Tiểu luận Thực tập tại Công ty Dịch vụ Hai Bà Trưng

Công tác thu thập và xử lý thông tin chưa có hiệu quả .Mặc dù nhận thức tầm quan trọng của việc nay nhưng công ty vẫn chưa có được hệ thống thu thập và xử lý thông tin riêng biệt .Công vệc này chỉ được thực hiện thông qua các nhân viên phòng xuất nhập khẩu, phòng dự án ,qua các đơn chào của các bạn hàng nước ngoài hoặc của một số công ty trong nước . Các thông tin thu thập thường hạn chế tản mạn, đến chậm hoặc không đến được người cần sử dụng. Chính vì vậy, các thông tin này chỉ được sử dụng trong phạm vi hẹp hoặc chưa được sử dụng hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.

pdf23 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2209 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực tập tại Công ty Dịch vụ Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN: Báo cáo thực tập tại Công ty Dịch vụ Hai Bà Trưng Lời mở đầu Nhập khẩu là hoạt động quan trọng trong nền kinh tế của một quốc gia. Nó tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất. Nhập khẩu để cung cấp những gì ta chưa có, chưa sản xuất được những sản phẩm mà việc sản xuất không có lợi.Có thế chúng ta mới có thể đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo chiều hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, đưa đất nước tham gia vào quá trình hội nhập,quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức mau chóng trên toàn thế giới. Hoạt đông nhập khẩu đã thu hút nhiều doanh nghiệp, công ty trong và ngoài nước tham gia trên mọi lĩnh vực, thị trường. Vì vậy việc xây dựng một quy trình nhập khẩu khoa học phù hợp và làm sao để nó hoạt đông có hiệu quả luôn là vấn đề đặt ra cho mỗi công ty,doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay. I).Giới thiệu chung về công ty. 1.Quá trình hình thành và phát triển : Vào giữa những năm 80, nền kinh tế quan liêu bao cấp đòi hỏi phải được phát triển và mở rộng để đáp ứng, thoả mãn những nhu cầu thiết yếu đang gia tăng của người dân. Trước tình hình như vậy, cùng với sự ra đời của nhiều Công ty dịch vụ khác, Công ty Dịch vụ Hai Bà Trưng đã được thành lập dựa trên QĐ số 4071/QĐ - UB ngày 19/5/1984 của Nhà nước. Đến ngày 1/5/1985, Công ty dịch vụ Hai Bà Trưng chính thức đi vào hoạt động, được đặt trụ sở tại 53 Lạc Trung - Hà Nội, kinh doanh các mặt hàng như: Đồ dùng gia đình, nông sản thực phẩm và điện tử điện lạnh...Từ 1985 đến 1987: Công ty hoạt động dựa trên sự cung ứng hàng hoá, vốn của Nhà nước. Quá trình hoạt động kinh doanh dựa trên chỉ tiêu, Pháp lệnh của Nhà nước. Việc hạch toán kinh doanh chỉ là điều xa vời, chưa được thực hiện. Từ 1987 đến 1992: Nền kinh tế quan liêu bao cấp, bế quan toả cảng đã bộc lộ rõ nhưng mặt trái của nó, đình trệ sự phát triển đòi hỏi sự thay thế của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước để phù hợp với xu thế của thời đại. Việc hoạt động dựa trên sự bao tiêu toàn bộ đầu vào của Nhà nước không còn được thực hiện ở Công ty nữa. Công ty phải tự chủ trong hoạt động kinh doanh của mình dựa trên nguồn vốn ban đầu được cấp. Hoạt động chính của Công ty thời gian này là mua hàng sản xuất trong nước và bán ra ngoài thị trường các sản phẩm điện tử, điện lạnh, đồ dùng gia đình. Sự chuyển đổi đột ngột như vậy khiến Công ty gặp nhiều khó khăn. Công ty không những phải tìm nguồn hàng, thị trường phù hợp mà còn phải cạnh tranh với các tổ chức kinh tế khác cùng loại hình hoạt động. Công ty là một đơn vị kinh doanh thương nghiệp hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân, được mở tài khoản và sử dụng con dấu riêng, chịu sự quản lý toàn diện của UBND quận Hai Bà Trưng và hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ của Sở Thương nghiệp thành phố Hà Nội. Chức năng nhiệm vụ chủ yếu là các dịch vụ phục vụ đời sống nhân dân như cắt uốn tóc, may đo, giặt là quần áo... Với tổ chức bộ máy gồm có : -Chủ nhiệm và hai phó chủ nhiệm. -Các phòng ban chuyên môn, nghiệp vụ quản lý, các cửa hàng, xưởng sản xuất, chế biến... Cùng với sự đổi mới của đất nước, sau hơn 17 năm hoạt động với sự phấn đấu nỗ lực, công ty đã từng bước mở rộng qui mô và nghành nghề kinh doanh. Điều đó được thể hiện qua các bước hình thành của công ty cụ thể như sau : -Đại lý vé máy bay. -Đại lý hàng hoá cho các đơn vị kinh tế