Tiểu luận Quan hệ kinh tế Việt - Mỹ thực trạng và xu hướng phát triển

Cả hai cách này chúng ta đã làm được, đặc biệt chúng ta có khả năng cạnh tranh trực diện, ví dụ: ngành dệt may, giày dép, đồ gỗ. Mấy năm qua, kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ đối với những mặt hàng này mỗi năm chỉ tăng 5-7% nhưng hầu hết các mặt hàng chúng ta xuất khẩu vào Hoa Kỳ đều tăng mạnh, dệt may là trên 20%, giày dép trung bình mỗi năm 40-50%. Như vậy, nếu biết chọn đúng mặt hàng và biết khai thác đúng lợi thế kinh doanh thì chúng ta vẫn có thể cạnh tranh được.

doc99 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3950 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quan hệ kinh tế Việt - Mỹ thực trạng và xu hướng phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình của các nước trong khu vực (không nhỏ hơn 15%) trước 2006 và kéo dài không quá 2020. Điều tiết tỷ giá hối đoái và kiểm soát ngoại hối. Thị trường tiền tệ luôn gắn với thị trường hàng hoá, dịch vụ vì vậy điều tiết tỷ giá sẽ tác động đến tăng trưởng xuất khẩu. Phương pháp điều chỉnh tỷ giá dựa theo phương pháp cân bằng sức mua (Purchasing Power Parity –PPP). Vận dụng phương pháp này sẽ điều chỉnh được tỷ giá sát với sức mua của hai đồng tiền, khắc phục tình trạng định giá đồng nội tệ cao. Cũng cần phải xem xét việc giảm giá đồng nội tệ để trợ giúp xuất khẩu. Đồng Việt Nam được nâng đỡ bởi dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và dòng vốn ODA nên có xu hướng định giá cao. Một số chuyên gia cho rằng cần phải từng bước giảm giá đồng nội tệ để thúc đẩy xuất khẩu và trợ giúp tăng trưởng nhưng tỷ lệ giảm giá đồng nội tệ phải dựa trên cơ sở cân bằng sức mua và ngang bằng lãi suất với thị trường tiền tệ thế giới. Cải thiện được cán cân thương mại, giảm thâm hụt mà không tác động xấu đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và dòng vốn ODA. Cần tiến tới thực hiện hệ thống tỷ giá thả nổi và xoá bỏ biên độ giao động. Cần xây dựng một quan hệ tỷ giá gắn với một “rổ tiền tệ”. Tỷ lệ lạm phát hiện nay rất thấp. Nếu chỉ xem xét chỉ số giá hàng tiêu dùng thì Việt Nam đang giảm phát. Cầu giảm làm cho sản phẩm sản xuất của các doanh nghiệp khó tiêu thụ. Giá một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam thấp gây thua lỗ. Vậy không thể quy định tỷ giá hối đoái chính thức và can thiệp quá sâu vào thị trường ngoại tệ, làm cho sức mua của đồng Việt Nam không theo quan hệ ngang giá sẽ biến tỷ giá thành nhân tố cản trở xuất khẩu. Cùng với điều tiết tỷ giá, cần thay đổi chế độ kiểm soát ngoại hối, chỉ nên hạn chế việc chuyển ngoại hối ra nước ngoài, nên để các doanh nghiệp tự do sử dụng vốn ngoại tệ trong sản xuất kinh doanh. Việt Nam đang khuyến khích tất cả các doanh nghiệp xuất khẩu những mặt hàng mang lại hiệu quả vì vậy phải để cho các doanh nghiệp có quyền sử dụng lượng ngoại tệ mà họ kiếm được. Trước mắt cần bỏ ngay chế độ “kết toán ngoại hối” để giải phóng cho các doanh nghiệp trong hoạt động xuất nhập khẩu. Xây dựng chiến lược phát triển thị trường tổng thể đúng đắn. Cần phát triển hơn nữa mối quan hệ song phương, đa phương giữa Việt Nam với các nước thành viên để nhanh chóng được hưởng chế độ ưu đãi đầy đủ như MFN. Thực hiện tốt các chương trình xúc tiến thương mại và đầu tư. Chủ động đưa ra những chính sách khuyến khích thương mại, đầu tư trong những ngành và sản phẩm mà Mỹ và các nước phát triển khác có lợi thế so sánh. Các chương trình này cần kết hợp với điều kiện mở cửa thị trường và thúc đẩy xuất khẩu cho hàng hoá Việt Nam. Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Công nghiệp và các cơ quan nghiên cứu cần tổ chức một mạng lưới các cơ quan thương mại để nghiên cứu toàn diện, thu thập các thông tin nhằm giúp cho các doanh nghiệp trong nghiên cứu thâm nhập thị trường. Vì các nước phát triển như Mỹ thường có những qui định rất chặt chẽ và phức tạp về thuế, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ… Cần xây dựng cơ sở hạ tầng về pháp lý, kỹ thuật để đảm bảo kiểm định và kiểm soát chất lượng sản phẩm phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Việt Nam cần có chính sách hướng dẫn và khuyến khích các doanh nghiệp từng bước hình thành hệ thống phân phối ở nước ngoài. Cần có các chính sách linh hoạt để tận dụng hệ thống kênh phân phối của các công ty đa quốc gia dưới các hình thức đại lý, nhà phân phối độc quyền sản phẩm Việt Nam. Xây dựng các nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ lực thích ứng với các khu vực thị trường. Định hướng chuyển dịch cơ cấu sản phẩm theo hướng tăng giá trị gia tăng trong giá trị sản phẩm, giảm hàm lượng lao động, tăng hàm lượng công nghệ và kỹ thuật, giảm tỷ lệ đầu vào nhập khẩu, tăng tỷ lệ đầu vào sản xuất nội địa trong những sản phẩm xuất khẩu, nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Không nên tiếp tục khai thác các lợi thế cạnh tranh vốn có mà ưu tiên phát triển ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm của công nghiệp khai khoáng để xuất khẩu như: các ngành công nghiệp nặng chế biến, hoá dầu, công nghiệp hoá chất, sắt thép, xi măng… Phát triển các ngành công nghiệp nhẹ chế biến có giá trị gia tăng xuất khẩu cao, sản xuất các mặt hàng có hàm lượng công nghệ và kỹ thuật cao hơn như ô tô, xe máy, các thiết bị lẻ công nghiệp, các máy động lực, hàng điện tử và tin học. Tiếp tục xuất khẩu những sản phẩm của ngành công nghiệp chỉ sơ qua chế biến nếu đưa vào chế biến có thể không mang lại hiệu quả cao trong thời gian tới như rau quả, hồ tiêu, thuỷ sản, chè… Tăng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có giá trị gia tăng lớn, sử dụng nguyên liệu trong nước, tạo việc làm cho đội ngũ lao động có trình độ không cao và phát huy năng lực của các làng nghề truyền thống, từng bước phát triển công nghiệp nông thôn. Ngành xuất khẩu chủ đạo vẫn là dệt may. Nhưng cần phát triển theo chiều sâu, phải phát triển ngành dệt từ gốc, bao gồm đầu tư nguồn nguyên liệu, công nghệ và kỹ thuật cao, thiết kế mẫu thời trang và vận dụng tốt hơn các công cụ marketing để thâm nhập thị trường nước ngoài. Xây dựng thương hiệu Việt Nam, định hình hình ảnh của thương hiệu đó trên thị trường Mỹ và thế giới. Kết hợp chặt chẽ giữa xuất khẩu và bảo hộ thị trường nội địa Để tạo điều kiện cho hàng hoá và dịch vụ Việt Nam thâm nhập thị trường nước ngoài, hạn ngạch xuất khẩu một số mặt hàng vào thị trường Việt Nam có thể được quy định cho một số đối tác của các quốc gia. Chế độ hạn ngạch hai chiều cũng có thể được vận dụng cho những đối tác có nhu cầu xuất khẩu hàng hoá vào Việt Nam và thị trường quốc gia đó