỉ đánh thuế đối với những người làm công ăn lương, cán bộ công chức. Điều đó dẫn đến những bất bình đẳng trong việc đóng thuế, đi ngược lại mục đích của luật là phân phối thu nhập, giảm khoảng cách giàu nghèo.
2.Bất cập về mức khởi điểm và mức giảm trừ gia cảnh
Tỷ lệ thống nhất mức khởi điểm bắt đầu phải chịu thuế thu nhập cá nhân là 4 triệuđồng/tháng cho người nộp thuế, giảm trừ thêm cho mỗi người phụ thuộc 1,6 triệu đồng/. Ngay tại thời điểm xây dựng Luật Thuế TNCN, đã có quá nhiều ý kiến chuyên gia phản biện rằng mức khởi điểm chịu thuế quá thấp. Đặc biệt, các mức thuế suất, giảm trừ gia cảnh...không tính đến yếu tố trượt giá. Tất cả các mức giảm trừ gia cảnh, khởi điểm chịu thuế... đều cho thấy sự bất cập giữa thu nhập chịu thuế và chi tiêu thực tế trong cơn bão giá. Luật chỉ khả thi và huy động được khả năng đóng góp của nhân dân khi mức thu nhập phải đảm bảo nhu cầu tiêu dùng, sinh hoạt phí và tích luỹ tối thiểu. .
3.Bất cập về mức thuế lũy tiến
So sánh với mức thuế suất, sự bất hợp lý còn rõ hơn khi mức thuế đều rất cao. Cách đánh thuế luỹ tiến cao (bậc 7 lên đến 35%) thực chất sẽ phản tác dụng khi làm xói mòn sự hăng say làm giàu chính đáng; giảm năng suất lao động. Sẽ thật bất công nếu như người ta càng vắt óc,vắt sức ra để kiếm được nhiều tiền lại càng bị đánh thuế cao.- Các mức thuế luỹ tiến 5,6,7 trong bậc luỹ tiến (tương đương với mức 25%, 30% và 35%)đã đánh vào đối tượng là người có tài, người có khả năng làm giàu. Điều đó sẽ phản tác dụng vì sự cào bằng, bình quân chủ nghĩa và thực chất là sự tước đoạt của người này để chia cho người khác. Mức sống của dân ta hiện rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới, không nên áp dụng ngay một lúc mức mức lũy tiến lên đến 35% được.
Với những nội dung như đã trình bày ở trên thì luật thuế thu nhập cá nhân vẫn còn những rào cản phúc tạp
4.Chưa bình đẳng, công bằng về nghĩa vụ thuế:
Cùng là thu nhập của cá nhân, nhưng thu nhập từ kinh doanh không được trừ khởi điểm mà nộp thuế theo mức 28%; thu nhập từ tiền công, tiền lương trên mức khởi điểm 5 triệu đồng mỗi tháng mới nộp thuế và áp dụng thuế suất lũy tiến từng phần từ 10% đến 40%;
- Áp dụng khởi điểm chịu thuế, biểu thuế khác nhau giữa người Việt Nam và người nước ngoài.
- Chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.
*Bên cạnh những rào cản phức tạp như ở trên đã trình bày thì thuế thu nhập cá nhân vẫn tồn tại những nghịch lí cụ thể như sau:
+ Vấn đề thứ nhất đáng quan tâm ở đây là thu nhập hơn 1 triệu đồng/tháng vẫn phải tính thuế thu nhập như người thu nhập cao, bị khấu trừ 10%, quy định tạm nộp 10% thuế với các khoản thu nhập trên 500.000 đồng vô tình tạo ra nghịch lý này.
Đối với cơ quan thuế thì dù chưa rõ người dân có thu nhập đến mức chịu thuế hay không, nhưng để tránh thất thu thuế, Bộ Tài chính đã quy định việc khấu trừ tạm này. Đến hết năm, nếu thấy chưa đến ngưỡng phải nộp thuế, tức là có thu nhập dưới 48 triệu đồng/năm với người độc thân, họ sẽ phải đến cơ quan thuế để đề nghị xin hoàn thuế đã nộp và lấy lại số tiền thuế đã tạm nộp. Nhưng mà cùng với đó, những rắc rối trong việc hoàn thuế đã khiến không ít người nản lòng với ý định lấy lại tiền thuế đã tạm nộp. Vì sao lại có chuyện này. Thật vậy, đến cuối năm quyết toán, không ít người thuộc diện được hoàn lại toàn bộ tiền thuế đã nộp. Đành rằng, số thuế này theo quy định chỉ là tạm thu và nó sẽ được hoàn lại nếu người nộp thuế chứng minh được mình thu nhập dưới mức chịu thuế. Nhưng liệu họ có đủ "kiên nhẫn" để lấy lại số tiền thuế đã tạm nộp hay không thì lại là chuyện khác.Muốn lấy lại tiền bạn phải đủ “kiên nhẫn” vì con đường lấy lại tiền từ kho bạc Nhà nước không hề đơn giản. Để lấy được tiền hoàn thuế, người nộp thuế sẽ phải trải qua một “ma trận” thủ tục, giấy tờ mà nếu kê khai ra đây sẽ có thể khiến không ít người "chóng mặt" mà bỏ cuộc. Mỗi khi phát sinh khoản khấu trừ thuế, thì người bị khấu trừ cần đề nghị cơ quan chi trả thu nhập, xuất hồ sơ chứng từ khấu trừ thuế.
Như vậy là để có thể lấy lại số tiền vốn là của mình (do không thuộc đối tượng nộp thuế thu nhập nhưng vẫn bị khấu trừ), người dân phải hoàn tất hàng chục loại giấy tờ rắc rối phức tạp Rồi sau đó họ lại phải gửi hồ sơ đến cơ quan thuế, nếu sai sót còn phải bổ sung, sau đó chờ quyết định hoàn thuế rồi mới đi kho bạc rút tiền. Người không rành thủ tục có thể phải thuê người tư vấn, ngoài ra còn chi phí đi lại, cước bưu điện... Quả là quá nhiêu khê, rắc rối và tốn kém, đến mức hầu như không ai làm, chỉ trừ trường hợp số tiền hoàn thuế tương đối lớn
Thực ra để đơn giản hoá thủ tục, tránh phiền hà cho việc khấu trừ rồi lại hoàn thuế, Bộ Tài chính có quy định, nếu cá nhân ước lượng thu nhập trong năm chưa đến mức phải nộp thuế thì chỉ cần làm giấy cam kết, hàng tháng khi trả thu nhập, cơ quan chi trả không khấu trừ thuế. Tuy nhiên, thực tế các đơn vị chi trả thường sợ người lao động khai man thu nhập, khi cơ quan thuế phát hiện truy thu, nên các đơn vị thường làm cách "chắc ăn" là tạm khấu trừ thuế cho tất cả khoản thu nhập trên 500.000 đồng của người lao động. Như vậy, thực tế cơ quan thuế không bao giờ chịu thiệt, vì họ đã sớm nắm "đằng chuôi". Còn người nộp thuế, nếu không biết hoặc không đủ "chịu khó" đi làm thủ tục hoàn thuế thì họ sẽ phải vui vẻ chấp nhận khoản tiền đã tạm khấu trừ nhưng bị mất thật.