trong nước. -Dịch vụ du lịch, khách sạn. -Sản xuất, chế biến gia công hàng xuất khẩu và bao bì đóng gói. * Theo quyết định số 2687/QĐ-UB ngày 4/11/1992 của UBND thành phố Hà Nội, công ty dịch vụ kinh doanh XNK quận Hai Bà Trưng đổi tên thành Công ty sản xuất kinh doanh hàng XNK Hai Bà Trưng với nhiệm vụ bổ sung như sau : -Tổ chức sản xuất, thu mua, gia công hàng xuất khẩu. -Thực hiện hoạt động liên doanh, liên kết trong hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế trong nước và nước ngoài. *Theo nghị định số 388/HĐ-BT ngày 20/11/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thành lập và tổ chức lại các doang nghiệp Nhà Nước và theo quyết định số 316/QĐ-UB ngày 19/1/1993, quyết định số 540/QĐ-UB ngày 1/4/1994 của UBND thành phố Hà nội, Công ty chính thức mang tên Công ty XNK Hai Bà Trưng. Để phù hợp với qui mô và nhiệm vụ được giao, công ty đã được UBND quận Hai Bà Trưng giao lại cho UBND thành phố Hà nội do Sở Thương mại thành phố trực tiếp quản lý với tên gọi mới là công ty thương mại XNK Hà Nội theo quyết định số 2894/QĐ-UB ngày 23/5/2001. Trụ sở tại : 124 Phố Huế - Hà Nội Tên giao dịch quốc tế: Hanoi commercial and import export company Tên viết tắt : Hancimex Từ một công ty chỉ kinh doanh nội địa và các dịch vụ nhỏ khi mới thành lập, đến nay với sự nỗ lực của mình, công ty đã phát triển thành một công ty thương mại XNK tổng hợp. Với phương châm kinh doanh ‘‘duy trì, ổn định và phát triển kinh doanh nội địa, đẩy mạnh kinh doanh XNK, mở rộng thị trường nước ngoài, phát triển quan hệ với nhiều nước trên thế giới.’’ Hiện nay công ty đã có quan hệ kinh doanh XNK với trên 30 nước trên thế giới. Từ đó ngành nghề kinh doanh của công ty được mở rộng như sau: -Sản xuất, thu mua hàng thêu ren, may mặc thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. -Sản xuất chế biến, kinh doanh XNK lương thực thực phẩm, dược liệu, nông, lâm thuỷ hải sản và các mặt hàng khác. -Kinh doanh hàng điện tử, điện lạnh, điện dân dụng, hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng và trang trí nội thất. -Kinh doanh XNK máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, phương tiện vận tải. -Kinh doanh XNK làm đại lý ký gửi và XNK ô tô, phụ tùng ô tô. -Kinh doanh khách sạn, du lịch và dịch vụ. Tuy là một doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh trong rất nhiều lĩnh vực nhưng số vốn kinh doanh của công ty được cấp rất ít. Hiện nay tổng số vốn kinh doanh của công ty là :4.158.280.000 VNĐ. Trong đó bao gồm : Số vốn cố định : 1.356.220.000 VNĐ. Số vốn lưu động : 2.217.295.000 VNĐ. Số vốn khác : 584.435.000 VNĐ. Số vốn trên là quá nhỏ so với qui mô kinh doanh của công ty. Hiện nay, hoạt động kinh doanh của Công ty chủ yếu bằng vốn vay nên Công ty chỉ tập trung kinh doanh vào một số mặt hàng chủ yếu ở các lĩnh vực sau: Công ty Xuất Nhập khẩu Hai Bà Trưng chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và kinh doanh lưu chuyển hàng trong nước. Tuy nhiên, hai năm gần đây việc xuất khẩu hàng ở Công ty không thực hiện nữa do kim ngạch xuất khẩu thấp, doanh thu từ hàng xuất khẩu chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng doanh thu (chỉ khoảng 20%). Vì vậy, Công ty giờ đây chủ yếu thực hiện hai công việc: -Nhập khẩu hàng nước ngoài bán trong nước -Kinh doanh lưu chuyển hàng nội địa. Công ty kinh doanh đa dạng hoá các mặt hàng trên cơ sở nghiên cứu thị trường. Việc bán hàng cũng được thực hiện đa phương thức: bán buôn, bán lẻ, gửi hàng đi bán... Các phương thức bán hàng cũng thực hiện đa dạng trên nguyên tắc thận trọng và phù hợp với khả năng thanh toán của khách hàng với mục tiêu chính là đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất. Hoạt động kinh doanh của công ty chủ yếu được thực hiện dựa trên nguồn vốn vay nên hiện nay công ty chỉ chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực sau : * Hoạt động XNK : -XK : Công ty chủ yếu XK các hàng nông sản như : lạc, gạo, chè...sang một số nước Châu á như : Đài Loan, Singapo... -NK : Chủ yếu là hoá chất, điện lạnh, điện dân dụng, hàng trang trí nội thất, nguyên vật liệu từ các nước như : Đức, ấn Độ, Trung quốc, Nhật, Hàn quốc... *Hoạt động kinh doanh nội địa : Chủ yếu là kinh doanh các mặt hàng : điện dân dụng, quần áo may sẵn, hàng tiêu dùng...Các loại hoạt động nayd diễn ra tại các cửa hàng của công ty. Ngoài ra, công ty còn làm đại lý bán vé máy bay cho hãng hàng không Pacific Airline. Địa diểm tại công ty-142 Phố Huế. Hình thức nhập khẩu của Công ty bao gồm nhập khẩu trực tiếp và nhập khẩu uỷ thác nhưng hình thức nhập khẩu trực tiếp chiếm đa số. Phương thức bán hàng thường là bán buôn trực tiếp qua kho. Phương thức nhập khẩu của Công ty chủ yếu là nhập theo giá CIF, địa điểm giao hàng thường ở hai cảng lớn là Cảng Hải Phòng, Cảng thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, phương thức giao hàng có thể là đường sắt hoặc đường không. 