có thể tiêu thụ hàng Việt Nam. Chế độ hoán đổi hạn ngạch (Quota Swap) cũng cần được sớm đưa vào sử dụng. Chế độ hoán đổi hạn ngạch áp dụng cho cả các hình thức thương mại đối lưu. Phát huy đồng bộ các chính sách Chính sách tài chính tiền tệ sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động thanh toán, đưa ra những ưu đãi về thuế quan, có cơ chế điều hành lãi suất thích hợp, thúc đẩy xuất khẩu hạn chế nhập khẩu, điều tiết cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu cho phù hợp. Chính sách phát triển khoa học và công nghệ sẽ nhanh chóng nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu. Góp phần tạo nên cơ sở hạ tầng kỹ thuật và pháp lý phù hợp. Chính sách phát triển nguồn nhân lực sẽ góp phần điều chỉnh nguồn nhân lực từ khu vực có năng suất thấp sang khu vực có năng suất cao, góp phần chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu từ các sản phẩm dùng nhiều lao động, trình độ thấp sang sử dụng lao động có kỹ năng cao hơn. Chính sách phát triển nông thôn sẽ thúc đẩy chuyển hướng các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu, tạo vùng nguyên liệu ổn định cho công nghiệp chế biến xuất khẩu. Phát triển nông nghiệp nông thôn sẽ tạo ra thị trường rộng lớn cho nhập khẩu, cả hàng hoá tư liệu sản xuất lẫn hàng tiêu dùng. Gắn chính sách sản phẩm trong xuất khẩu với chính sách phát triển các ngành công nghiệp trên cơ sở dự báo dung lượng thị trường các nước trong khu vực và thị trường thế giới. Xây dựng một mặt bằng pháp lý cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng chế độ đối xử quốc gia. Xoá bỏ dần những hạn chế về tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài. Điều chỉnh những quy định về lĩnh vực đầu tư có điều kiện tại Nghị định 24/2000NĐ/CP, ngày 30/07/2000 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo hướng xoá bỏ các hạn chế về hình thức đầu tư, trước hết đối với các dự án sản xuất chế tạo hoặc có tỷ lệ xuất khẩu cao; chuyển sang thực hiện các biện pháp ưu đãi, khuyến khích về tài chính thay cho các biện pháp hành chính áp đặt đối với việc xuất khẩu, nội địa hoá, tăng nguồn nguyên liệu trong nước. Tăng cường tính minh bạch và có thể dự đoán trước của luật pháp, chính sách. Sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức, quản lý doanh nghiệp, nhằm phát huy các hình thức đầu tư nước ngoài, khai thông các kênh huy động vốn như cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; cho phép các tập đoàn có nhiều dự án đầu tư tại Việt Nam được áp dụng mô hình công ty mẹ - con, thành lập quỹ đầu tư để điều hành chung và hỗ trợ dự án của họ, ban hành chính sách quy định về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ nhập khẩu và phân phối trong nước để định hướng thu hút FDI vào lĩnh vực này. Xoá bỏ dần những hạn chế về vốn góp và huy động vốn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như cho phép được góp vốn bằng VND có nguồn gốc hợp pháp, loại bỏ yêu cầu về tỷ lệ góp vốn pháp định. Tiến tới loại bỏ quy định về nguyên tắc nhất trí trong hoạt động của doanh nghiệp liên doanh và bỏ quy định bắt buộc Tổng giám đốc hoặc Phó tổng giám đốc thứ nhất của doanh nghiệp liên doanh phải là người Việt Nam. Từng bước thống nhất các quy định về ưu đãi đầu tư và chi phí hoạt động giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư và bảo đảm công nhận thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài. Giải quyết dứt điểm những vướng mắc của nhà đầu tư nước ngoài liên quan đến việc sử dụng đất đai, quản lý ngoại hối, tuyển dụng lao động, chuyển giao công nghệ... không phù hợp với thông lệ quốc tế. Tiếp tục điều chỉnh giá, phí hàng hoá và dịch vụ để nhanh chóng tiến tới cơ bản áp dụng giá phí thống nhất, không phân biệt doanh nghiệp trong nước hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài. Hoàn chỉnh quy trình ban hành các văn bản pháp quy nhằm ngăn chặn việc ban hành các văn bản trái quy định chung hoặc thực hiện không nghiêm các quyết định của Chính phủ về đầu tư nước ngoài, rà soát, bãi bỏ các loại giấy phép con và những quy định không cần thiết. Công khai hoá các quy trình giải quyết thủ tục hành chính, trách nhiệm xử lý của các cơ quan quản lý Nhà nước, ngăn chặn xử lý nghiêm khắc các hiện tượng cửa quyền, sách nhiễu của công chức Nhà nước. Chấm dứt tình trạng kiểm tra tuỳ tiện, hình sự hoá các quan hệ kinh tế, áp dụng các chế tài đối với doanh nghiệp vi phạm pháp luật. Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và ủy ban nhân dân các tỉnh trong việc quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Thống nhất quản lý đội ngũ cán bộ Việt Nam làm tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thông qua cơ chế tuyển chọn, đào tạo, giới thiệu vào làm việc. Có cơ chế chính sách thu hút đội ngũ cán bộ làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trở lại phục vụ trong doanh nghiệp Nhà nước. Đổi mới bổ sung chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, quản lý tại các trường đại học, cao đẳng phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế và đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cho phép thành lập các trường đào tạo công nhân bên cạnh các khu công nghiệp để kịp thời đáp ứng nhu cầu về công nhân kỹ thuật của các doanh nghiệp. Sớm ban hành các văn bản quy định hướng dẫn hoạt động của các tổ chức Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đầu tư thích đáng cho việc phát triển cơ sở hạ tầng. Nhà nước phải thực sự đảm bảo cơ sở hạ tầng đến chân hàng rào doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và thực hiện việc điều tiết, định hướng thu hút đầu tư nước ngoài bằng tăng cường phát triển hạ tầng cơ sở. Có chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển cở sở hạ tầng. Tạo điều kiện giảm chi phí thuê đất và phí hạ tầng cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp. Chính sách về thị trường Đẩy mạnh đàm phán thương mại song phương và đa phương để tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp nhằm mở cửa thị trường mới, để thống nhất hoá các tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật và đàm phán, để lới lỏng các hàng rào phi thuế quan; tăng cường mạnh mẽ công tác thông tin về các thị trường từ tình hình chung cho tới các cơ chế chính sách của các nước, dự báo chiều hướng cung cầu hàng hoá và dịch vụ... tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra nước ngoài khảo sát, tìm kiếm thị trường và bạn hàng xuất khẩu; tăng cường các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, nhất là đầu tư trong các khâu hoàn thiện nông sản, thực phẩm... nghiên