+ Vấn đề thứ hai cần nói tới ở đây là theo Thông tư số 84/2008/TT-BTC nêu rõ: “Việc hoàn thuế thu nhập cá nhân chỉ áp dụng đối với những cá nhân đã đăng ký thuế và có mã số thuế”. Nghĩa là những người chưa đăng kí thuế và chưa có mã số thuế không được nhận lại số tiền thuế đã bị khấu trừ, mặc dù đúng ra họ không thuộc diện phải nộp thuế thu nhập. Đây là một quy định vô lý, gây thiệt thòi cho người dân. + Vấn đề thứ ba là liệu chúng ta có nên khấu trừ thuế 10% từ một khoản thu nhập phụ chỉ có 500 nghìn đồng lấy ví dụ đó là số tiền nhuận bút khá là ít ỏi của nhiều bài báo hay không. Điều đó cho thấy giá “chất xám” ở nước ta vốn rẻ mạt. Vậy mà, chế độ thuế hiện hành còn đánh thuế vào số tiền trả nhuận bút vốn rất rẻ mạt ấy thì đúng là một chuyện đáng buồn và không nên. Thủ tục khấu trừ thì rất đơn giản: chỉ cần xem hồ sơ thấy số tiền thù lao, nhuận bút...từ 500.000 đồng trở lên là cơ quan thuế khấu trừ ngay từ 10-20%, thế nhưng thủ tục để nhận lại tiền hoàn thuế thì quả là “thiên nan vạn nan”. Mặt khác, chỉ với số tiền nhuận bút ít ỏi hơn 500.000 đồng/tháng cũng bị khấu trừ thuế, liệu có công bằng hay không? Hiện nay, cơ quan thuế chỉ thu được tiền từ các cơ quan, công sở, doanh nghiệp có hồ sơ, giấy tờ đầy đủ (đối tượng “có tóc”), còn những giao dịch dân sự thiên hình vạn trạng, không có hồ sơ, giấy tờ (đối tượng “trọc đầu”) thì hoàn toàn “ngoài vùng phủ sóng” của cơ quan thuế. Nghĩa là thuế thu nhập cá nhân chỉ mới thu chủ yếu vào đối tượng là đại bộ phận người làm công ăn lương và chi trả qua ngân hàng. Rất nhiều người đóng thuế chân chính, tuân thủ các quy định của pháp luật song cũng không ít đối tượng có thu nhập bên ngoài khá cao nhưng không quản lý được những khoản tiền này để tính thuế. Đây là một trong những vấn đề tồn tại, cách thức quản lý của chúng ta chưa tốt và cần phải hoàn thiện trong thời gian tới. Một nghịch lý nữa là những người lao động có thu nhập từ 500.000 trở lên đã bị khấu trừ thuế, trong khi đó đối tượng được nhận kiều hối thì được miễn thuế thu nhập, dù số tiền có lớn đến mức nào. Từ đó, thiết nghĩ Nhà nước cần xem xét lại những quy định về khấu trừ thuế, xem xét nâng mức trần thu nhập phải khấu trừ, đơn giản hoá thủ tục hoàn thuế để tạo sự công bằng, thuận lợi cho người dân. Không nên thực hiện chính sách kiểu “nắm thằng có tóc”, “thà khấu trừ nhầm còn hơn bỏ sót”, đẩy cái khó và sự thiệt thòi về phía người dân. Và bây giờ là lúc chúng ta hãy cùng nhau nhìn và điểm lại một trong số những sự kiện lớn liên quan đến thuế thu nhập cá nhân. Để tìm ra câu trả lời rằng liệu chính sách thuế thu nhập cá nhân hiện nay đã công bằng cho tất cả mọi người hay chưa.?
Năm 2006, Cục Thuế TPHCM đã chốt danh sách 10 người đóng thuế thu nhập cao nhất trong năm 2006 với tổng mức thuế đã đóng của “top ten” này là 5,2 tỉ đồng. Đây được cho là sự kiện “bùng nổ” trong ngành thuế, bởi so với hàng trăm ngàn đối tượng nộp thuế TNCN là người VN, mức này... cao chót vót.
Thiếu công bằng...!
Giải thích sự đột biến nói trên là nhờ tinh thần tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế của những người có thu nhập cao đang làm việc cho các đơn vị nước ngoài. Đồng thời, với sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong năm qua cũng có tác động gián tiếp. Cụ thể, các hãng, công ty “mẹ” thường luôn yêu cầu các công ty “con” hoặc Văn Phòng Đại Diện thực hiện chặt chẽ việc kê khai thu nhập và nộp thuế của nhân viên theo quy định của nước sở tại. Nay Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO, thông lệ quốc tế đòi hỏi các thành viên “chung sân” phải thực hiện chính sách thuế chặt chẽ hơn.
Ngành thuế cũng đã nhìn nhận một thực trạng rằng việc kiểm soát và hành thu thuế Thu nhập cá nhân đối với các lao động đang làm việc cho các Văn Phòng Đại Diện nước ngoài trong vài năm gần đây chưa đúng mức. Trong số các Văn Phòng Đại Diện có người đóng thuế thu nhập cao, còn rất nhiều “đại gia” trong các ngành “đỉnh” như dược, bảo hiểm, thực phẩm... vắng bóng! Hiện có khoảng 2.500 Văn Phòng Đại Diện đang hoạt động tại TPHCM. Trong số này, do quy định (tại Nghị định 45/2000/NĐ-CP) về trách nhiệm nộp thuế Thu nhập cá nhân của lao động tại Văn Phòng Đại Diện còn lỏng lẻo nên dẫn tới tình trạng Văn Phòng Đại Diện muốn khai bao nhiêu thì khai.
Sự kiện trên làm lộ diện một thực tế trái khoáy khác, đó là những người có thu nhập cao, chính đáng, ý thức chấp hành quy định thuế tốt, phải đóng thuế cao. Trong khi đó, những người có thu nhập cao khác, như các nhà đầu tư chứng khoán chẳng hạn, lại được miễn trừ theo quy định tại Pháp lệnh Thuế Thu nhập hiện hành. Dù Luật Thuế TNCN tương lai nhắm đến những người chơi chứng khoán (ví dụ, mức thuế đánh vào lợi nhuận chuyển nhượng chứng khoán là 25%) nhưng đến năm 2009 mới có hiệu lực. Như vậy, phải mất ít nhất 2 năm nữa mới tìm được sự công bằng giữa các đối tượng nộp thuế.
Tham khảo thuế thu nhập cá nhân của một số nước:
Các nước đều áp dụng tỷ lệ thu thuế cao đối với người có thu nhập cao nhằm rút bớt khoảng cách giàu nghèo. Ngược lại, các nước cũng chú trọng đến tình trạng kinh tế và gia đình củangười nộp để được miễn giảm.