2.Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty : Công ty tổ chức bộ máy quản lý theo chế độ một thủ trưởng do giám đốc đứng đầu quản lý, điều hành trực tiếp toàn diện từ các phòng ban đến các cửa Phó giám Phó giám Phòn g tài vụ Phòn g kinh doan h tổng hợp phòn g kinh doan h 3 Phòn g XNK1 Phòn g tổ chức hành chín h Hệ thốn g các cửa hàng Phòn g kế hoạc h thị trườ ng Phòn g giao nhận và V/C Phòn g XNK2 Giám đốc hàng. Từng phòng ban sẽ xây dựng kế hoạch trình lên giám đốc trong buổi họp giao ban, kế hoạch được triển khai từ trên xuống. *Chức năng và nhiệm vụ của công các phòng ban như sau : -Ban giám đốc : Gồm 01 giám đốc và phó giám đốc. +Giám đốc: là người chỉ đạo chung, có thẩm quyền cao nhất, có nhiệm vụ quản lý toàn diện trên cơ sở chấp hành đúng đắn chủ trương, chính sách, chế độ của Nhà nước. +Phó giám đốc: hai phó giám đốc chịu trách nhiệm chỉ đạo các phòng ban do mình quản lý, giúp giám đốc nắm vững tình hình hoạt động của Công ty để có kế hoạch và quyết định sau cùng, giải quyết các công việc được phân công. - Phòng tài vụ (phòng kế toán): tổ chức hạch toán toàn bộ hoạt động xuất nhập khẩu, kinh doanh, giải quyết các vấn đề tài chính, thanh toán, quyết toán bán hàng, thu tiền, tiền lương, tiền thưởng, nghĩa vụ đối với Nhà nước và các vấn đề liên quan đến tài chính. Đồng thời tham mưu cho giám đốc xây dựng các kế hoạch tài chính. - Phòng xuất nhập khẩu 1 và phòng xuất nhập khẩu 2: với chức năng tìm hiểu thị trường, bạn hàng nước ngoài để từ đó ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu dựa trên những kế hoạch đã đề ra, giải quyết các vấn đề liên quan đến xuất nhập khẩu. - Phòng kinh doanh tổng hợp và phòng kinh doanh 3: có nhiệm vụ nghiên cứu, tìm hiểu thị trường trong nước để có chiến lược kinh doanh trước mắt và lâu dài, tham mưu cho ban giám đốc về kế hoạch tiêu thụ, ký kết các hợp đồng với bạn hàng trong nước, theo dõi hoạt động của các cửa hàng. - Phòng giao nhận và vận chuyển: thực hiện việc vận chuyển hàng nhập khẩu từ cảng về kho của Công ty. - Các cửa hàng: là mạng lưới tiêu thụ hàng trong nước và ngoài nước của Công ty, thực hiện việc bán buôn và bán lẻ, là đơn vị hạch toán phụ thuộc. Các chứng từ liên quan đến hoạt động kinh doanh đều gửi về Công ty làm công tác hạch toán. - Phòng tổ chức hành chính : Tham mưu giúp đỡ cho giám đốc công tác : +Đối nội, đối ngoại, lưu trữ hồ sơ giấy tờ, thủ tục, công văn. +Tổ chức nhân sự, quản lý sắp xếp, đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên. +Quản lý tiền lương, tiền thưởng và các chế độ chính sách như : bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... +Một số công việc hành chính khác như công việc bảo vệ, tạp vụ,vệ sinh... *.Phương pháp quản lý của công ty : Bộ máy quản lý của công ty gọn nhẹ, phương pháp quản lý đơn giản, áp dụng phương pháp quản lý trực tiếp do giám đốc lãnh đạo, quẩn lý điều hành trực tiếp toàn diện từ các phòng ban đến các cửa hàng. Hoạt động kinh doanh của công ty được thực hiện thông qua các phòng kinh doanh và cửa hàng. Các phòng kinh doanh, cửa hàng chịu trách triệm đối với từng lĩnh vực kinh doanh riêng trước giám đốc. Ngoài ra tại mỗi phòng kinh doanh, trách nhiệm kinh doanh của từng mặt hàng sẽ được giao cho từng người trong trong phòng và những người này sẽ chịu trách nhiệm với trưởng phòng về mặt hàng kinh doanh đã được giao cho. Quản lý là yếu tố quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh. Để quản lý có hiệu quả thì đòi hỏi phải tổ chức bộ máy quản lý phù hợp với đội ngũ cán bộ có trình độ, có năng lực. Do nhận thức đúng đắn tầm quan trọng đó từ khi thành lập đến nay công ty đã từng bước củng cố tổ chức các