cứu thành lập Quỹ xúc tiến thương mại có sự đóng góp của các doanh nghiệp để tiến hành hỗ trợ doanh nghiệp trong các hoạt động hội chợ, trưng bày, triển lãm... áp dụng các biện pháp thưởng, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp mở rộng mặt hàng xuất khẩu, tìm kiếm thị trường mới. Ban hành các văn bản luật mới phù hợp với tình hình thực tế như Luật về tối huệ quốc (MFN) và Luật đối sử quốc gia (NT), Luật cạnh tranh và chống độc quyền, Luật chống bán phá giá và chống trợ cấp, Luật phòng vệ khẩn cấp, Luật chống chuyển giá - một chính sách rất quan trọng đối với việc thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia. Nên khuyến khích các thành phần kinh tế: Nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất hàng mỹ nghệ, trồng lúa, cà phê, rau quả... hàng xuất khẩu được hưởng ưu đãi về thuế theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước và các quy định hiện hành. Cải cách hệ thống ngân hàng Để đáp ứng yêu cầu vốn của các doanh nghiệp để chuyển dịch cơ cấu sản xuất linh hoạt, đáp ứng yêu cầu thị trường ở quy mô lớn hơn. Hợp tác với các ngân hàng Mỹ trong quan hệ vay vốn ngoại tệ, điều tra khách hàng Mỹ, xác nhận L/C, thanh toán quốc tế. Cần hiện đại hoá ngành Ngân hàng, từng bước nâng dần tỷ lệ tín dụng so với GDP nên bằng các nước trong khu vực (tỷ lệ của Việt Nam khoảng hơn 32%, các nước khoảng 50%). Hạ thấp chỉ tiêu về chi phí nghiệp vụ trên tài sản "có" xuống ngang bằng với bình quân khu vực (tỷ lệ này của ngân hàng Thương mại Việt Nam khoảng 9%, các nước trong khu vực 2,5-3%). Tiếp đến là hình thành các thị trường chứng khoán để đáp ứng nhu cầu thu hút vốn trong và ngoài nước; tận dụng các nguồn tài trợ thương mại, nguồn vốn vay của các ngân hàng nước ngoài để cho các doanh nghiệp vay kinh doanh sản xuất và xuất khẩu. Và cuối cùng là lành mạnh hoá hệ thống tài chính tiền tệ, cơ cấu lại các ngân hàng yếu kém, tăng cường tiềm lực tài chính, khả năng cạnh tranh và sức đề kháng của ngân hàng trước những biến động của thị trường trong nước và quốc tế. Tăng cường quản lý Nhà nước về xúc tiến thương mại. Bộ Thương mại và một số bộ ngành có liên quan cần thành lập các nhóm nghiên cứu thị trường Mỹ, tập trung vào các vấn đề như môi trường pháp luật, hàng hoá, kinh doanh, giá cả, phương thức tiếp cận thị trường Mỹ để giúp đỡ các doanh nghiệp Việt Nam . Để vào được thị trường Mỹ, các doanh nghiệp không những phải nắm vững nhu cầu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng và đảm bảo sản phẩm có sức cạnh tranh về chất lượng cũng như giá cả, mà còn phải thông thạo hệ thống pháp luật Mỹ, nắm được hệ thống quản lý xuất nhập khẩu cũng như hạn ngạch của Mỹ. Mỹ có một hệ thống pháp luật về thương mại vô cùng rắc rối và phức tạp. Bộ luật Thương mại (Uniform Commerical Code) được coi như xương sống của hệ thống pháp luật về thương mại. Vì vậy, các doanh nghiệp rất cần những thông tin hỗ trợ này từ phía Nhà nước, đặc biệt các doanh nghiệp chưa xuất khẩu sang thị trường Mỹ lần nào và chuẩn bị thâm nhập thị trường này. Hoạt động xúc tiến thương mại nhằm phát triển sản xuất và xuất khẩu trên cơ sở giảm chi phí về thời gian và tiền của cho các doanh nghiệp, cụ thể gồm các giải pháp sau: Đưa vào Website những thông tin có giá trị thương mại để quảng cáo cho các doanh nghiệp và hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ. Tập hợp các nhu cầu xuất khẩu của Mỹ sang Việt Nam, đảm bảo hàng hoá nhập khẩu là công nghệ tiên tiến và mang lại hiệu quả cao cho phát triển kinh tế đất nước. Tổ chức hội chợ triển lãm theo nhu cầu của các doanh nghiệp Việt Nam và Mỹ muốn thâm nhập thị trường của nhau và chuẩn bị các phương án làm ăn lâu dài sau khi có Quy chế Tối huệ quốc. Tổ chức mạng lưới du lịch Việt Nam - Mỹ một cách có hiệu quả, phục vụ tốt các nhu cầu của giới kinh doanh và du khách, trong đó tổ chức các chuyến đi khảo sát thị trường cho các doanh nghiệp. Thành lập Quỹ xúc tiến thương mại do Nhà nước và doanh nghiệp cùng đóng góp. Quỹ này lập tài khoản riêng không nằm trong ngân sách của Bộ tài chính, chuyên dùng cho mục đích xúc tiến thương mại. Để thúc đẩy xuất khẩu, ngoài các biện pháp và chính sách chung, đối với thị trường Mỹ cần lập hệ thống các trung tâm thương mại tại một số thành phố lớn như NewYork, Los Angeles, San Francisco, Chicago...tạo cầu nối và giảm chi phí giao dịch cho các công ty Việt Nam. Các trung tâm này có thể do Nhà nước ta bảo trợ hoặc kết hợp với các công ty Mỹ và Việt kiều, hoặc kết hợp giữa một số doanh nghiệp mạnh trong nước sang mở các phòng trưng bày, giao dịch giới thiệu và ký hợp đồng. Để hoạt động xúc tiến thương mại gặt hái được thành công, Việt Nam cần tăng cường khả năng tiếp cận với các thông tin thương mại. Chính những thông tin thương mại này cho phép một chuyên gia có thể chuyển một tiềm năng xuất khẩu thành một hoạt động giao dịch kinh doanh thực sự. Đó là thiết lập các mối quan hệ trong kinh doanh, thông tin về các kênh phân phối, hiểu biết về bản chất của cạnh tranh trong nước và nước ngoài và cuối cùng là sở thích của người tiêu dùng. Về vai trò của Đại diện thương mại ở nước ngoài, họ là phương tiện quan trọng tạo điều kiện cho các cơ sở xuất khẩu tiếp cận với những thông tin thương mại. Việt Nam cần tập trung tìm cách tăng cường hệ thống đó. Việc bố trí đội ngũ tuỳ viên thương mại là một hình thức đầu tư tốn kém nhưng không thể không có và chúng ta cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho việc thiết lập các Ban Đại diện thương mại của mình ở nước ngoài. Xác định mặt hàng có lợi thế so sánh, nâng cao khả năng cạnh tranh, xúc tiến thương mại và xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn Xác định các mặt hàng có lợi thế so sánh để quy hoạch và ưu tiên sản xuất đi kèm với kinh doanh dịch vụ, xây dựng cơ cấu đầu tư hợp lý phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế. Chú trọng xuất khẩu những mặt hàng mới phù hợp với nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng của thị trường Mỹ. Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá và doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường Mỹ và thế giới. Thông qua trang thiết bị và hoàn thiện quản lý để nâng cao chất lượng, giảm giá thành và đa dạng hoá mẫu mốt. Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại thông qua việc thiết lập hệ thống các trung tâm thương mại tại các thành phố lớn như New York, Los Angeles, Boston... nhằm tạo cầu nối giảm chi phí giao dịch cho các công ty xuất nhập khẩu trong nước, tăng kim ngạch xuất khẩu. Trung tâm này do Nhà nước đứng ra bảo trợ hoặc kết hợp với các công ty Mỹ và Việt kiều tổ chức. Hai công việc phải làm là:1) Thương vụ sẽ phối hợp với các công ty trong nước tiếp tục hỗ trợ các cuộc toạ đàm hội thảo, phổ biến các chính sách luật lệ thương mại của Mỹ, khảo sát thị trường và tổ chức trưng bày giới thiệu hàng hoá của Việt Nam; 2) Lập hồ sơ về các công ty xuất nhập khẩu của Việt Nam và Mỹ. Mở Website giới thiệu quảng cáo hàng Việt Nam trên mạng Internet. Các doanh nghiệp cần giới thiệu đầy đủ về mặt hàng, gửi cataloge, hàng mẫu cho thương vụ và làm việc cụ thể với thương vụ. Xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn, mở rộng sản xuất và xuất khẩu sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị hiếu khách hàng kiều bào ta ở Mỹ. Bên cạnh mặt hàng truyền thống (như dệt thổ cẩm, đồ đồng đúc, chạm khắc..) cần đẩy mạnh xuất khẩu các đồ hộp, thực phẩm phù hợp với khẩu vị người Việt Nam định cư ở Mỹ. Xu hướng tăng cường xuất khẩu các ngành hàng chủ lực Thực tiễn xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ trong những năm qua cho thấy một số nhóm, mặt hàng đạt kim ngạch khá và tăng đều qua các năm do các doanh nghiệp của ta đã thiết lập được hệ thống các kênh phân phối tương đối ổn định trên thị trường Mỹ và vẫn đảm bảo được nguồn lực để tổ chức sản xuất với chi phí thấp nhằm tận dụng lợi thế so sánh của mình. Để hưởng lợi trực tiếp từ Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, chúng ta cần tổ chức tốt các ngành hàng sau đây là các ngành hàng có triển vọng tốt để thâm nhập thị trường Mỹ: Dệt may, Giày dép, Thuỷ sản, Sành sứ, Mây tre đan, Đồ gỗ và đồ nội thất, Rau quả chế biến, Chè, Hàng cơ khí và kim khí, Gạo, cao su, cà phê, Hàng thêu ren, Đá ốp lát,... Đối với hàng dệt may: Làm ăn với doanh nghiệp Mỹ đòi hỏi các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải tiếp cận với phương thức sản xuất và xuất khẩu FOB. Vì lẽ, hàng dệt may bị ràng buộc bởi điều kiện xuất xứ và tỷ lệ nội địa hoá trên sản phẩm khi xuất khẩu vào thị trường này. Vì vậy, trong thời gian tới, ngành dệt may cần tích cực tìm kiếm thị trường bán hàng thành phẩm FOB và đặc biệt lưu ý đến các hàng hoá với chất lượng bình dân, giá rẻ. Đây sẽ là cơ hội xâm nhập vào thị trường Mỹ. Bên cạnh đó, ngành dệt may Việt Nam cũng phải chịu sức ép của tiến trình hội nhập kinh tế. Đến năm 2004, thị trường EU bãi bỏ hạn ngạch dệt may cho các nước WTO. Vào năm 2006, theo lộ trình của AFTA, chúng ta sẽ xoá bỏ hàng rào thuế quan nhập khẩu. Riêng thị trường Mỹ, sẽ ấn định hạn ngạch dệt may trong thời gian sớm nhất. Trước thách thức đó, ngành dệt may Việt Nam cần tập trung giải quyết 4 vấn đề lớn sau: Một là, xây dựng chương trình đầu tư phát triển cho toàn ngành từ nay đến năm 2010; trong đó tập trung đầu tư cho ngành dệt dưới dạng các cụm công nghiệp nhằm tạo ra nguồn nguyên phụ liệu chất lượng cao cung cấp cho ngành may xuất khẩu. Hai là, kết hợp chương trình đầu tư chiều sâu đối với các doanh nghiệp hiện có với chương trình cổ phần hoá, sắp xếp lại các doanh nghiệp dệt may nhằm từng bước hình thành doanh nghiệp vừa và nhỏ với công nghệ chuyên sâu, phù hợp với trình độ quản lý hiện nay. Ba là, đối với ngành may, do đặc thù vốn đầu tư thấp, công nghệ và lao động không quá phức tạp nên có thể phát triển rộng khắp đến tận các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa trên cơ sở củng cố 4 trung tâm làm hàng xuất khẩu chất lượng cao, đó là Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Bốn là, đổi mới hệ thống quản lý, phương pháp làm việc nhằm nâng cao hiệu quả các cuộc làm việc với các đối tác nước ngoài, đặc biệt là doanh nhân Mỹ trên cơ sở đúng thời hạn giao hàng và ổn định số lượng, chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó là chiến lược dài hạn tăng cường khả năng xuất khẩu các loại bông, sợi hoá học, vải, nguyên phụ liệu trong nước; nâng cao năng lực cũng như quy mô sản xuất của các xí nghiệp may và chất lượng thiết kế mẫu mã, khả năng bán hàng theo phương thức FOB, tham gia hội chợ triển lãm, liên kết mạng lưới bạn hàng trong việc cung ứng nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. Bên cạnh những cố gắng nỗ lực của các doanh nghiệp trong ngành dệt may, Nhà nước vẫn cần hỗ trợ các chính sách về vốn đầu tư, ưu đãi thuế, khuyến khích sản xuất mặt hàng mới. Đối với hàng giày dép Thị trường Mỹ rất coi trọng các tiêu chuẩn về kỹ thuật đòi hỏi chất lượng rất cao. Hàng hoá phải được phía Mỹ kiểm tra rồi mới chấp nhận cho nhập. Việc ký kết Hiệp định thương mại vừa qua, Nhà nước chỉ mới tạo ra hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp, tạo thuận lợi trong quá trình trao đổi thương mại, còn bản thân các doanh nghiệp phải tự lo liệu hết các khâu từ việc tìm đối tác, tìm nhu cầu sản phẩm trên thị trường tới việc thoả thuận giá cả, làm hàng mẫu...Hiện nay, đã có nhiều doanh nghiệp tìm được đối tác và bắt đầu sản xuất hàng mẫu. Một số ít doanh nghiệp da giày có sản phẩm giày xuất khẩu sang thị trường Mỹ hoặc qua đối tác trung gian xuất khẩu sang Mỹ sẽ có điều kiện mở rộng, đẩy mạnh sản xuất và tăng kim ngạch xuất khẩu. Phần lớn các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có điều kiện xuất khẩu số lượng lớn sang Mỹ sẽ giãn bớt ở thị trường EU và trước mắt tạo điều kiện cho số đông các doanh nghiệp của ta duy trì và phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường EU. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp giày Việt Nam sẽ tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị và nâng cao trình độ quản lý, kỹ thuật để tiếp cận và mở rộng thị trường vào Mỹ. Hiện nay, ngành Da giày Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn, đó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước xuất khẩu giày; trong đó đáng chú ý là Trung Quốc. Trình độ kỹ thuật, quản lý sản xuất chưa cao, chi phí lớn làm cho giá thành cao, điều này rất bất lợi khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Phần lớn các doanh nghiệp của ta còn phụ thuộc vào đối tác gia công nên việc thâm nhập thị trường Mỹ chưa chủ động. Đối với số đông các doanh nghiệp, việc hiểu biết các quy định, các luật trong thương trường Mỹ còn ít. Nếu các doanh nghiệp ngành Da giày không nhanh chóng có kế hoạch đầu tư chiều sâu cải tiến mẫu mã, xây dựng công nghệ khuôn đúc cho riêng mình thì e rằng khó có thể thâm nhập được vào thị trường Mỹ khó tính nhưng nhiều triển vọng về lâu dài này. Vì vậy, về lâu dài, đối với sản xuất trong nước cần đẩy mạnh việc chuyển dần từ nhận gia công sang chủ động mua nguyên liệu trong nước để sản xuất hàng xuất khẩu. Nhà nước cần đầu tư xây dựng một