Với mong muốn góp phần hạn chế tình trạng hủy PQTT một
cách thiếu thuyết phục và gây quan ngại đối với xã hội như hiện hay,
Luận án tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng các quy định của
pháp luật hiện hành về hủy PQTT trong mối tương quan với thực tiễn
xã hội Việt Nam, với pháp luật quốc tế và từ đó đề xuất những giải
pháp cụ thể. Theo đó, Luận án đã tập trung làm rõ các nội dung sau:
Thứ nhất, Luận án đã khái quát được tình hình nghiên cứu trong
và ngoài nước về huỷ PQTT qua đó chỉ ra những giá trị tích cực đã đạt
được và những vấn đề còn bỏ ngỏ chưa được nghiên cứu để làm cơ sở
định hướng nghiên cứu cho Luận án. Đặc biệt chỉ ra được tính cấp
thiết của việc nghiên cứu đề tài này đối với công tác lập pháp và áp
dụng pháp luật trong thời gian gần đây để hạn chế tình trạng hủy
PQTT thiếu thuyết phục và tăng đột biến.
39 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 4909 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu [Tóm tắt] Luận án Hủy phán quyết trọng tài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huyết nghiên cứu thứ tư: Việt Nam có thể học hỏi gì từ
kinh nghiệm của các nước để hạn chế tình trạng hủy PQTT đang ngày
một gia tăng?
Kết quả nghiên cứu: Trên cơ sở luận giải cho những giả thuyết
nghiên cứu ở trên và chỉ ra những điểm bất cập trong các quy định của
pháp luật Việt Nam về hủy PQTT cũng như làm rõ những khó khăn,
những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng đồng thời tham khảo kinh
nghiệm của các nước trong vấn đề này, Luận án đưa ra các luận cứ
khoa học và các đề xuất cụ thể để hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
hủy PQTT và qua đó góp phần, một mặt làm giảm tình trạng hủy
PQTT trong thời gian tới, đảm bảo giá trị hiệu lực, tính khả thi của
PQTT, mặt khác tăng cường niềm tin của các doanh nghiệp trong
nước và các doanh nghiệp nước ngoài trong việc giải quyết tranh chấp
về kinh doanh thương mại tại các Trung tâm trọng tài ở Việt Nam.
1.2.3. Lý thuyết nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở lý thuyết liên ngành khoa học xã hội, đó
là mối quan hệ biện chứng giữa pháp luật và kinh tế, giữa cái chung và
cái riêng, giữa ý thức xã hội và các tồn tại xã hội. Ngoài ra, Luận án
cũng dựa trên cơ sở lý thuyết của ngành luật học, đó là lý thuyết về vai
trò của Nhà nước, của cơ quan công quyền (như tòa án trong Luận án
này); về nhà nước pháp quyền, về mối quan hệ giữa quyền lực nhà
nước (chuyên chính giai cấp), cụ thể là quyền tư pháp (trong Luận án
này) với việc bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân (quyền của các
bên tranh chấp, của trọng tài trong Luận án này). Bên cạnh đó, các cơ
sở lý thuyết của pháp luật chuyên ngành cũng được Luận án chú
trọng, cụ thể gồm: lý thuyết pháp luật, lý thuyết pháp lý Mác-xít, lý
thuyết luật học phê phán
1.2.4. Hướng tiếp cận của đề tài nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu cụ thể những quy định của pháp
luật về hủy PQTT và thực tiễn thực thi hành ở Việt Nam. Khi nghiên
cứu vấn đề hủy PQTT, Luận án phân tích, từ góc độ luật kinh tế, cả cơ
10
sở lý luận và cả thực tiễn áp dụng pháp luật về hủy PQTT, làm rõ việc
hủy PQTT có những ảnh hưởng như thế nào đến lợi ích kinh tế của
doanh nghiệp, của các tổ chức trọng tài và của xã hội.