- Mỹ: Chủ yếu từ người giàu
Thuế thu nhập cá nhân là nguồn thu chủ yếu và quan trọng bảo đảm nguồn tài chính củanước Mỹ. Từ tổng thống cho đến người bình thường đều phải đóng thuế. Để điều chỉnh mứcthu nhập tăng trưởng quá nhanh của tầng lớp giàu có, Mỹ tăng tỷ lệ thu thuế người giàu và giảmthu thuế người nghèo. Nguyên tắc cơ bản để thu thuế là thu nhập càng cao đóng thuế càngnhiều
- Pháp: Thu nhập cao, đóng thuế nhiều
Luật quy định công dân Pháp và những người tạm trú từ sáu tháng trở lên tại nước này (bất luận quốc tịch nào) có chức nghiệp và lợi ích kinh tế tại Pháp đều phải kê khai và đóng thuế.Thu nhập càng cao, tỷ lệ nộp thuế sẽ càng nhiều.
- Singapore: nước có tỷ lệ nộp thuế thấp nhất
Singapore có hệ thống thuế thu nhập cá nhân tương đối hoàn thiện. Mọi công dân trong diệnnộp thuế đều phải kê khai thu nhập với cơ quan thuế trước ngày 15-4 hàng năm như ở Mỹ.Tỷ lệ thuế thu nhập cá nhân của Singapore từ 0% đến 22%,
- Trung Quốc: Sửa luật thuế cân bằng giàu nghèo
Ngày 01/9/2005, luật thuế sửa đổi sẽ chính thức có hiệu lực. Từ nay về sau, người có thu nhập trên 1.500 nhân dân tệ (ba triệu đồng Việt Nam) mới phải đóng thuế thu nhập cá nhân, tăng lên so với mức thu nhập phải đóng thuế trước kia là 800 nhân dân tệ (1,6 triệu đồng ViệtNam). Tỷ lệ đóng thuế cũng sẽ được nâng lên đối với người có mức thu nhập cao, những người giàu ở Trung Quốc đóng thuế thu nhập cá nhân nhẹ nhất thế giới. Việc sửa đổi luật thuế có tác dụng cân bằng khoảng cách giàu nghèo của công dân nước này
(Theo Pháp luật TP.HCM)
MỘT SỐ NHẬN ĐINH VÀ ĐÁNH GIÁ CHUNG THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1. Đánh giá chung:
Luật thuế TNCN ra đời đánh dấu một nỗ lực rất lớn của Nhà nước ta, đã luật hóa được pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã được ấp ủ hơn 17 năm qua. Luật thuế TNCN được chuẩn bị, xây dựng rất kỹ lưỡng, lấy ý kiến của nhân dân từ hơn 3 năm qua. Tuy nhiên, đây cũng là sắc luật gây nhiều tranh cãi nhất từ trước đến nay. Luật thuế TNCN là một sắc thuế quan trọng nhằm tiến tới công bằng xã hội khi nó đảm bảo cho mọi người bình đẳng về nghĩa vụ đối với đất nước và tạo điều kiện cho mọi người tự giác đóng thuế để tăng ngân sách nhà nước, củng cố an ninh - quốc phòng, tăng cường an sinh xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế. Tuy nhiên, Luật thuế TNCN cũng còn có những rào cản và sự phức tạp, chưa phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Các nhà soạn luật cần tính toán và điều chỉnh lại cho phù hợp, nhằm tăng tính khả thi của luật, thu hút sự đồng tình ủng hộ của mọi thành phần trongxã hội để họ tự nguyện kê khai và nộp thuế, đảm bảo sự công bằng xã hội, an sinh xã hội.
Và nếu bạn là một người làm công ăn lương và cũng là người phụ nữ đảm nhận công việc gia đình, tôi hiểu và chia sẻ những khó khăn chung của bạn khi mà mỗi lần đi chợ thấy giá cả nhiều mặt hàng tăng cao. Gia đình nào cũng bị ảnh hưởng, giá điện tăng, tiền chi hàng tháng phải trả cao hơn, giá xăng tăng, đi lại cũng bị đắt đỏ hơn. Mặc dù, chính sách thuế thu nhập cá nhân vẫn còn nhiều điểm bất hợp lí nhưng dù thế nào đi nữa nếu đứng trên bình diện khách quan mà nói thì chúng ta cần phải xét dưới nhiều góc độ ngân sách Nhà nước cần phải chi nhiều cho phúc lợi xã hội, hỗ trợ người nghèo, mỗi người cần chung tay góp sức. Những đối tượng gặp khó khăn đã được chúng ta miễn thuế rồi. Các đối tượng còn lại là những người có thu nhập cao nên chúng ta cần kêu gọi họ đóng thuế để chung tay cùng với Chính phủ tăng thu ngân sách. Thuế là nghĩa vụ của mọi công dân, mỗi người đóng góp một ít sẽ góp phần nào đó để chung tay xây dựng đất nước. Cần phải đặt ngân sách Nhà nước với người dân, tất cả các khoản chi tiêu hiện nay đều đặt gánh nặng lên ngân sách Nhà nước. Càng lạm phát thì càng cần phải xử lý các vấn đề đối với bà con vùng sâu, vùng xa, những vùng gặp khó khăn... Những khoản chi lấy từ đâu, lấy từ ngân sách mà Thuế là một trong số nguồn đó. Nói chung là người dân ai cũng muốn được miễn giảm gia cảnh, bớt phải đóng thuế tuy nhiên, trong bối cảnh khó khăn chung thì ngân sách Nhà nước cũng rất cần được chia sẻ.
Bên cạnh đó để Luật Thuế TNCN nhanh chóng đi vào cuộc sống một cách thuận lợi và đạt hiệu quả cao thì công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về thuế TNCN phải đặt lên hàng đầu.để luật thuế đi vào cuộc sống một cách nhanh chóng, tạo sự đồng thuận của nhân dân và phát huy hiệu quả cao. Đây là công việc mà ngành thuế không thể tự thân vận động, cần phải có sự tham gia của cả hệ thống chính trị, để tạo tiếng nói chung, đặc biệt là vai trò tiên phong của các cơ quan thông tin đại chúng là rất quan trọng; các cấp chính quyền và các tổ chức đoàn thể phải hưởng ứng tích cực trong việc vận động nhân dân và thành viên của tổ chức mình. Với ngành thuế, ngoài việc tổ chức các lớp tập huấn cho các cơ quan chi trả thu nhập, người kinh doanh, Cục Thuế đã in 4.500 tập tài liệu hướng dẫn về luật thuế này để cung cấp cho các cơ quan, đơn vị trên toàn tỉnh và sẽ cung cấp các tờ rơi tuyên truyền vận động thực hiện luật thuế này.