phòng ban, cửa hàng, tuyển chọn những nhân viên có trình độ nghiệp vụ cao và nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên cũ của công ty cho phù hợp với công việc kinh doanh và phục vụ cho kế hoạch phát triển lâu dài của công ty. 3.Tình hình lao động của công ty. Bảng 1. Tổng số cán bộ công nhân viên của công ty một số năm gần đây Chỉ tiêu 1998 1999 2000 1999/1998 2000/1999 Tổng số CBCNV 65 71 76 109,23% 107,04% nam 20 23 29 115,00% 126,09% nữ 45 48 47 106,67% 97,92% ĐH +TC 16 29 34 181,25% 117,24% LĐ KD trực tiếp 50 57 63 114,00% 110,53% LĐ gián tiếp 15 14 13 93,33% 92,86% LĐ KD TT/tổng CBCNV 76,92% 80,28% 82,89% LĐ KD GT/tổng CBCNV 23,08% 19,72% 17,11% LĐ ĐH+ TC/tổng CBCNV 24,62% 40,85% 44,74% (Nguồn : phòng TCHC của công ty Hancimex) Qua bảng số liệu trên ta thấy tình hình lao động của công ty qua một số năm như sau : -Tổng số CBCNV của công ty đã tăng trung bình 8% một năm. -Tỷ lệ số lao động nam và lao động nữ ở công ty có số chênh lệch lớn. Tuy nhiên trong một số năm gần đây tỷ lệ số lao động nam đang có chiều hướng tăng lên.Tỷ lệ nam có chiều hương tăng lên để phù hợp với công vệc hiên trường của nghiệp vụ xuất nhập khẩu :làm tại kho, làm thủ tục hải quan ,nhận hàng tại cảng... -Số CBCNV có trình độ đại học và trung cấp của công ty còn ít nhưng do công ty quan tâm nhiều đến khâu tuyển chọn nên tỷ lệ này ngày càng tăng rõ rệt. Có như vậy mới đáp ưng được yêu cầu ngày càng khắt khe, với mức độ khó của công việc -Lao động kinh doanh trực tiếp ở công ty là chủ yếu và tỷ lệ này có xu hướng tăng lên. *Tình hình thu nhập của CBCNV trong công ty. Tuy nước ta đã chuyển sang kinh tế vận động theo cơ chế thị trường nhưng nhìn chung các doanh nghiệp Nhà Nước vẫn còn phần nào bị ảnh hưởnh của chế độ kế hoạch hoá tập trung, bao cấp. Cụ thể là tác phong làm việc của CBCNV trong doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa linh hoạt. Nhưng với công ty thương mại XNK Hà Nội thì đào tạo được các đặc điểm khác biệt so với các doamh nghiệp nhà nước cùng loại, có thể nói công ty đã tạo được động cơ trong công việc với CBCNV để họ tập trung cao sức lực, trí lực cửa mình vào công việc. Một trong những nguyên nhân tạo động cơ lao động đó là công ty đã có một chế độ đãi ngộ rất hợp lý với CBCNV. Tuy là một doanh nghiệp Nhà nước nhưng do hạch toán kinh doanh độc lập nên công ty có chế độ trả lương hết sức linh hoạt, ngoài một khoản lương cố định hay còn gọi là lương cấp bậc hoặc lương đã ký kết trong hợp đồng theo chế độ Nhà nước qui định, CBCNV hàng tháng sẽ được nhận một khoản tiền thưởng tuỳ theo mức lợi nhuận mà người đó có đóng góp cho công ty. Hay nói cách khác, do phương pháp quản lý kinh doanh của công ty là mỗi người trong phòng ban sẽ phải chịu trách nhiệm đối việc kinh doanh của một hay một số mặt hàng dược giao. Phương pháp trả lương nay đã tạo ra động cơ làm việc với CBCNV trong công ty và phương pháp này cũng tạo ra một mức thu nhập khá cao cho CBCNV trong công ty. Tuy mức lương cố định bình quân không cao (550.000 đồng/người/tháng) nhưng với mức tiền thưởng hàng tháng thì mức thu nhập hàng tháng của từng người trong công ty là khá cao (mức thu nhập bình quân là 1.300.000 đồng/người/tháng) với mức thu nhập này có thể giúp cho CBCNV yên tâm công tác. Nhưng với phương pháp này sẽ khiến mức thu nhập của CBCNV dao động và tuỳ thuộc vào hoạt động kinh doanh của công ty. 4 . Tình hình kinh doanh của công ty : 4.1. Kết quả kinh doanh một số năm gần đây: Những năm đầu thực hiện việc chuyển đổi cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, công tác kinh doanh của Công ty gặp không ít khó khăn: khó khăn về cơ sở vật chất, khó khăn về nguồn vốn, công tác tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cơ chế quản lý, kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp. Những năm gần đây lại là những năm đầy khó khăn thử thách đối với các đơn vị kinh doanh: thị trường diễn biến phức tạp, cạnh tranh khốc liệt, Nhà nước liên tục có những thay đổi trong cơ chế chính sách. Với nguồn vốn phục vụ kinh doanh quá ít, Công ty hoạt động chủ yếu bằng các nguồn vốn vay ngắn hạn của ngân hàng với lãi suất cao do đó lợi nhuận thu về còn quá ít và bỏ lỡ nhiều cơ hội trong kinh doanh vì không chủ động được nguồn