Luận án cũng phân tích từ góc độ pháp luật kinh tế, có so sánh,
pháp luật của một số nước và cả thực tiễn hủy PQTT tại các nước đó
để có cơ sở đánh giá về thực trạng pháp luật Việt Nam về hủy PQTT.
Chương 2
TỔNG QUAN VỀ HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI
2.1. Khái niệm, bản chất và ý nghĩa của việc hủy phán quyết
trọng tài
2.1.1. Khái niệm về phán quyết trọng tài và hủy phán quyết trọng tài
2.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của phán quyết trọng tài
Theo quy định tại khoản 10 Điều 3 Luật TTTM 2010: “Phán
quyết trọng tài là quyết định của Hội đồng Trọng tài giải quyết toàn bộ
nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài”. Với khái niệm
này, PQTT có một số đặc điểm sau:
- PQTT là quyết định giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp và chấm
dứt tố tụng trọng tài của Hội đồng trọng tài (“HĐTT”).
- PQTT là chung thẩm và có hiệu lực ràng buộc đối với các bên.
- PQTT không thể được trình bày một cách tùy tiện mà phải tuân
theo một quy định chung về hình thức văn bản cũng như nội dung theo
quy định của pháp luật.
2.1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của hủy phán quyết trọng tài
Hủy PQTT là một chế định của pháp luật TTTM, theo đó, một
trong các bên tranh chấp được quyền yêu cầu tòa án bác PQTT nếu có
đủ căn cứ chứng minh rằng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong
những trường hợp bị hủy theo quy định của pháp luật.
Hủy PQTT có một số đặc điểm dưới đây:
- PQTT có giá trị chung thẩm.
- PQTT chỉ có thể bị hủy nếu thỏa mãn các quy định liên quan
đến căn cứ hủy PQTT theo quy định của pháp luật TTTM.
- Việc hủy PQTT phải tuân theo một trình tự và thủ tục chặt chẽ
11
do pháp luật quy định.
- Cùng với quyết định hủy PQTT của tòa án, hàng loạt hệ quả
sẽ phát sinh liên quan đến rất nhiều đối tượng như các bên tranh chấp,
tổ chức trọng tài, HĐTT hoặc TTV duy nhất giải quyết vụ việc
2.1.2. Bản chất và ý nghĩa của hủy phán quyết trọng tài
Bản chất của việc hủy PQTT là PQTT đó sẽ bị hủy bỏ và
không có hiệu lực thi hành đối với các bên tranh chấp. Ý nghĩa tích
cực của việc hủy PQTT thể hiện ở chỗ việc hủy PQTT buộc tòa án
phải cẩn trọng xem xét lại PQTT, xem xét kỹ đơn đề nghị hủy, xem
xét từng căn cứ hủy và nếu PQTT đã vi phạm pháp luật, tức là có đủ
căn cứ để tuyên hủy thì tòa án phải tuyên hủy PQTT. Tuy nhiên, việc
hủy PQTT cũng có ý nghĩa tiêu cực: Với những PQTT bị hủy bỏ toàn
bộ, việc hủy bỏ PQTT sẽ có tác động tiêu cực trước hết là đối với bên
thắng kiện, cũng tức là bên mà khi PQTT được thực thi sẽ có lợi cho
họ, bởi vì điều mà họ chờ đợi khi PQTT được thi hành sẽ không còn
và nếu muốn bảo vệ quan điểm của mình thì họ lại phải bắt đầu một
thủ tục mới kéo dài, tốn kém về cả thời gian và công sức là khởi kiện
ra tòa án và điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp: phá vỡ chiến lược và kế hoạch kinh doanh, xáo trộn
về công việc, ách tắc về tài chính uy tín và thương hiệu bị ảnh
hưởng.