Ngành thuế cũng đã, đang và sẽ tiếp tục phối hợp tốt với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy để đưa nội dung của luật đến tận cấp ủy cơ sở đảng. Các chuyên mục “Tìm hiểu về thuế TNCN” phải nâng cao hơn hình thức và chất lượng tuyên truyền; cập nhật các văn bản, tài liệu có liên quan đến lĩnh vực thuế TNCN đăng tải kịp thời trên website của UBND tỉnh; chỉ đạo các chi cục thuế phối hợp các đài truyền thanh phát lại truyền hình các huyện, thành phố tuyên truyền sâu rộng về luật thuế này. Đồng thời, phát huy vai trò trách nhiệm của Hội đồng Tư vấn thuế xã, phường, thị trấn trong công tác tuyên truyền vận động nhân dân. Tiếp tục phối hợp với các sở, ban ngành các đơn vị liên quan tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về thuế TNCN trong cán bộ công nhân viên chức người lao động và học sinh, sinh viên trên địa bàn tỉnh.
Cần xây dựng cơ sở hạ tầng về kinh tế, xã hội của nước ta tiên tiến, phù hợp với chuẩnquốc tế. Xây dựng cơ sở pháp lý về thanh toán, kiểm soát nguồn thu đồng bộ, hiện đại hóa hệthống ngân hàng, ràng buộc mọi người, mọi tổ chức thanh toán, chuyển tiền qua hệ thống ngânhàng nhằm kiểm soát được thu nhập của cá nhân, tổ chức, từ đó mới có cơ sở để đánh thuếTNCN, đảm bảo tính công bằng trong việc thu nộp thuế.- Nâng mức khởi điểm bắt đầu phải chịu thuế thu nhập cá nhân lên 7 triệu đồng/tháng chongười nộp thuế, giảm trừ thêm cho mỗi người phụ thuộc 2,8 triệu đồng/tháng nhằm đảm bảocho người dân có cơ hội tích lũy, có thêm thu nhập để chi phí học tập thêm, tham gia các nhucầu giải trí, du lịch và đặc biệt là trang trải các khoản chi phí lớn hàng chục triệu đồng cũng nhưcơ hội tích luỹ để mua nhà.
Cần xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội tiên tiến, xây dựng cơ sở pháp lý phù hợp, xâydựng đề án hạn chế dùng tiền mặt của người dân.... Tuyên truyền người dân hạn chế sử dụngtiền mặt trong sinh hoạt.- Khi nền kinh tế ổn định, mức sống của người dân cao, trình độ dân trí, ý thức trách nhiệm,nghĩa vụ của người dân về thuế được nâng cao, khi đó sẽ áp dụng các mức thu thuế lũy tiến cao.
PHẦN V:
KẾT QUẢ VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỀ RA CHO HỆ THỐNG THUỂ THU NHẬP CÁ NHÂN CỦA VIỆT NAM
Kết quả về kinh tế:
Hiện nay hơn 180 nước đã áp dụng thuế TNCN. Theo xu hướng phát triển của thế giới thì thuế thu nhập chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong tổng số thu ngân sách. Đặc biẹt là các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Anh, Pháp…có tỉ trọng thuế thu nhập chiếm khoảng 30-40% tổng thu ngân sách, số còn lại từ thuế giá trị gia tăng. Một số nươc trong khối ASEAN như Thái lan, Malaysia, Philippin thuế TNCN chiếm khoảng 13-14% tổng thu ngân sách Nhà nước. Họ không trông chờ vào thuế nhập khẩu và thuế thu nhập doanh nghiệp như ở nước ta. Nhờ đó họ dễ áp dụng những chính sách ưu đãi khác nhau cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho họ ăn nên làm ra. Khi ấy họ sẽ tăng lương cho người lao động, người sau sẽ đóng thuế nhiều hơn. Các chính phủ ấy có phương tiện tác động làm cho nền kinh tế quốc dân phát triển. Trong khi đó ở VN số thu từ thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao chỉ chiếm khoảng 4% tổng thu ngân sách. Mặc dù tỉ lệ thuế thu nhập cá nhân trên ngân sách nhà nước qua các năm có tăng, nhưng nhìn chung, tốc độ tăng còn chậm và vẫn chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng thu ngân sách nhà nước ( từ năm 2005 đến 2010, tỉ lệ thuế TNCN trên tổng thu ngân sách chỉ tăng 2.5% )
Ta có thể thấy được điều đó khi nhìn vào bảng số liệu sau:
Bảng : Thu thuế TNCN ở VN từ 2005-2010
Đơn vị:Tỉ VNĐ
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Tổng thu ngân sách
228287
279472
315915
416783
442340
528100
Thuế TNCN
4234
5179
7422
12940
14392
23361
% thuế TNCN tên tổng thu ngân sách
1.85
1.85
2.35
3.1
3.25
4.42
Kết quả về xã hội:
Sắc thuế đã góp phần phân phối lại thu nhập từ những người có thu nhập quá cao trong xã hội, chuyển vào ngân sách nhà nước rồi thông qua đó sử dụng vào các chương trình kinh tế nhằm mục tiêu phát triển chung, đồng thời cũng nhằm thực hiện các chương trình hỗ trợ người nghèo. Tiền thuế của dân nộp vào ngân sách nhà nước, sẽ được Nhà nước dùng vào những việc như đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, an sinh xã hội, giáo dục, y tế, an ninh trật tự, quốc phòng và đó là những lợi ích mà người dân được hưởng nói chung.Đây là một mức đóng góp không nhỏ, rõ ràng nhờ sắc thuế này mà sự phân phối của cải trong xã hội sẽ được thực hiện một cách hiệu quả và chính xác hơn, đem lại tổng lợi ích lớn nhất cho xã hội. Nếu như không có sắc thuế này thì chắc chắn 1 khoản tiển lớn sẽ không được dùng hoàn toàn cho mục tiêu phát triển chung của xã hội, mà thay vào đó có thể là các hoạt động tiêu dùng cho một nhóm cá nhân trong xã hội.. Bên cạnh đó ta có thể thấy rằng việc ra đời sắc thuế này cũng giúp cho người dân phần nào hiểu hơn và làm quen dần với thuế TNCN. Điều đó có thể minh chứng cho số đơn vị chi trả thu nhập tăng lên không ngừng, đồng thời số đối tượng nộp thuế cũng tăng lên đáng kể. Bằng chứng là hiện nay, trên 7 triệu người thuộc diện phải nộp thuế TNCN. Với việc sắc thuế này càng ngày càng mang tính xã hội hơn, ta có thể khắng định một điều dù ít hay nhiều thì sắc thuế này cũng góp phần vào việc phân phối lại của cải và công bằng trong xã hội, giúp giảm bớt phần nào sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội.
Kết quả đạt được trong 20 năm thực hiện thuế TNCN đối với người có thu nhập cao thực sự đã đạt được những kết quả khả quan.
Những bất cập, thiếu sót trong Luật thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam:
Tuy có được rất nhiều những bước tiến bộ trong thời gian qua nhưng thuế TNCN ở VN ta vẫn còn bộc lộ những thiếu sót đáng băn khoăn và lo ngại.