vốn. Để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây ta có thể xem qua một số chỉ tiêu sau: Bảng 2: Kết quả kinh doanh của Công ty Hancimex ĐVT: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm2001 Năm 2002 Doanh thu ợi nhuận ộp NS Lương Kim ngạch XNK 101000 165 15 700 60000 (USD) 130000 131 13 650 70000 (USD) 189000 150 18,3 700 450000 (USD) 217000 200 21,5 900 500000 (USD) (Nguồn: phòng kế toán công ty Hancmex) 0 50 100 150 200 250 1999 2000 2001 2002 BiÓu ®å doanh thu Qua bảng số liệu trên cho thấy: - Doanh thu của Công ty ngày càng tăng: năm 2000 tăng hơn so với năm 1999 là 28,7% (tương đương 29.000 triệu đồng); năm 2001 tăng hơn so với năm 2000 là 45,38% ( tương đương 59.000 triệu đồng), năm 2002 tăng hơn năm 2001 là 14,81% ( tương đương 28.000 triệu đồng). Qua đây ta thấy được tình hình kinh doanh của công ty ngày càng tiến triển, các chính sách kinh doanh của công ty là đúng đắn. Hoạt động của các phòng kinh doanh và hệ thông cửa hàng đã đáp ứng được nhưng yêu câu phương hướng đã đặt ra của công ty. - 0 20 40 60 80 100 120 140 160 180 200 1999 2000 2001 2002 - Đối với mỗi công ty hoạt động trong nền kinh tế thị trường thì mục tiêu cuối cùng là làm thế nào để thu được lợi nhuận cao nhất.Lơi nhuận là nguồn bổ xung vốn và luôn là chi tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của một công ty. Hancimex là một công ty luôn quan tâm đến lợi nhuận thu được từ hiệu quả kinh doanh của công ty.Lợi nhuận năm 2000 so với năm 1999 giảm 34 triệu đồng nhưng đến năm 2001 lại tăng 19 triệu đồng, năm 2002 so với năm 2001 tăng 50 triệu đồng. Hai năm gần đây lợi nhuận của công ty tăng nhanh.Kết quả này có được chứng tỏ công ty đã được giảm tối đa chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.Lợi nhuận này được thu chủ yếu từ hoạt động xuất nhập khẩu. - Hancimex là một công tyluôn hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước. Ngoài hai loại thuế chính là thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng (VAT) công ty còn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.Nộp ngân sách của công ty năm 2000 so với năm 1999 giảm 2 triệu đồng, tương đương13,33% do doanh thu năm 2000 giảm so với năm 1999. Năm 2001, 2002 số tiền nộp ngân sách Nhà nước tăng lên do doanh thu và lợi nhuận của Công ty tăng. - Lương của cán bộ công nhân viên năm 2000 giảm so với năm 1999 là 50 triệu do lợi nhuận năm 2000 giảm so với năm 1999 và số cán bộ công nhân viên chức được tăng cường thêm , năm 2001 và 2002 lương của cán bộ công nhân viên đều tăng do lợi nhuận tăng. Ngoài khoản lương cố định được trả theo hợp đồng thì cán bộ công nhân viên chức được trả thêm nột khoản được trích thêm từ lợi nhuận công ty thu được tuỳ vào mức đóng góp của họ đối với công ty. - Kim ngạch xuất nhập khẩu năm 1999 và 2000 thấp vì lúc đó công ty có qui mô nhỏ trực thuộc sự quản lý của UBND Quận Hai Bà Trưng nên hoạt động kinh doanh chưa được linh hoạt. Từ năm 2001, công ty trực thuộc sự quản lý của Sở Thương mại thành phố nên qui mô của công ty được mở rộng, hoạt động XNK được đẩy mạnh do đó kim ngạch XNK tăng lên nhanh chóng. Để đạt được kết quả như vậy, Công ty Hancimex đã hoạt động trên cơ sở một phần vốn kinh doanh của Nhà nước giao, một phần do quá trình hoạt động của Công ty đã bảo toàn và tăng cường vốn do tiết kiệm trong chi tiêu, sử dụng hợp lý có hiệu quả các nguồn vốn tự có, một phần do biết khai thác vốn từ nhiều nguồn khác nhau. 4.2. Thị trường và mặt hàng kinh doanh: Với phương châm “ Duy trì, ổn định và phát triển kinh doanh nội địa, đẩy mạnh kinh doanh xuất nhập khẩu, mở rộng thị trường nước ngoài, phát triển mối quan hệ với nhiều nước trên thế giới” Công ty đã vươn tầm hoạt động ra khắp nơi, thị trường tiêu thụ khá đa dạng, vừa phục vụ trực tiếp người tiêu dùng, vừa thực hiện các HĐKT với các Công ty , Xí nghiệp trên địa bàn Hà Nội và cả nước. Công ty chủ yếu xuất khẩu một số mặt hàng nông sản như:lạc gạo,chè...sang một số nước Châu á .Bên cạnh đó còn xuất khẩu các mặt hàng: cà phê, hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu sang Trung Quốc; găng tay vải xuất sang Đài Loan...