số Khu Công nghiệp liên hoàn về ngành thực phẩm và da giày để hỗ trợ nhau và tạo nên hiệu quả kinh tế tối ưu, bao gồm: nhà máy giết mổ, chế biến thức ăn sẵn, chế biến đồ hộp, thuộc da, chế biến sản phẩm da và thiết kế mẫu mốt. Liên doanh với các đối tác nước ngoài nhưng yêu cầu họ phải từng bước chuyển giao công nghệ... Tổng công ty Da giày Việt Nam đã thành lập và hoạt động được một thời gian; bởi vậy, cần đúc rút những kinh nghiệm hoạt động sản xuất kinh doanh và đề ra phương hướng đầu tư phù hợp trong thời gian tới. Tổng công ty Da giày đã và đang đầu tư xây dựng mới từ 2 đến 3 nhà máy sản xuất mũ giày phục vụ sản xuất giày xuất khẩu. Các trường hợp đầu tư mở rộng trong ngành giày nên được hưởng ưu đãi (theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước như đối với đầu tư xây dựng cơ sở mới). Nếu doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để đầu tư thì không bắt buộc phải có vốn tự có tương đương 30% khoản vay. Đề nghị hạ mức này xuống 10% hoặc bãi bỏ hoàn toàn điều kiện này. Ngân hàng sẽ tự thẩm định dự án đầu tư và cho vay dựa trên những tính toán về hiệu quả đầu tư. Đối với hàng thuỷ sản Theo các chuyên gia, để có thể trụ vững ở thị trường Mỹ, các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ hải sản Việt Nam sẽ phải không ngừng nâng cao chất lượng bởi hệ thống kiểm soát chất lượng của Mỹ rất ngặt nghèo, sự cạnh tranh giữa các sản phẩm cùng loại nhập từ nước khác là vô cùng quyết liệt. Về chất lượng, theo quy định của Mỹ, tất cả các sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài vào Mỹ, đặc biệt là các mặt hàng thực phẩm chế biến, trong đó có hàng thuỷ sản, đều phải qua khâu kiểm tra chất lượng rất chặt chẽ của Cơ quan Kiểm soát chất lượng thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA). Mặt khác, riêng đối với mặt hàng thuỷ sản, Mỹ chỉ áp dụng tiêu chuẩn hệ thống kiểm soát HACCP (chương trình kiểm soát vệ sinh an toàn chất lượng của riêng nước này), chứ không chấp nhận bất cứ một tiêu chuẩn nào khác, kể cả tiêu chuẩn kiểm tra chất lượng được coi là rất khắt khe của Liên minh Châu âu (EU). Chính vì vậy, hiện chỉ có 25 doanh nghiệp Việt Nam xây dựng được tiêu chuẩn chế biến thủy, hải sản theo chương trình HACCP có thể xuất sang thị trường Mỹ, trong khi đó có rất nhiều doanh nghiệp khác mặc dù đã được EU đưa vào danh sách nhóm 1 (được xuất trực tiếp sản phẩm thuỷ hải sản sang toàn bộ 15 nước EU mà không cần kiểm tra), nhưng vẫn không được thị trường này chấp nhận. Ngay cả khi đặt chân vào thị trường Mỹ, hàng Việt Nam vẫn phải cạnh tranh quyết liệt với rất nhiều sản phẩm của các nước khác như Thái Lan và các nước AESAN khác cùng có mặt trên thị trường này. Theo một số doanh nghiệp đã và đang có mặt trên thị trường Mỹ, nếu xét về chất lượng, hàng thuỷ, hải sản của Việt Nam hoàn toàn không thua kém so với các nước khác, song do phải chịu thuế suất đầu vào cao (20- 40%), nên giá thành bị đội lên quá cao, khiến sức cạnh tranh của hàng Việt Nam bị giảm đáng kể. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải xây dựng cho được tiêu chuẩn hệ thống kiểm soát chất lượng theo chương trình HACCP. Nhưng đó mới là “ tiêu chuẩn đầu vào”. Điều quan trọng là các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tìm hiểu đầy đủ các thông tin về thị trường cũng như thị hiếu của khách hàng Mỹ, trên cơ sở đó xuất những mặt hàng vừa có lợi thế so sánh cao so với các nước khác, vừa được người tiêu dùng chấp nhận để duy trì khả năng cạnh tranh của mình. Bộ Thuỷ sản và các doanh nghiệp thuộc Hiệp hội chế biến thuỷ sản đã xác định rõ là để đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản, trước hết phải nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm, đồng thời phải tăng cường xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường. Ngành thuỷ sản đã sớm đi đầu trong việc xây dựng và áp dụng các hệ thống mới về quản lý chất lượng sản phẩm như để từng bước thay thế các phương thức kiểm soát chất lượng truyền thống. Từ năm 1991, thuỷ sản Việt Nam đã tiếp cận với hệ quản lý chất lượng của Mỹ đối với hàng thuỷ sản và coi đây là một trong những điều kiện quan trọng nhất để đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang các thị trường lớn và khó tính như Mỹ, EU. Cụ thể, Bộ thuỷ sản đã có quy định là từ ngày 1/1/2000, tất cả các cơ sở chế biến thuỷ sản trong nước bắt buộc phải áp dụng các tiêu chuẩn này. Ngoài các mặt hàng truyền thống như đã nêu trên, khả năng xuất khẩu phần mềm máy tính hay những phần mềm cho thương mại điện tử cũng là mặt hàng có nhiều triển vọng mà ta với Mỹ có những tương đồng phù hợp lợi ích cả hai bên. Nhà nước cần có các biện pháp mạnh mẽ khuyến khích các công ty Việt Nam sang Mỹ tiếp cận thị trường trong lĩnh vực này. Thị phần của thương mại điện tử ở Mỹ đang trên đà tăng trưởng mạnh và trong một số năm tới có thể lên đến hàng ngàn tỷ USD mỗi năm. Hàng cà phê Thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng đối với những vùng cà phê có năng suất hiệu quả kém. Các biện pháp này sẽ góp phần ổn định nguồn cung qua đó ổn định thị trường và giúp cà phê phục hồi. Đồng thời đề nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ thoả đáng về tài chính, tín dụng, kỹ thuật, thuỷ lợi... đối với công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đưa một số diện tích cà phê sang các cây trồng khác theo quy hoạch trên địa bàn Tây Nguyên. Giảm diện tích cà phê vối tăng diện tích cà phê chè. Đề nghị Nhà nước xem xét tiếp tục cho phép thực hiện những biện pháp hỗ trợ trực tiếp cho người sản xuất như miễn giảm thuế sử dụng đất, giảm thuế nhập khẩu phân bón và thuốc bảo vệ thực vật, tiếp tục chính sách thưởng theo kim ngạch xuất khẩu.Về chất lượng, chú trọng từ khâu giống cho tới quy trình chăm sóc, thu hái và chế biến, bảo quản để nâng cao chất lượng cà phê, qua đó nâng giá trị xuất khẩu trên một đơn vị khối lượng Về sản phẩm, đa dạng hoá các sản phẩm cà phê xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng cà phê chế biến sâu (cà phê hoà tan, rang xay...). Đối với cà phê nhân, cần tăng cường xuất khẩu các loại cà phê không có hạt đen, cà phê chế biến ướt, cà phê hữu cơ để tăng giá trị xuất khẩu. Tăng cường hỗ trợ trong việc cung cấp các thông tin về kỹ thuật và thị trường cho người trồng cà phê: mức cung cầu, tình hình sản xuất, xuất khẩu, thông tin về giá cả trên thế giới. Đổi mới công tác bao bì, mẫu mã, tránh tình trạng cà phê Việt Nam không có nhãn mác nhằm bảo vệ thương hiệu của cà phê Việt Nam. Xây dựng quỹ bảo hiểm cho sản xuất và xuất khẩu cà phê do Hiệp hội ngành hàng phụ trách. Đây