Về biểu thuế và cách tính thuế:
Với nội dung quy định trong Pháp lệnh và Thông tư như trên ta có thể thấy một số điểm như sau:
- Thứ nhất, việc động viên thuế thu nhập cá nhân được thực hiện thông qua 3 sắc thuế: Thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng đối với cá nhân kinh doanh, thuế thu nhập đối với người co thu nhập cao từ tiền lương, tiền công; thuế chuyển quỳên sử dụng đất đối với người có thu nhập từ chuyển quỳên sử dụng đất. Việc áp dụng này đem đến bất cập là chưa bình đẳng về nghĩa vụ nộp thuế. Vì cùng là thu nhập của cá nhân nhưng thu nhập từ kinh doanh không được trừ khởi điểm mà nộp theo mức 28% trong khi thu nhập từ tiền lương trên mức khởi điểm 5 triệu đồng mỗi tháng mới phải nộp tuế và chịu thuế suất luỹ tiến từng phần từ 10% đến 40%.
- Thứ hai, việc phân chia thu nhập chịu thuế thành 2 loại thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên không chỉ dẫn đến sự mất công bằng mà còn tạo điều kiện cho các đối tượng dựa vào đó mà trốn thuế hay biến tấu hình thức thu nhập. Xét trên quan điểm đánh thuế thu nhập thì chúng ta nên xem xét mọi đồng tiền chịu thuế đều là như nhau, những ưu đãi đối với từng hoạt động tạo thu nhập nên được thực hiện tách rời với hoạt động tính thuế thu nhập.
- Thứ ba, đối với thuế thu nhập thường xuyên chỉ có một biểu suất thuế chung cho tất cả các đối tượng. Không phân biệt hoàn cảnh gia đình và bản thân cá nhân đó. Khi xây dựng biểu thuế người ta phải quan tâm đến tính công bằng của biểu thuế, nó ngoài việc huy động nguồn thu cho NSNN thì còn phải quan tâm đến sau khi thu thuế thì người đó và gia đình sống ra sao.
- Thứ tư, việc phân chia ra làm biểu thuế áp dụng đối với người nước ngoài và với người Việt Nam còn nhiều ý kiến khác nhau. Nhiều bài báo đã viết về vấn đề này, đa số là muốn duy trì một biểu thuế. Tuy nhiên, do thu nhập ở nước ta còn thấp hơn so với thu nhập ở nước ngoài nên không thể lấy thu nhập của người Việt Nam hay thu nhập của người nước ngoài làm chuẩn mực để xây dựng một biểu thuế. Do đó việc xây dựng một biểu thuế thống nhất tại thời điểm hiện tại là chưa có tính khả thi.
- Thứ năm, là về mức thuế suất của nước ta hiện nay. Khoảng cách giữa các bậc thuế suất đều bằng 10% do đó mức điều tiết đối với những người có thu nhập càng cao thì càng lớn. Việc này chỉ làm cho người nộp thuế tìm đủ cách để trốn thuế. Đồng thời nếu chúng ta để mức thu nhập khởi điểm tính thuế và mức thu nhập chịu thuế cao nhất cao như hiện nay thì thuế suất thực sẽ khác xa rất nhiều so với thuế suất cao nên phạm vi đánh thuế sẽ bị thu hẹp lại. Như vậy chính sách thuế thu nhập ở nước ta vẫn chưa mang tính chất chung của xã hội mà mới chỉ là gói gọn trong một nhóm người đặc biệt không đảm bảo được tính công bằng xã hội.
- Thứ sáu, việc đánh thuế thu nhập bổ sung đối với người có thu nhập trên 15triệu đồng sau khi đã nộp thuế là quá gò ép đối với những người có thu nhập cao. Nó gây cho họ tâm lý là Nhà nước không muốn cho họ giàu và tìm cách giới hạn một mức thu nhập mà họ có thể nhận được. Đây cũng là một vấn đề mà các nhà làm luật cần xem xét tỉ mỉ luật thuế thu nhập cá nhân trong thời gian tới.
- Thứ bảy, với một mức đánh thuế khởi điểm cố định không hề được thay đổi qua nhiều năm dù cho nền kinh tế có nhiều biến động, lạm phát tăng cao làm cho giá cả leo thang. Ngoài ra, trong tình trạng giá cả leo thang và lạm phát như hiện nay, thì dường như mức áp dụng thuể thu nhập cá nhân vẫn còn nhiểu chỗ chưa hợp lý. Mức thu nhập khởi điểm chịu thuế cố định khiến cho nó không còn phù hợp với tình hình biến động nhanh chóng của thị trường, cũng như mức giảm trừ cho người phụ thuộc cứng nhắc và thiếu thực tế trở nên quá ít so với mức tiêu dùng thực sự. Chính vì thế, mặc dù thuế thu nhập cá nhân không tăng nhưng lại khiến cho đời sống người dân ngày càng khó khăn trong tình hình “ mọi thứ đều tăng giá” như hiện nay. Cộng thêm việc chưa nắm được tầm quan trọng của sắc thuế và thiểu ý thức quốc gia cộng đồng khiến cho nhiều người vẫn còn suy nghĩ muốn trốn thuế.
- Cuối cùng là vấn đề về diện bao quát của cơ sơ thuế. Các khoản thu nhập từ kinh doanh cá thể hay của doanh nghiệp tư nhân, các khoản thu nhập từ lãi cho vay, lãi đầu tư và một loạt các khoản thu nhập khác hiện nay chưa được đưa vào thu nhập chịu thuế. Ngoài ra các khoản thu nhập từ lãi vay, đầu tư chứng khoán, trái phiếu… chưa được đưa vào thu nhập chịu thuế. Đây là một vấn đề còn chưa được hợp lý trong luật.
Về bộ máy tổ chức quản lý thu thuế:
Mặc dù số thuế thu nhập cá nhân đã được tăng đáng kể trong thời gian qua nhưng nó chưa thực sự phản ánh được khả năng đóng góp của toàn bộ xã hội. Nguyên nhân dẫn đến điều này là:
Nếu xét về vai trò của thuế thu nhập cá nhân. Ngoài chức năng là huy động nguồn thu cho NSNN thì nó chưa thể hiện rõ nét các chức năng khác. Mặc dù tăng trưởng kinh tế trong mấy năm qua luôn ở mức cao, nhưng do xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta còn thấp, GDP/người của nước ta còn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới vì vậy mức độ đóng góp vào NSNN vẫn còn rất thấp. Chúng ta mới chỉ tăng về giá trị tuyệt đối, còn khi đem so sánh tương đối thì sự gia tăng vẫn là không đáng kể. Vai trò làm công cụ trong chính sách tài khoá của chính phủ, làm tăng tỷ lệ tiết kiệm quốc gia và tạo công bằng xã hội của thuế thu nhập cá nhân chưa đạt được hiệu quả cao.