2.2. Nguyên nhân của việc hủy phán quyết trọng tài
2.2.1. Do bất cập của pháp luật
Là một chế định của pháp luật về trọng tài, các quy định của
pháp luật về hủy PQTT được ban hành liên quan đến hiệu lực của
PQTT, căn cứ hủy PQTT, thủ tục hủy PQTT và những quy định này
được đặt trong mối quan hệ mật thiết với các quy định về thẩm quyền
của trọng tài và của HĐTT; các quy định về hình thức và nội dung của
TTTT; các quy định về TTTT vô hiệu; các quy định về quy trình và tố
tụng trọng tài, do đó việc quy định không rõ ràng, không đầy đủ hay
thiếu cụ thể về những vấn đề này cũng sẽ là nguyên nhân dẫn đến sự
gia tăng yêu cầu hủy PQTT và cũng là nguyên nhân khiến cho tòa án
dễ dàng tùy tiện hủy PQTT do việc xem xét căn cứ hủy PQTT trở nên
12
khó khăn trong thực tiễn áp dụng.
2.2.2. Do xung đột lợi ích của các bên tranh chấp
Trong thực tế, không ít trường hợp bên thua kiện không tự
nguyện thi hành PQTT, ngược lại, họ tìm mọi cách để yêu cầu tòa án
hủy PQTT với hy vọng rằng PQTT sẽ bị hủy và như vậy họ sẽ thoát
khỏi việc phải thi hành PQTT mà PQTT đó bất lợi cho mình. Tuy
nhiên, vẫn có trường hợp bên thắng kiện muốn hủy PQTT. Đó là khi
mà họ không hài lòng với PQTT được tuyên vì cho rằng lợi ích của
mình vẫn chưa được bù đắp thỏa đáng theo quan điểm của họ so với
bên thua kiện. Cuối cùng, cũng không loại trừ trường hợp cả hai bên,
cả bên thắng và bên thua đều không thỏa mãn với PQTT và do đó, cả
hai bên đều tìm cách để hủy PQTT với hy vọng tìm kiếm một cơ chế
bảo vệ tốt hơn lợi ích của mình.
Như vậy, chính sự xung đột về lợi ích của các bên tranh chấp là
một trong những nguyên nhân phổ biến dẫn đến tình trạng yêu cầu
hủy PQTT.
2.2.3. Do năng lực chuyên môn của thẩm phán và trọng tài viên
Về năng lực chuyên môn của TTV. Hiện nay, nội dung, hình
thức cũng như chất lượng của PQTT phụ thuộc vào trình độ, sự hiểu
biết, kỹ năng cũng như năng lực của TTV. Một cách tổng quan nhất,
năng lực chuyên môn của TTV được đánh giá thông qua các tiêu
chuẩn nhất định, như tiêu chuẩn về đạo đức, tiêu chuẩn về trình độ và
kỹ năng, tiêu chuẩn về kinh nghiệm. Điều này đặt ra yêu cầu là TTV
phải đáp ứng các tiêu chuẩn để làm TTV. Như vậy, nếu TTV không
đáp ứng tiêu chuẩn về đạo đức, về tính độc lập, vô tư của TTV hoặc
không thực hiện nghĩa vụ giải trình để chứng minh về sự vô tư của
mình thì đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến hủy PQTT và là
nguyên nhân chủ quan do bản thân TTV gây ra.
Năng lực chuyên môn của thẩm phán cũng là một trong những
nguyên nhân của hủy PQTT, bởi vì nếu các thẩm phán không am hiểu
về trọng tài, pháp luật về trọng tài và đặc thù của việc giải quyết tranh
chấp tại trọng tài thì việc hủy PQTT có thể sẽ được xem xét một cách
không thỏa đáng.