là vấn đề mà các nhà kinh tế, các nhà quản lý đã đặt vấn đề từ lâu song chưa được quan tâm đúng mức. Những năm được mùa, giá cà phê cao, xuất khẩu có hiệu quả cao, cần phải trích nộp quỹ bảo hiểm. Quỹ bảo hiểm đó sẽ hỗ trợ những năm mất mùa hoặc giá cà phê xuống quá thấp, sản xuất và xuất khẩu không có hiệu quả. Củng cố và tăng cường hoạt động của Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam để đủ sức tham mưu cho Nhà nưóc, các địa phương, người sản xuất và xuất khẩu trong các lĩnh vực từ sản xuất, chế biến đến xuất khẩu, khắc phục tình trạng tranh mua, tranh xuất vô tổ chức dẫn đến bị ép cấp, dìm giá... Quản lý chặt chẽ các đầu mối xuất khẩu. Khuyến khích các nhà xuất khẩu trực tiếp, các doanh nghiệp chuyên doanh cà phê tham gia xuất khẩu. Hiệp hội cần có sự can thiệp để thống nhất giá bán, không cho phép bất cứ nhà xuất khẩu nào tự phá giá, gây thiệt hại cho toàn ngành. Chè Hoàn thiện quy hoạch tổng thể vùng chè. Trong đó có những vùng chè đặc sản xuất khẩu như chè Thái Nguyên, Nghĩa Lộ, Lâm Đồng, Hà Giang. Quy hoạch vùng chè xuất khẩu phải gắn với nhu cầu thị trường để sản xuất theo nhu cầu thị trường. Đầu tư xây dựng cơ sở chế biến, tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Trồng mới và cải tạo vườn chè cũ. Nâng cấp hiện đại hoá các nhà máy chế biến chè theo tiêu chuẩn quốc tế. Bổ sung và hoàn thiện cơ chế chính sách đối với người trồng chè. Tìm kiếm thị trường và bạn hàng mới. Rau quả Đề nghị Nhà nước có chính sách thưởng theo kim ngạch đối với xuất khẩu rau quả nói chung. Sau khi Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ thực thi, thị trường Mỹ mở ra khả năng mới cho việc xuất khẩu hoa quả hộp, dứa đông lạnh. Bước đầu ngoài việc thưởng theo kim ngạch, để nghị Nhà nước xem xét cho các doanh nghiệp xuất khẩu được vay ưu đãi hoặc hỗ trợ lãi suất. Nghiên cứu hình thành các vùng sản xuất nguyên liệu chuyên canh, đầu tư cho thu hoạch, sau thu hoạch và chế biến, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng mặt hàng... Tóm lại để thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang Mỹ và thị trường thế giới từ nay đến năm 2010 cần phải chú trọng theo hướng: - Nhanh chóng quy hoạch chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng nông sản và khả năng cạnh tranh trong việc xuất khẩu và tiêu thụ sản phẩm. - Đối với những nông sản xuất khẩu chủ yếu có tính cạnh tranh quốc tế gay gắt (lúa gạo, cà phê) phải tính đến diện tích cho phù hợp, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để hạ giá thành, nâng cao chất lượng hàng hoá. - Đối với cây trồng có thị trường xuất khẩu với giá cả như hiện nay, người sản xuất vẫn có lãi hoặc chấp nhận được như cao su, tiêu, điều, chè..., cần giữ vững hoặc phát triển thêm ở vùng có điều kiện. Chính phủ cần có các chính sách hỗ trợ khuyến khích mọi tổ chức, mọi thành phần kinh tế tham gia tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản. Về phía doanh nghiệp Những điều doanh nghiêp Việt Nam cần chú ý khi vào thị trường Mỹ: Tìm hiểu đặc điểm thị trường và nhu cầu khách hàng để đáp ứng hàng hoá đúng chủng loại, tiêu chuẩn của thị trường Không tìm hiểu kỹ thị trường trước khi thâm nhập là lỗi mà các công ty của Việt Nam và ngay cả doanh nghiệp nhiều quốc gia khác thường mắc phải. Do không biết rõ kỳ vọng, mong muốn của khách hàng nên doanh nghiệp khó đáp ứng được yêu cầu. Vì vậy, trước khi bước vào thị trường mới đòi hỏi doanh nghiệp cần phải nghiên cứu thật đầy đủ. Trong khi đó khâu lưu trữ hồ sơ của doanh nghiệp Việt Nam chưa được chú trọng, trong khi đây là điều chứng thực kinh nghiệm về chuyên môn và hoạt động của công ty với các đối tác. Doanh nghiệp phải hoạch định kế hoạch và dự trù trước Trước khi quyết định làm ăn với thị trường Mỹ, doanh nghiệp phải hoạch định kế hoạch và dự trù trước để có thể ứng phó tốt những trường hợp bất khả kháng có thể xảy ra. Cần hiểu rõ mọi vấn đề để khi khách hàng khiếu nại về chất lượng hàng hoá thì có thể nắm bắt được ý muốn của họ là gì. Do vậy, phải kiểm soát tốt các tiêu chuẩn, tiêu chí kỹ thuật nhằm đáp ứng tốt sự hài lòng và nhu cầu cho khách hàng, bằng việc theo dõi quy trình chất lượng. Tại Mỹ, nhằm đảm bảo chất lượng hàng nhập khẩu, một số cơ quan Nhà nước và Liên bang có ban hành các quy định và yêu cầu về chất lượng. Các quy định này ở mỗi Bang khác nhau và ở mỗi ngành lại cũng khác nhau. Do đó, doanh nghiệp kinh doanh ngành hàng nào phải nắm rõ những quy định và yêu cầu của ngành đó. Những quy định này không thể hiện cụ thể trong hợp đồng mà doanh nghiệp ký kết nên không dự đoán được những vấn đề pháp lý. Nếu vi phạm, hậu quả sẽ ảnh hưởng tới rất nhiều công ty nằm giữa các nhà phân phối. Đây là lý do khiến nhà nhập khẩu Mỹ không muốn làm việc với những công ty mới chưa có kinh nghiệm và quy mô nhỏ. Lý do là mỗi lần làm việc với đối tác mới, họ phải phổ biến các luật định của thị trường. Pháp luật, quy định xã hội Ngoài ra, pháp luật, quy định xã hội là yếu tố mà doanh nghiệp phải tuân thủ nếu muốn đưa hàng hóa thâm nhập vào thị trường. Một trong những rào cản ảnh hưởng đến sự thành công khi làm ăn tại Mỹ là ngôn ngữ. Do sự diễn dịch mỗi bên khác nhau nên khó nắm bắt chính xác ý của đối tác. Đồng thời, cần luôn lắng nghe để được đối tác Mỹ cung cấp thêm thông tin, từ đó có điều kiện hiểu rõ hơn những mong muốn của khách hàng. Lỗi các doanh nghiệp thường xuyên mắc phải là luôn giả định hàng hóa của mình sản xuất đáp ứng tiêu chuẩn của quốc gia này thì chắc chắn sẽ đáp ứng yêu cầu của quốc gia khác. Thực tế không phải như vậy do mỗi thị trường yêu cầu cao hơn về yếu tố thiết kế hay những yêu cầu phù hợp cho sự khác biệt về khí hậu có thể tác động đến hàng hóa. Nhà sản xuất phải thoát khỏi quan điểm tự tin thái quá và luôn ý thức rằng, mỗi người sử dụng đều có tiêu chí, yêu cầu khác nhau. Mỗi thị trường khác nhau sẽ có những chuẩn mực, kỹ thuật khác nhau nên phải đảm bảo sản phẩm đáp ứng những chi tiết khác biệt đó. Đối với quy trình sản xuất, dây chuyền sản xuất phải đảm bảo xuyên suốt để chất lượng sản phẩm đồng đều. Chất lượng và dịch vụ Để sản phẩm vào được Mỹ thì chất lượng sản phẩm phải tốt và đồng nhất. Đối tác mua hàng ở Mỹ sẽ yêu cầu nhà cung cấp chứng minh chất lượng, khả năng tài chính của công ty và cần có 1 văn phòng tại địa phương để họ có thể nhanh chóng phản hồi về sản phẩm khi có lỗi. Do vậy, việc doanh nghiệp xuất khẩu hàng vào Mỹ nên làm là cần tìm một đơn vị đại diện tại đây. Thực tế cho thấy, sự thất bại của hầu hết các công ty mới thâm nhập thị trường Mỹ thời gian qua là do không thực hiện tốt dịch vụ khách