Nếu xét về việc thực hiện thuế thu nhập cá nhân. Do người có thu nhập cao chưa thực hiện nghiêm chỉnh, nên mặt quản lý thu nhập của các đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân vấp phải nhiều khó khăn. Rất nhiều khoản thu nhập của dân cư mà Nhà nước chưa xác định được và cũng chưa đề ra được biện pháp quản lý thích hợp.
Xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan trên mà công tác quản lý thu thuế hiện nay đang nảy sinh nhiều bất cập như sau:
→ Thu nhập của rất nhiều ngành nghề như giảng dạy, ca hát, luật sư, môi giới chưa được cơ quan thuế quản lý. Hiện nay Nhà nước và các cơ quan thuế chưa thực hiện giám sát các hoạt động một cách chặt chẽ do đó các đối tượng đều hầu hết không kê khai các khoản thu nhập này khi tính thuế. Cơ quan thuế thường uỷ nhiệm cho các Sở Thương mại, Văn hoá thông tin, Lao động… và ban ngành có trách nhiệm quản lý các đối tượng này làm nhiệm vụ khấu trừ thuế. Nhưng do không chuyên sâu trong lĩnh vực quản lý thuế đồng thời các hình thức chi trả cho hoạt động uỷ nhiệm này cũng không có sức hấp dẫn để các cơ quan làm nhiệm vụ uỷ nhiệm thu nhiệt tình trong công tác quản lý thu nhập của người lao động do ngành mình quản lý. Về phía các cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế cũng chưa nhận thức đầy đủ nghĩa vụ kê khai và nộp thuế thu nhập. Các khoản thu nhập đóng góp phần chủ yếu vào thu nhập không phải là từ tiền lương mà lại là từ tiền thưởng và bổng lộc khác không mang tính đều đặn càng gây khó khăn cho cơ quan thuế trong việc giám sát kiểm tra. Từ đó có thể thấy rằng con số thuế thu nhập cá nhân theo tính toán vẫn chưa phản ánh đúng khả năng đóng góp của thuế thu nhập cá nhân đối với NSNN.
→ Các đối tượng là người nước ngoài và người lao động Việt Nam làm trong các doanh nghiệp nước ngoài hay các văn phòng đại diện cũng chưa được quản lý một cách đầy đủ. Nguyên nhân của vấn đề này là hiện nay các văn bản pháp luật để quản lý về cư trú và những khai báo về thu nhập cũng như người lao động ở các văn phòng đại diện, các chi nhánh nước ngoài còn hết sức sơ sài và thiếu chặt chẽ. Vì vậy, cơ quan thuế rất khó khăn trong việc quản lý số đối tượng này, và tất yếu là một số lượng đáng kể các cá nhân đã trốn không phải nộp thuế. Đối với các cá nhân làm việc trong cơ quan sản xuất kinh doanh có đăng ký kê khai nộp thuế thu nhập cá nhân cho lao động của cơ sở mình thì cơ quan thuế cũng chưa kiểm tra được mà chủ yếu vẫn dựa vào tờ khai báo của các đơn vị uỷ nhiệm thu. Đối với các đơn vị chi trả thu nhập mà không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp hay VAT thì việc uỷ nhiệm thu gần như không được thực hiện, các đối tuợng thì không tự giác trực tiếp đến cơ quan thuế để kê khai nộp thuế.
→ Quá nhiều giấy tờ, thủ tục
Bộ máy thu thuế TNCN được tổ chức còn thiểu chặt chẽ mà lại quá rườm ra, thủ tục giấy tờ quá nhiều, lại có quá nhiều công đoạn khiến cho bộ máy thu thuế trở nên nặng nề mà lại hoạt động kém hiệu quả, gây thất thoát và hao phí NSNN. Chỉ riêng giảm trừ gia cảnh, những quy định cũng đã làm "ù tai, hoa mắt" bởi có quá nhiều loại giấy tờ, thủ tục, hồ sơ mà người nộp thuế cần phải thực hiện và đáp ứng yêu cầu của cơ quan quản lý thuế. Ví dụ trường hợp người nộp thuế có con theo học và là người phụ thuộc thì đã cần: Giấy khai sinh, giấy xác nhận của trường hoặc bản chứng thực thẻ sinh viên, biên lai thu học phí hoặc chứng từ nộp khoản chi phí tiền học, tiền sinh hoạt phí có niên độ phù hợp với năm tính thuế. Ví dụ, người nộp thuế có con tàn tật thì ngoài giấy khai sinh, người nộp thuế còn phải "đưa con lên trung tâm giám định y khoa tận tỉnh, thành phố" để khám, xác nhận về mức độ tàn tật không có khả năng lao động.
Nếu theo hướng dẫn, một người nộp thuế có 2 con đang học, cháu tàn tật không nơi nương tựa, bố mẹ già, vợ thu nhập thấp thì cần 30 loại giấy tờ...
Song có lẽ sẽ là "rủi ro" nếu như người nộp thuế được hoàn thuế. Đến đây, lại một núi công việc, giấy tờ gồm: Đơn xin hoàn thuế, bản photocopy giấy chứng minh nhân dân, tờ khai quyết toán thuế, các chứng từ khấu trừ thuế, biên lai thu thuế, chứng từ xác định tình trạng kết thúc thời gian làm việc, quyết định thôi việc, bản thanh lý hợp đồng lao động... Luật gia Hữu Dung nhận xét: Nếu một người nộp thuế phải tham gia tất cả quy trình trên thì có lẽ "cả năm chỉ đi lo thủ tục thuế".
→ Chưa có một bộ phận thuế chuyên trách trong lĩnh vực thu thuế thu nhập cá nhân. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh thì họ kê khai đồng thời với các loại thuế khác. Việc thu thuế thông qua cơ quan uỷ nhiệm thu thì chưa được thực hiện nghiêm túc do bản thân cơ quan uỷ nhiệm thu chưa nhận thức được hết trách nhiệm của mình, đồng thời cơ quan thuế cũng chưa có những biện pháp khuyến khích hữu hiệu để cơ quan uỷ nhiệm thu nhiệt tình trong công tác này.
→ Quá trình thanh toán ở Việt Nam vẫn chủ yếu là thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt. Chính vì đặc điểm này mà việc kiểm soát thu nhập càng trở nên khó khăn đồng thời nó cũng tạo điều kiện cho việc trốn thuế dễ dàng hơn.
→ Ý thức của người dân về nghĩa vụ nộp thuế kém. Điều này xuất phát từ hai phía, phía cơ quan Nhà nước và phía cá nhân nộp thuế. Cơ quan Nhà nước chưa có những biện pháp tuyên truyền giáo dục đối với người dân về ý thức trách nhiệm nộp thuế. Cả những cơ quan chi trả nhièu khi cũng cố tình làm lờ đi và không thực hiện nghĩa vụ khấu trừ thuế tại nguồn. Còn về phía người có nghĩa vụ nộp thuế, do luật pháp chưa có những chế tài nghiêm khắc, đồng thời do trình độ dân trí còn thấp nên họ không hề có ý thức trong việc kê khai và nộp thuế.