Đạt được điều này một phần do các sản phẩm về vật liệu, may may mặc, nông lâm sản có chất lượng tốt, đáp ứng được nhu cầu thị trường. Thị trường nhập khẩu của Công ty khá rộng kể cả trong khu vực và trên thế giới như Thái Lan, Trung Quốc, Nhật, Anh, Đức, Pháp, Nga...Công ty chủ yếu nhập khẩu các mặt hàng như: hoá chất ,điện lạnh ,điện dân dụng, hàng trang trí nôi thất,nguyên vật liệu (sắt ,thép, vật liệu nhựa phuc vụ cho việc sản xuất nhựa trong nước) Công ty đã cố gắng bám sát thị trường, thực hiện các biện pháp xâm nhập và phát triển thị trường, không những duy trì và mở rộng thị trường truyền thống mà còn xâm nhập vào các thị trường mới. Thực hiện chủ trương của Nhà nước về đẩy mạnh xuất khẩu Công ty đã chú trọng quan tâm đến công tác tiếp thị khai thác mặt hàng, mở rộng thị trường trong và ngoài nước, đã xuất khẩu các mặt hàng chính là nông sản, hải sản, hàng may mặc sang các nước EU. 5. Nhận xét về những thành công và hạn chế của công ty trong kinh doanh. 5.1. Thành công Mậc dù còn gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh như: thiếu vốn, sự cạnh tranh gay gắt, giá cả biến động, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu á, tỷ giá biến động bất thường, Nhà nước có những thay đổi trong chính sách thuế ảnh hưởng tới việc tính toán dự báo thị trường, gây khó khăn trong việc kinh doanh xuất nhập khẩu song với tinh thần quyết tâm , dám nghĩ dám làm, trong mấy năm qua Công ty đã phấn đấu đạt được những kết quả đáng khích lệ trên cả lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như đối với hiệu quả xã hội, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho CBCNV, được cấp trên đánh giá là một đơn vị hoạt động có hiệu quả, tốc độ tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước.Điều đó được thể hiện rất rõ trong việc thực hiện nghĩa vụ ngân sách và thuế cho Nhà nước của Công ty hàng năm. Nhìn chung các chỉ tiêu kế hoạch Công ty đều hoàn thành và vượt mức. Riêng chỉ tiêu nộp ngân sách do thuế XNK giảm theo lộ trình hội nhập quốc tế và hàng xuất khẩu khuyến khích thuế bằng không nên mặc dù doanh số tăng, thu nhập tăng nhưng nộp ngân sách lại giảm (đây là lý do khách quan do chính sách của nhà nước). Thực hiện nhiệm vụ phát triển thương mại theo hướng văn minh hiện đại, các đơn vị đã tự chủ trong kinh doanh, chủ động khai thác mở rộng thị trường, từ hình thức bán lẻ đơn thuần nay đã chuyển dần sang các hình thức hiện đại như liên doanh, làm đại lý kí gửi, ký hợp đồng bán buôn nhiều mặt hàng với doanh số lớn. Các đơn vị có mức tăng trưởng cao như: cửa hàng Trần Cao Vân, cửa hàng chợ Mơ, cửa hàng Trương Định, phòng GNVC&DL. Các điểm bán hàng, mặt hàng hoá phong phú, đa dạng, cửa hàng, quầy hàng sạch đẹp, đội ngũ nhân viên nhanh nhẹn, nhiệt tình. Kết quả kinh doanh của các đơn vị đạt được như sau: a) kinh doanh nội địa: -Phòng XNK1 đạt =569.580.000 đồng =86% -Phòng GNVC =272.137.000 đồng =90,71% -Phòng KDTH =336.000.000 đồng =80% -Phòng KD3 =84.362.000 đồng =35,15% -Phòng XNK2 =61.000.000 đồng =101,67% -Cửa hàng TCV =360.000.000 đồng =535% -CH chợ Mơ =36.000.000 đồng =100% -CH Trương Định =19.800.000 đồng =100% b) Doanh số xuất khẩu: -Phòng KD3 doanh số XK thực hiện là : 185.351USD -Phòng GNVC doanh số XK thực hiện là : 42.880USD -Phòng XNK doanh số XK thực hiện là : 35.360USD -Phòng KDTH doanh số XK thực hiện là : 85.322USD Trước những kết quả đạt được chúng ta không dừng lại ở đó, Ban giám đốc Công ty luôn có hướng đổi mới, tìm ra những biện pháp thích ứng với cơ chế thị trường. Chúng ta đã triển khai một số dự án để mở rộng qui mô phát triển SXKD như đã thành lập Trung tâm dịch vụ. Trung tâm đã hoạt động được hơn một năm và lag một trong những đơn vị đạt hiệu quả nhất. Đây sẽ là tiền đề cho mô hình kinh doanh dịch vụ trong thời gian tới. Ngoài ra, công ty đa lập xong đề án khả thi xây dựng nhà máy chế biến tinh bột sắn XK có công suất 60tấn/ngày tại Hoà Bình. Dự án đã được các cấp, các ngành nhiệt tình ủng hộ. Đây chính là những động lực thúc đẩy hoạt động của Công ty ngày một phát triển đáp ứng đòi hỏi của xã hội trước sự hội nhập của nền kinh tế quốc tế. Để hoà nhập trong lộ trình hội nhập góp phần xây dựng ngành thương mại thủ đô, CBCNV Công ty Hancimex đã không ngừng phấn đấu vươn lên từ một đơn vị hoạt động đơn thuần nhỏ lẻ đến nay Công ty đã lớn mạnh và phát triển trên nhiều phương diện, phạm vi hoạt động được mở rộng, chức năng ngành nghề kinh doanh đa dạng, thị trường và bạn