hàng. Muốn có thị phần, doanh nghiệp phải có kênh phản hồi thông tin từ người sử dụng, qua đó tạo điều kiện cải thiện chất lượng sản phẩm ngày càng tốt hơn. Các chuyên gia đánh giá, hàng hoá Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ thời gian tới sẽ thuận lợi hơn nhờ tác động của Hiệp định Thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương (TPP) hiện đang trong quá trình đàm phán. Với TPP, nhiều mặt hàng xuất khẩu vào Mỹ được giảm thuế, từ đó sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam tại thị trường này. Những điều doanh nghiệp cần biết khi tiếp cận thị trường Hoa Kỳ: Môi trường chung Quy mô nhập khẩu của thị trưởng Hoa Kỳ, mỗi năm khoảng 1.800 tỷ USD với đầy đủ các chủng loại hàng hóa thuộc các phẩm cấp khác nhau, là thị trường có sức mua cao, mở ra nhiều cơ hội hợp tác kinh doanh cho các đối tác. Tuy nhiên đâyy cũng là thị trường có tính cạnh tranh gay gắt và nhạy cảm, và rất khắt khe, người tiêu dùng được bảo vệ bằng một hệ thống pháp luật vô cùng chặt chẽ. Với 50 bang, 50 Luật, đôi khi Luật của mỗi bang lại vượt cả quy định của Luật Liên bang. Vì vậy, để thâm nhập và khẳng định vị thế trên thị trường này, hơn bất cứ ở thị trường nào, các doanh nghiệp Việt Nam cần đặc biệt lưu-ý tìm hiểu kỹ đối tác, luật lệ cũng như tập quán kinh doanh của thị trường này. Thực tế hiện nay, do hạn chế về nguồn tài chính, chất lượng sản phẩm, thiếu thông tin và hiểu biết về luật lệ, cách thức kinh doanh, nên không ít doanh nghiệp Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thị trưởng Hoa Kỳ. Để góp phần khắc phục tình trạng nói trên, các chuyên gia thương mại khuyến cáo, một nhân tố quan trọng mà chúng ta cần và có thể khai thác là sự phối hợp giữa các doanh nghiệp trong nước với cộng đồng kiều bào ta đang sống và làm việc tập trung ở nhiều thành phố lớn tại Mỹ. Với lợi thế là những người am hiểu thị trường Hoa Kỳ, thông thạo ngôn ngữ, cộng đồng người Việt Nam tại nước này có thể đóng vai trò môi giới hữu hiệu đưa hàng hóa Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ. Trên thực tế, trong nhiều năm qua, nhiều doanh nghiệp kiều bào đã trực tiếp tham gia, hoặc đã tích cực phối hợp, hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước trong các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa hay cung ứng dịch vụ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Bên cạnh đó, việc thực thi Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ cũng như việc gia nhập WTO càng mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ và ngược lại. Hoa Kỳ đã trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu mỗi năm lên đến hàng tỷ USD, riêng trong 4 tháng đầu năm 2007, con số trên đã đạt khoảng gần 3 tỷ USD, chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Các doanh nghiệp Việt Nam đã quen và hiểu thị trường Hoa Kỳ hơn, từ đó có cách tiếp cận phù hợp và hiệu quả hơn với thị trường này. Mặt khác, doanh nghiệp Hoa Kỳ cũng quan tâm nhiều hơn đến thị trường Việt Nam và có hướng chuyển sang mua một phần hàng Việt Nam thay vì các thị trường khác trong khu vực. Tuy nhiên, hiện nay không ít doanh nghiệp Việt Nam đã và đang vấp phải sự cản trở từ chính sách bảo hộ gắt gao của Hoa Kỳ nhất là về hàng rào kỹ thuật và an toàn thực phẩm cao, không ít trường hợp cao quá mức cần thiết. Bên cạnh đó, các biện pháp chống khủng bổ được ban hành sau vụ 11/19 cũng tạo thêm những rào cản mới đối với hàng xuất khẩu vào Hoa Kỳ nói chung, trong đó có hàng xuất khẩu từ Việt Nam. Sáng kiến về an ninh container; qui định đăng ký cơ sở sản xuất, chế biến và kho chứa thực phẩm và thông báo trước khi hàng đến với Cơ quan quản lý an toàn thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ cũng lạm phát sinh chi phí khi xuất khẩu. Ngoài ra, hệ thống pháp luật thương mại của Hoa Kỳ rất phức tạp và chồng chéo. Làm sao để cạnh tranh được và khẳng định vị thế của mình với các đối thủ đã có mặt tại thị trường Mỹ trước chúng ta? Theo các chuyên gia, có hai cách: Một là, chúng ta chen vào thị trường ngách Hai là, chúng ta chen bật, chiếm chỗ của người khác. Cả hai cách này chúng ta đã làm được, đặc biệt chúng ta có khả năng cạnh tranh trực diện, ví dụ: ngành dệt may, giày dép, đồ gỗ. Mấy năm qua, kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ đối với những mặt hàng này mỗi năm chỉ tăng 5-7% nhưng hầu hết các mặt hàng chúng ta xuất khẩu vào Hoa Kỳ đều tăng mạnh, dệt may là trên 20%, giày dép trung bình mỗi năm 40-50%... Như vậy, nếu biết chọn đúng mặt hàng và biết khai thác đúng lợi thế kinh doanh thì chúng ta vẫn có thể cạnh tranh được. Vấn đề đặt ra là, chúng ta phải xác định được lợi thế kinh doanh của chúng ta là gì? Chúng ta nên chọn phân khúc thị trường nào? Điểm yếu của Chúng ta là rất nhiều mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn nhưng lại phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu. Trong khi, thế mạnh của chúng ta là lao động. Chúng ta có một đội ngũ lao động khéo tay, nếu được đào tạo tốt quản lý tốt thì họ có khả năng tạo ra những sản phẩm có tính cạnh tranh cao, có trị giá gia tăng cao. Để khắc phục những điểm yếu, khai thác điểm mạnh thì doanh nghiệp nên chọn những mặt hàng có giá trị gia tăng cao. Làm như vậy, chúng ta mới có thể cạnh tranh được với các nước khác, nhất là với Trung Quốc. Hiện nay, những mặt hàng chúng ta xuất khẩu chủ yếu thì Trung Quốc đều chiếm một thị phần lớn, có thể nói là thống trị tại thị trường Hoa Kỳ, ví dụ như giày dép họ chiếm tới 70%. Thực tế, các mặt hàng dệt may, giày dép, thuỷ sản của chúng ta nếu tính bình quân giá nhập khẩu vào Hoa Kỳ thì giá cao hơn của Trung Quốc. Điều nàu chứng tỏ, mặt hàng của chúng ta có trị giá gia tăng cao hơn của Trung Quốc. Bên cạnh đó, cần có bước đi như thế nào cho phù hợp, các đối tác nào có thể hợp tác được trên thị trường Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp Việt Nam nếu chỉ đơn thuần là thương mại, không sản xuất thì rất có thể tìm được đối tác ở Hoa Kỳ bởi các công ty Hoa Kỳ rất cần những đối tác sản xuất chiến lược, cung cấp ổn định hàng hoá theo hợp đồng của họ. Thông thường, các công ty Hoa Kỳ chỉ tập trung vào những bộ phận, những linh kiện cốt lõi nhất của sản phẩm (do ưu thế cạnh tranh và họ muốn bảo vệ bí mật công nghệ), còn lại những bộ phận đơn giản, họ có thể đặt gia công nước ngoài hoặc đặt mua ở nước ngoài. Trong điều kiện các doanh nghiệp Việt Nam chưa có khả năng thiết kế, phát triển sản phẩm, chưa có thương hiệu riêng, thì chúng ta nên tập trung vào việc tổ chức lại sản xuất, cải tiến sản xuất để làm thế nào có thể tạo ra những