Do tất cả những yếu tố này nên số thu từ thuế thu nhập cá nhân được báo cáo hàng năm vẫn chưa phản ánh đúng thực chất về khả năng nộp thuế thu nhập của nước ta. Con số đó có thể lớn hơn nhiều nếu như công tác kê khai và thu nộp thuế được thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ.
Một số biện pháp khắc phục:
Khắc phục về phân chia các loại thu nhập phải chịu thuế
Tất cả thu nhập từ các hoạt động đầu tư vốn, gửi lãi tiết kiệm, các hoạt động kinh doanh cá thể và một số hoạt động khác đều phải được bổ sung vào phạm vi điều tiết của thuế thu nhập cá nhân. Việc bổ sung này góp phần đảm bảo tính công bằng cũng như tăng thu cho NSNN. Chúng ta nên chia thu nhập theo tính chất nguồn hình thành thu nhập.
- Tiền lương, tiền công lao động, tiền thưởng, tiền trợ cấp.
- Thu nhập từ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp.
- Thu nhập từ các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp.
- Thu nhập từ các hoạt động cho thuê nhà đất.
- Thu nhập từ các hoạt động phi thương mại, hành nghề tự do.
- Thu nhập từ chuyển dịch bất động sản, cổ phần, cổ phiếu.
- Thu nhập khác từ lãi tiết kiệm, lãi cổ phần, cổ phiếu, trúng số…
Bên cạnh đó, chúng ta nên tính gộp thành toàn bộ tổng thu nhập thay vì phân biệt và tách riêng ra thành thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên. Điều này sẽ làm đơn giản việc tính thuế hơn, người nộp thuế sẽ chỉ phải kê khai các khoản thu nhập mình nhận được trong năm rồi tính thuế theo một biểu thuế chung duy nhất, đối với cơ quan thuế cũng sẽ bớt một công đoạn phân loại và kiểm tra việc kê khai thuế thu nhập là thu nhập thường xuyên hay không thường xuyên.
Khắc phục về biểu thuế và cách tính thuế
Trước tiên, chúng ta nên xem xét việc xây dựng biểu thuế thu nhập cá nhân với một mức thuế suất, mức thu nhập chịu thuế thu nhập khởi điểm là không. Điều đó có nghĩa là bất cứ ai có thu nhập đều phải có nghĩa vụ nộp thuế theo một tỷ lệ cố định trên tổng thu nhập. Nó dựa vào quan điểm xây dựng một biểu thuế công bằng theo chiều ngang chứ không phải công bằng theo chiều dọc như biểu thuế luỹ tiến. Nó không chỉ tạo tính đơn giản trong chính sách thuế thu nhập cá nhân, không phải theo biểu thuế luỹ tiến phức tạp mà còn giúp chúng ta sử dụng hiệu quả phương pháp khấu trừ thuế tại nguồn. Sự đơn giản trong xây dựng luật thuế cũng là xu hướng chung của thế giới.
Thứ hai, nếu chúng ta vẫn áp dụng theo biểu thuế luỹ tiến như hiện tại thì nên hạ thấp mức khởi điểm chịu thuế xuống đồng thời hạ thấp mức thuế suất khởi điểm xuống. Cơ sở cho ý kién này là việc hạ thấp mức khởi điểm chịu thuế xuống sẽ tăng khả năng bao quát thu nhập của toàn bộ dân cư đồng thời với mức khởi điểm mới sẽ có ảnh hưởng không đáng kể đén thu nhập sau thuế của người lao động. Tuy nhiên, các khoản giảm trừ gia cảnh cần đi sát với thực tế và cần được thay đổi theo tình hình lạm phát của xã hội, giúp cho cuộc sống của người dân không mấy ảnh hưởng sau khi nộp thuế TNCN trong tình trạng hiện nay. Việc này sẽ giúp giảm bớt nhưng trái ngang như thu nhập “ được tính là cao” nhưng lại không đủ để nuôi gia đình.
Thứ ba, chúng ta nên xác định khoảng cách thuế suất biên giữa các bậc thuế cho hợp lý, chúng ta nên mở rộng khoảng cách thuế ở các bậc đầu và thu hẹp ở các bậc cao. Giải thích cho quan điểm này là những người có mức thu nhâp thật cao thi fmột sự gia tăng nhỏ của thuế suất biên cungx tạo ra một sự gia tăng lớn về tiền thuế phải nộp. Nếu luỹ tiến quá cao ngưòi lao dộng sẽ so sánh giữa số thuế họ phải đóng ở bạc trước với số thuế họ phải đóng ở bậc sau, khoảng cách này càng xa thì sẽ khiến họ thấy lao động để tạo thu nhập them của họ đem lại hiệu quả không cao, vì vậy động lực lao động sẽ giảm sút. Đó là điều mà các nhà xây dựng thuế TNCN không muốn. Cụ thể các bậc thuế suất biên là bao nhiêu thì cần có sự nghiên cứu một cách khoa học.
Thứ tư, việc phân biêt biểu thuế suất giữa người Việt Nam và người nước ngoài tại thời điểm hiện tại chúng ta vẫn nên duy trì. Tuy nhiên, chúng ta sẽ cố gắng thu hẹp dần khoảng cách giữa mức khởi điểm chịu thuế và thống nhất một biẻu thuế suất chung, nhưng điều đó còn phụ thuộc vào mức độ phát triẻn của nước ta, phụ thuộc vào thu nhạp trung bình của ngưòi lao động.
Khắc phục về bộ máy tổ chức quản lý thu thuế và thực hiện luật thuế TNCN:
Công tác kê khai, thu nộp thuế: Là một phần vô cùng quan trọng quyết định đến hiệu quả thực hiện của pháp lệnh thuế thu nhập hiện nay nhưng lại tồn tại rất nhiều các bất cập do chưa có biện pháp tổ chức kê khai thực sự khoa học và có hiệu quả. Ngoài phương pháp khấu trừ tại nguồn là cần thiét và quan trọng thì khi tính thuế chúng ta nên đưa về cho các đội thuế ở địa phương cùng đảm nhiệm. Việc kiểm tra tại địa phương sẽ dễ dàng được thực hiện thông qua viẹc căn cứ vào mức sống và mức chi tiêu của các hộ gia đình. Đồng thời, với cách quản lý này cơ quan thuế sẽ xác định chính xác hơn về khả năng thu nhập của các cá nhân thông qua mức sống của gia đình họ. Tính khả thi và hiệu quả của phương pháp này có thể kiểm tra thông qua việc thực hiện thí điểm ở một số khu vực dân cư. Nếu như tỏ ra hiệu quả chúng ta nên áp dụng sớm và rộng rãi.
Quản lý chặt chẽ thu nhập cá nhân của người dân, làm tốt khâu chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về lao động và tiền lương, tiền công thực tế
Chúng ta cần phải hoàn thiện lại hệ thống thu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Chúng ta cần phải xây dựng phòng chuyên trách trong nhiệm vụ quản lý kê khai các doanh nghiệp và các cá nhân thuộc diện nộp thuế thu nhập. Với đội ngũ cán bộ được đào tạo chuyên sâu và chỉ có nhiệm vụ quản lý trong lĩnh vực này sẽ giúp cho việc quản lý được chặt chẽ, đồng bộ và có hiệu quả hơn.