hàng không còn bó hẹp trong nước mà được mở rộng đến nhiều nước trên thế giới, công ăn việc làm đời sống CBCNV được cải thiện thu thập ngày cáng tăng, điều đó khẳng định sự trưởng thành và hướng đi đúng của công ty. Công ty đã mạnh dạn giao quyền và tạo điều kiện để cán bộ đi học nâng cao nghiệp vụ. Đến nay đội ngũ cán bộ của Công ty đã tương đối vững về chuyên môn, tinh thông về nghiệp vụ. Thực hiện chủ trương thành uỷ Hà Nội và Sở Thương mại về việc đánh giá bổ nhiệm lại cán bộ. Nhìn chung hầu hết số cán bộ của Công ty đều giữ được phẩm chất đạo đức, phát huy được vai trò trách nhiệm và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. 5.2..Hạn chế Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động kinh doanh của Công ty còn một số hạn chế như: - Nguồn vốn chủ động còn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh doanh, còn phải vay ngân hàng nên hiệu quả kinh doanh chưa cao. - Cơ sở vật chất còn hạn chế, trụ sở, kho tàng, phương tiện vận tải phải đi thuê nên làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, không chủ động trong việc bảo quản, lưu trữ, vận chuyển hàng hoá. - Việc linh hoạt các cơ sở sản xuất, thu mua chế biến hàng xuất khẩu còn chậm và chưa mạnh dạn đầu tư đầy đủ theo yêu cầu của khách hàng. - Đội ngũ cán bộ của công ty cơ bản nhiệt tình, gắn bó với công việc song vẫn còn một số ít chưa thực sự tâm huyết, còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại. -Tính chủ động sáng tạo trong kinh doanh ở một số ít cán bộ chưa được phát huy cao nên kết quả trong hoạt động còn thấp. -Việc giải quyết khiếu nại và xử lý kỷ luật chưa thật chặt chẽ nên đã xảy ra khiếu kiện làm ảnh hưởng đến hoạt động của công ty. 6.Phương hướng cho năm tới . Để hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch năm 2003 là một nhiệm vụ nặng nề đòi hỏi công ty phải có một phương hướng cụ thể cho hoạt động của mỉnh sao cho nó được thực hiện một cách có hiệu quả nhất.Muốn như vậy cán bộ công nhân viên chức công ty Hancimex phải nỗ lực phấn đấu và làm tốt một số việc sau: -Tiếp tục củng cố kiện toàn sắp xếp lại cơ cấu tổ chức bộ máy cho phù hợp với yêu cầu và hoạt động có hiệu quả. -Làm tốt công tác cán bộ như quy hoach đào tạo cán bộ để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. -Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại ,tìm thêm các đối tác mới. II).Hoạt động nhập khẩu của công ty Hanximex. 1.Nghiệp vụ nhập khẩu -Thực hiên nghiệp vụ nhập khẩu và giảm chi phí trong quá trình này là biện pháp quan trọng để tăng lơi nhuận của công ty . Là một công ty xuất nhập khẩu công tác này được thực hiện một cách có hiệu quả. 1.1. Các hình thức nhập khẩu. - Hanximex là công ty vừa có giây phép nhập khẩu trực tiếp phục vụ cho nhu cầu của mình vừa có giấy phép nhạp khẩu uỷ thác cho cac đơn vị khác . Nhập khẩu đối lưu it được sử dụng vì chưa có bạn hàng lâu dài và các hợp đồng dài hạn .Nguyên do chủ yếu là do sư biến động về giá của thị trường trong nước và thế giới . Hình thức này gây nên nhiều chi phí cho việc giao dịch ,thoả thuận khi tình huống biến động trên thị trường có ảnh hưởng không tốt đến cả hai bên. Hai hình thức nhập khẩu chủ yếu của công ty :nhập khẩu trực tiếp và nhập khẩu uỷ thác +Nhập khẩu trưc tiếp: nhân viên phòng knh doanh xuất nhập khẩu tự tìm bạn hàng ,mặt hàng mà minh có nhu cầu.Thông qua các đơn chào hàng có thể quyết định kí kết hợp đồng mua và thực hiện hợp đồng đã kí. +Nhập khẩu uỷ thác: -Nhân viên phòng xuất nhập khẩu sau khi nhận hợp đồng uỷ thác , căn cứ vào khả năng ,cơ sở của công ty mà quyết định có kí hợp đồng hay không kí hợp đồng. -Phòng nhập khẩu có trách nhiệm liên lạc với bên nước ngoài thoả thuận về hợp đồng,.nhận hàng ,chở hàng cho người uỷ thác -Thông thường ,ngoài các chi phí về bốc dỡ ,thuế nhập khẩu thi bên uỷ thác phải trả cho công ty từ 0,5-2% giá trị hợp đồng. Tổng giá trị của hoạt động uỷ thác chiếm 30-35% tổng giá tri hợp đồng của công ty. 1.2.Cơ sơ giao hành thường dùng tại Hancimex. - Cũng như các công ty nhập khâu khác, Hancimex thường sử dụng các cơ sở giao hàng thông dụng là CIF,CFR....Giá FOB hầu như không được sử dụng bởi có thể thói quen hoặc gặp khó khăn trong hợp đồng thuê tàu. Ơ Hancimex giá CIF được sử dung phổ biến nhất. 1.3.