sản phẩm cạnh tranh theo hợp đồng của các doanh nghiệp Hoa Kỳ và giao hàng đúng hạn với chất lượng đảm bảo để chúng ta có hợp đồng ổn định sản xuất lâu dài. Trên cơ sở sản xuất ổn định đó, chúng ta mới tiến tới một bước tiếp theo là đào tạo một đội ngũ thiết kế sản phẩm và tích luỹ tài chính thì chúng ta mới khẳng định được thương hiệu. Mặt khác, các chuyên gia thương mại cũng khuyến cáo: Các doanh nghiệp Việt Nam phải tăng cường hơn nữa sự hiểu biết về pháp luật Hoa Kỳ liên quan đến thương mại nói chung và về xuất- nhập khẩu nói riêng; nỗ lực đầu tư mạnh vào sản xuất hàng xuất khẩu có chất lượng đúng yêu cầu của nhà nhập khẩu, đảm bảo giá cạnh tranh và thời gian giao hàng đúng hạn. Ngược lại, thị trường Việt Nam cũng đang trở thành mối quan tâm đối với các doanh nghiệp Hoa Kỳ. Một trong những lĩnh vực được các thương gia mặn mà quan tâm, đặc biệt là lĩnh vực dịch vụ thương mại và phân phối. Ngoài việc đầu tư thành lập doanh nghiệp mới, các doanh nghiệp Hoa Kỳ rất quan tâm đến việc mua lại một phần các công ty hoạt động tại Việt Nam (kể cả các công ty có vốn đầu tư nước ngoài) và tham gia vào quản lý các công ty thuộc lĩnh vực này. Vì vậy, chúng ta cần có những chính sách phù hợp để thu hút đầu tư và các doanh nghiệp nên chủ động nắm bắt cơ hội khi đến. Mặc dù, không khỏi lo ngại cho các ngành dịch vụ trong nước trong cuộc cạnh tranh với các doanh nghiệp Hoa Kỳ nhưng chính sự cạnh tranh này sẽ là cơ hội tạo sức ép và động lực để doanh nghiệp Việt Nam vươn lên phát triển. Mở cửa dịch vụ đang là thách thức với các doanh nghiệp nhưng sẽ làm cho ngành này sẽ tăng cả lượng và chất cũng như giảm chi phí kinh doanh. Chất lượng dịch vụ tăng sẽ làm tăng năng suất lao động hoặc là điều kiện cần để một số ngành khác phát triển. Không khỏi có những tâm lý e ngại: Các doanh nghiệp Việt Nam có thể thua ngay trên sân nhà bởi sự xâm nhập của các công ty kinh doanh phân phối và xuất nhập khẩu Hoa Kỳ trên thị trường Việt Nam. Song nhiều ý kiến lại thấy sự xuất hiện của họ sẽ giúp Việt Nam tiếp thu được thêm nhiều công nghệ về tổ chức và quản lý trong phân phối và lưu thông hàng hóa và bản thân họ có thể là đầu vào và đầu ra tốt hơn cho sản xuất. Đặc biệt, dịch vụ logistic (hậu cần) do các công ty Hoa Kỳ được đánh giá là thuận tiện hơn và rẻ hơn. Điều này sẽ góp phần khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam. Sự khác biệt giữa khâu phân phối hàng hóa ở Hoa Kỳ và khâu phân phối hàng hóa tại Việt Nam là: Nếu bán hàng với số lượng nhỏ như ở Việt Nam thì không cần hệ thống phân phối nhưng nếu muôn bán hàng với số lượng lớn ở thị trường Hoa Kỳ bắt buộc phải dùng hệ thống phân phối hàng qua các công ty thu mua hoặc đại lý thu mua của các hãng lớn. Để hàng hóa Việt Nam có thể thâm nhập hệ thống phân phối hàng hóa tại Hoa Kỳ cần phải qua các công ty tư vấn, công ty tiếp thị sản phẩm. Hoa Kỳ không có quy định chung về việc thành lập doanh nghiệp áp dụng cho tất cả các bang. Quy định này ở mỗi bang, mỗi khác. Luật của các bang về các loại hình doanh nghiệp có thể không hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên, ở tất cả các bang đều tồn tại bốn loại hình doanh nghiệp cơ bản; Doanh nghiệp tư nhân một chủ; Doanh nghiệp hợp danh; công ty cổ phần; công ty trách nhiệm hữu hạn. Về mặt pháp lý, ở Hoa Kỳ, không có loại hình văn phòng đại diện như ở Việt Nam. Hầu hết các bang đều không yêu cầu vốn tối thiểu để thành lập doanh nghiệp. Thủ tục thành lập doanh nghiệp ở các bang đều đơn giản và nhanh chóng. Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài chịu sự điều tiết của pháp luật giống như các công ty trong nước. Loại hình doanh nghiệp cổ phần bình thường là loại hình phù hợp nhất đối với các doanh nghiệp Việt Nam muốn thành lập công ty chi nhánh ở Hoa Kỳ. Hơn nữa, pháp luật Hoa Kỳ quy định doanh nghiệp cổ phần bình thường nộp thuế thu nhập doanh nghiệp tại Hoa Kỳ; do vậy, các cơ quan đăng ký kinh doanh ở Hoa Kỳ cũng khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài thành lập loại hình doanh nghiệp này tại quốc gia này. Đối với mặt hàng hiện đang xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ cần phải xây dựng thương hiệu (brand-ing) để đưa vào kênh phân phối độc lập và thực hiện giá trị gia tăng để tạo giá trị xuất khẩu cao. Củng cố thương hiệu Việt là việc phải thực hiện ngay của các doanh nghiệp Việt Nam muốn kinh doanh lâu dài trên thị trường Hoa Kỳ, chuẩn bị về tài lực cũng như nhân lực cùng với các hoạch định chiến lược trước khi bắt đầu tiếp cận với thị trường rất khắc khe và khó tính nhưng cũng vô cùng hấp dẫn này. Kết luận: Hiệp định thương mại Việt - Mỹ là một trong các điểm mốc căn bản trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Hiệp định sẽ đem lại cho Việt Nam thêm 1% tăng trưởng GDP/năm. Đây là điều có ý nghĩa trong điều kiện kinh tế thế giới đang chững lại. Hiệp định có hiệu lực đã mở ra triển vọng lớn cho kinh tế Việt Nam, nhưng thực hiện nó không phải là con đường thông suốt. Giai đoạn đầu thực hiện Hiệp định là cầu nối quan trọng giữa Việt Nam và thế giới. Lúc này Việt Nam đang ở trong thời kỳ củng cố và mở rộng các thị trường ở khu vực Đông Nam A, phải cạnh tranh ráo riết với Trung quốc khi nước này vừa ra nhập WTO, nên việc hướng vào Hoa kỳ rất có ý nghĩa. Để thực hiện tốt Hiệp định, Việt Nam phải mở rộng mặt hàng xuất khẩu sang Mỹ, thu hút mạnh đầu tư và công nghệ từ thị trường này. Đối với Việt Nam, trong số những lĩnh vực được lợi nhiều nhất nhờ những điều kiện thương mại dễ dàng hơn, có công nghiệp dệt may, giày dép, chế biến thực phẩm… là những ngành mà trước đó vẫn phải chịu mức thuế cao tới 60% khi xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Đây là những ngành vốn chịu thiệt thòi so với nhiều nước láng giềng của Việt Nam mặc dù có chất lượng sản phẩm cao. Ngành Công nghiệp dầu khí và khai thác thuỷ, hải sản là những ngành quan trọng đem lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước, sẽ có cơ hội mở rộng nhanh thị trường của mình ở Hoa Kỳ. Có thể hoàn toàn tin tưởng rằng với những thành tựu đã đạt được của hơn một thập kỷ đổi mới, với nền kinh tế đang có dấu hiệu phát triển tốt, với những quyết tâm cao độ và đường lối đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt của Đảng và Chính phủ Việt Nam, chúng ta sẽ vận dụng đầy đủ các cơ hội mà Hiệp định thương mại Việt - Mỹ mang lại nhằm thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước theo như chiến lược đã đề ra. Tài liệu tham khảo:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dochiepdinhthuongmaivietmy_8368.doc
Luận văn liên quan