Chúng ta phải có sự phân công trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng. Mỗi cá nhân phải được phân công những công việc cụ thể, chi tiết và sau đó mọi vấn đề liên quan họ sẽ phải chịu trách nhiệm trước cơ quan thuế. Muốn làm được điều này chúng ta cần phải cải cách hành chính bộ máy thuế của nước ta nói riêng và toàn bộ bộ máy hành chính của nước ta hiện nay nói chung.
Chúng ta cần phải thực hiện công tác đăng ký thuế và cấp mã số thuế cho các đối tượng để thuận tiện cho công tác quản lý thu. Sự biến động thu nhập là một điều tương đối phổ biến trong nền kinh tế thị trường, vì vậy nên áp dụng đăng ký cấp mã số thuế căn cứ vào ngành nghề. Trong đó các cán bộ cơ quan nhà nước đều phải có nghĩa vụ kê khai thu nhập hàng năm, các cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm giúp cơ quan thuế trong việc khấu trừ phần thuế thu nhập của cán bộ cơ quan mình.
Quản lý thuế thu nhập cá nhân muốn có hiệu quả thì cần phải thực hiện đồng thời với sự giám sát của cấp cơ sở, các tổ chức quản lý xã hội ở địa phương. Quản lý theo cách này đặc biệt hữu ích trong việc quản lý các cá nhân hành nghề tự do, không có nơi làm ổn định.
Sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ thuế với các cơ quan chức năng khác, với các sở, ban ngành cũng không thể được xem nhẹ. Các cơ quan, sở, ban ngành cần xác định rõ trách nhiệm của mình trong việc phối kết hợp với cơ quan thuế để thực hiện việc quản lý các đối tượng nộp thuế thu nhập.
Chúng ta cần thường xuyên phổ biến, tuyên truyền, vận động và giáo dục về thuế thu nhập cá nhân để mọi đối tượng nộp thuế am hiểu về pháp luật và tự giác thực hiện luật thuế.
Chúng ta cần ban hành những chế tài và quy định về việc xử phạt đối với các trường hợp vi phạm luật thuế. Hiện nay nước ta chưa có Luật tố tụng thuế vụ khiến cho nhiều tổ chức cá nhân coi thường và không thực hiện các quy định trong luật thuế.
Sự phát triển của hệ thống ngân hàng cũng như các biện pháp của Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước nhằm giảm chi tiêu tiền mặt cũng là nhân tố hết sức quan trọng đối với hiệu quả của việc quản lý thu thuế thu nhập của cơ quan thuế. Giảm thanh toán bằng tiền mặt, sử dụng rộng rãi thanh toán qua tài khoản không chỉ phục vụ cho hoạt động quản lý thu nhập của dân cư trong việc kê khai và nộp thuế thu nhập và còn tiết kiệm rất nhiều chi phí cho xã hội.
Việc vận dụng các thành tựu khoa học công nghệ như tin học, công nghệ mạng vào công tác quản lý thu thuế sẽ tạo sự chính xác, nhanh gọn, đơn giản trong việc thu nộp thuế từ đó tạo điều kiện tốt để luật thuế thu nhập cá nhân được thực hiện có hiệu quả.
Chính phủ cần có những chính sách để phát triển mạnh mẽ kinh tế và đời sống của người dân, để thuế thu nhập cá nhân sớm trở thành một nguồn thu quan trọng của Nhà nước.
KẾT LUẬN
Như vậy, qua bài tiểu luận, chúng ta đã đề cập đến một số vấn đề cơ bản về thuế thu nhập cá nhân nói chung và thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam nói riêng.
Trước hết, chúng ta có thể chắc chắn rằng thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế hết sức cần thiết đối với mọi quốc gia. Hầu hết các nước đều phải dựa vào thuế thu nhập, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân, đây là nguồn thu lớn nhất. Hiện nay đã có 180 nước thực hiện thuế thu nhập cá nhân, có nước nguồn thu từ thuế này chiếm tới 45% NSNN.
Ở nước ta, nguồn thu này còn thấp nhưng dần dần cũng phải hướng tới những mục tiêu lớn hơn. Các văn bản quy định về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao được sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế của kinh tế, xã hội.
Tuy nhiên Luật thuế thu nhập cá nhân ở nước ta vẫn chưa phát huy hết vai trò và chức năng của nó. Nguyên nhân là do đời sồng dân cư còn thấp, khả năng huy động nguồn thu từ thu nhập của dân cư không cao, thêm vào đó Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân còn khá mới nên việc áp dụng trong dân cư chưa được rộng rãi. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật hiện nay về thuế thu nhập cá nhân còn một số vấn đề chưa thực sự hợp lý và gây nhiều tranh cãi. Ý thức kê khai, nộp thuế và quá trình thu thuế chưa thực sự hiệu quả, nguyên nhân chủ yếu do các cơ quan chi trả thu nhập chưa thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ khấu trừ phần thuế thu nhập từ thu nhập của người lao động trong đơn vị họ quản lý. Một số ngành nghề như ca sĩ, giáo viên, thiết kế… thu nhập của họ chưa được cơ quan thuế giám sát quản lý. Số người tự giác kê khai và nộp thuế thu nhập cá nhân không nhiều.
Để khắc phục những bất cập và thiếu sót trong pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao chúng ta cần có những sửa đổi một cách đồng bộ trên cả phương diện văn bản pháp luật đặc biệt là trong công tác tổ chức thu nộp thuế thu nhập cá nhân. Một trong những biện pháp hữu hiệu nhất đó là tăng cường hoạt động thanh toán bằng séc và thanh toán thông qua chuyển khoản, hạn chế việc sử dụng tiền mặt trong dân cư.
Trong những năm tới, trước yêu cầu phát triển mạnh mẽ của các thị trường và các thành phần kinh tế, yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, thu nhập của cá nhân sẽ ngày càng đa dạng, việc ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân trên cơ sở thống nhất ba sắc thuế: thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng đối với cá nhân kinh doanh;thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao áp dụng cho người có thu nhập từ tiền lương, tiền công; thuế chuyển quyền sử dụng đất áp dụng đối với người có thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất sẽ góp phần tăng cường công tác kiểm soát, phân phối thu nhập và điều tiết vĩ mô nền kinh tê xã hội hoàn thiện hệ thống chính sách thuế để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới, góp phần đảm bảo tính ổn định và nguồn lực cho NSNN.
Với đề tài “Thuế thu nhập cá nhân và thực trạng ở Việt Nam” em mong muốn thuế thu nhập cá nhân sẽ sớm trở thành một sắc thuế quan trọng trong hệ thống thuế Việt Nam và phát huy hết vai trò và chức năng của nó đối với nền kinh tế và sự công bằng xã hội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thuế thu nhập cá nhân và thực trạng ở Việt Nam.doc