Đàm phán kí kết hợp đồng. ở Hancimex có một bộ phận chuẩn bị dự án nghiên cứu thị trương không chỉ thông qua kinh nghiệm của cán bộ xuất nhập khẩu mà còn phải dựa trên các thông tin thực tế thập. - Hợp đồng nhập khẩu được kí kết theo phương thức bên nước ngoài gửi đơn chào hàng hoặc chào hàng qua điên thoại .nếu công ty chấp nhận giá hoặc thoả thuận giá và các điều kiện khác thì đối tác nước ngoài sẽ fax bản hợp đồng đã kí sẵn cho công ty.Nếuchấp nhận hợp đồng ,không còn sửa chữa thi sẽ kí vào một bên ,hợp đồng coi nhu được kí vào ngày nhận fax .Và hợp đồng sẽ được thực hiện như thông thường. - Có hai loại kí kết hợp đồng: + Kí kết hợp đồng trực tiếp: thường được kí kết trong trường hợp đó là những thương vụ khó ,có giá trị lớn yêu cầu phải có người có thẩm quyền ( giám đốc ,phó giám đốc hoăc trưởng phòng ) tham gia giải quyết +Kí kết hợp đồng gián tiếp : áp dụng khi có mối quan hệ làm ăn lâu dài ,có uy tín. 1.4.Hoạt động thanh toán. -Sau khi kí kết hợp đồng,trong thời gian mở L/C phòng xuất nhập khẩu sẽ gửi bộ chứng từ -Thanh toán hợp đồng nhập khẩu được thực hiện thông qua phương thức thư tín dụng (L/C). - Phòng xuất nhập khẩu gửi các chứng từ và hợp đồng có liên quan cho phòng kế toán tài vụ . Phòng này sẽ có nhiệm vụ gửi đơn xin mở L/C cho ngân hàng ( ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội-77 Lac Trung , quận Hai Bà Trưng ,Hà Nội.). Ngoaì ra , phải kiểm tra và đôn đốc việc mở L/C. -Phòng xuất nhập khẩu sẽ nhanh chóng kiểm tra nôi dung L/C và thông báo cho ngân hàng hai bên và ngươi xuất khẩu để xem nếu có gì không phù hợp thì sẽ tiến hành tu chỉnh L/C. - Đối với hợp đồng uỷ thác ,tuỳ theo hợp đồng mà công ty sẽ tự mở L/C hoặc bên uỷ thác sẽ mở L/C ,công ty chỉ phải theo dõi và đôn đốc việc mở L/C đúng theo thời hạn trong hợp đồng. Chi phí sẽ được kế toán ,tài vụ thanh toán với bên uỷ thác. 2.kinh doanh hàng sau khi nhập khẩu. - Nếu là hợp đồng uỷ thác: sau khi hàng đến cảng thì được vận chuyển đến công ty uỷ thác . -Nếu là hợp đồng trực tiếp: được lưu kho tại Hải Phòng hoặc vận chuyển về Hà Nội đẻ lưu kho thuận tiện cho việc giao dịch ,xuất hàng bán. -Việc kí kết hợp đồng bán trong nước sẽ được thực hiện bởi bộ phận kinh doanh nội địa. Hàng hoá sẽ được vận chuyển đến tận nơi hoặc do khách hàng tự vận chuyển. 3.Những tồn tại của hoạt động nhập khẩu. -Vốn nhập khẩu còn hạn chế.Chủ yếu sử dụng vốn vay ngân hàng nên tỉ suất lợi nhuận không cao. Đây cũng là tình trạng trung của các công ty nhập khẩu của nước ta. - Công tác thu thập và xử lý thông tin chưa có hiệu quả .Mặc dù nhận thức tầm quan trọng của việc nay nhưng công ty vẫn chưa có được hệ thống thu thập và xử lý thông tin riêng biệt .Công vệc này chỉ được thực hiện thông qua các nhân viên phòng xuất nhập khẩu, phòng dự án ,qua các đơn chào của các bạn hàng nước ngoài hoặc của một số công ty trong nước . Các thông tin thu thập thường hạn chế tản mạn, đến chậm hoặc không đến được người cần sử dụng. Chính vì vậy, các thông tin này chỉ được sử dụng trong phạm vi hẹp hoặc chưa được sử dụng hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. - Các hình thức nhập khẩu chưa đa dạng .Chủ yếu là nhập khẩu trực tiếp và nhập khẩu uỷ thác. Tuy kí được nhiều hợp đồng nhưng lại thu được lơi nhuận không cao do môi một hợp đồng uỷ thác nhưng ta chi thu được từ 0.5-1.2% giá trị hợp đồng nhập khẩu.Vì vậy kim ngạch cao nhưng lợi nhuận thấp. - Do có nhiều phòng kinh doanh và nhiều cửa hàng cùng tham gia vào hoạt động nhập khẩu nên mặt hàng nhập khẩu có nhiều loại nên việc quản lí gây nhiều khó khăn. Kết luận Hoạt động xuất nhập khẩu ở nước ta hiện nay đã và đang phát triển một cách vượt bậc trong những năm gần đây .Chính sách nhà nước trong lĩnh vực này cũng dần thay đổi cho phù hợp hơn với xu thế của đất nước, tiến trình tự do hoá thương mại của khu vực ,tham gia vào quá trình hội nhập với thế giới. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng bắt đầu nhậy bén hơn với tình hình kinh tế đặc biệt là thông tin có liên quan đến ngành,lĩnh vực mình hoạt động. Chính vì vậy ,muốn thành công trên thị trường thế giới thì phải đòi hỏi sự cố gắng nỗ lực của từng công ty ,doanh nghệp cũng như các thành viên trong công ty doanh nghiệp đó

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfzfdxgfv_0662.pdf
Luận văn liên quan