13
Bên cạnh đó, khi bên bị thua kiện trong PQTT cố tình tìm cách
để yêu cầu hủy PQTT đối với những PQTT bất lợi cho họ bị hủy, họ
sẽ tìm mọi cách tiếp cận với thẩm phán và có thể sử dụng cả nghệ
thuật “đi đêm”, điều này cũng sẽ đẩy các thẩm phán vào tình trạng
“khó” và từ đó ảnh hưởng đến việc ra quyết định hủy PQTT. Ngoài ra,
có một vấn đề liên quan đến nguyên nhân chủ quan, đó là về nhận
thức của thẩm phán. Ví dụ, ở Việt Nam vẫn tồn tại tình trạng là thẩm
phán không thiện chí với trọng tài, không thiện chí với HĐTT, với các
TTV vì cho rằng trọng tài ra đời sẽ cản trở việc giải quyết tranh chấp
tại tòa án, đặc biệt là tranh chấp trong KDTM và do đó trong tư duy và
nhận thức của thẩm phán thiên về hủy PQTT hơn là phải xem xét để
nó không bị hủy.
2.3. Pháp luật điều chỉnh hủy phán quyết trọng tài
2.2.4. Khái niệm về pháp luật điều chỉnh hủy phán quyết trọng tài
Hủy PQTT là một chế định đặc biệt trong pháp luật trọng tài.
Đặc biệt vì dù nằm trong luật trọng tài nhưng nó lại đưa ra các quy
định liên quan đến tòa án theo hướng trao khá nhiều quyền cho tòa án
trong việc hủy PQTT: tòa án có thẩm quyền xem xét đơn yêu cầu hủy
PQTT; tòa án có thẩm quyền ra quyết định hủy một phần hoặc toàn bộ
PQTT; tòa án có quyền trả lại PQTT để các TTV xem xét lại Như
vậy, chế định này đóng vai trò quan trọng không thể thiếu và trở thành
nội dung quan trọng của pháp luật trọng tài. Đó là các quy định về hủy
PQTT, cũng tức là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ liên quan đến việc hủy PQTT.
Như vậy, pháp luật điều chỉnh hủy PQTT là tập hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan đến hủy PQTT. Đó
là quan hệ giữa tòa án (bộ máy tư pháp của Nhà nước) với trọng tài (tổ
chức phi nhà nước); giữa HĐTT, các TTV với các thẩm phán; giữa tòa
án, trọng tài, thẩm phán, HĐTT, các thẩm phán và các TTV với các
bên tranh chấp. Đây là những quan hệ có liên quan đến nhiều vấn đề
của hủy PQTT đòi hỏi phải được pháp luật điều chỉnh nhằm tạo khung
pháp luật phù hợp cho việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài nói
chung và hủy PQTT nói riêng.
14
2.2.5. Đặc điểm của pháp luật điều chỉnh hủy phán quyết trọng tài.
Pháp luật điều chỉnh hủy PQTT có hai đặc điểm chủ yếu dưới
đây:
Thứ nhất, pháp luật điều chỉnh hủy phán quyết trọng tài là lĩnh
vực luật tư.
Thứ hai, pháp luật điều chỉnh hủy phán quyết trọng tài là luật
hình thức.
2.3. Nội dung của pháp luật điều chỉnh hủy phán quyết trọng tài
Nội dung của pháp luật điều chỉnh hủy PQTT bao gồm hệ thống
các quy định về hủy PQTT. Đó là các quy định về căn cứ hủy PQTT;
về thẩm quyền của trọng tài và HĐTT; về thỏa thuận trọng tài (TTTT)
vô hiệu; về quyền yêu cầu hủy PQTT của các bên; về hình thức, nội
dung và thời hạn nộp đơn yêu cầu hủy PQTT; về quy trình, thủ tục
hủy PQTT; về quyền và nghĩa vụ của bên yêu cầu hủy PQTT; về tòa
án có thẩm quyền hủy PQTT và những quy định về quyền, nghĩa vụ
của tòa án trong việc hủy PQTT Như vậy, nội dung của pháp luật về
hủy PQTT bao gồm nhiều vấn đề với nhiều quy định cụ thể và đa
dạng.
Chương 3
CĂN CỨ HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI
3.1. Không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô
hiệu
Từ những phân tích về điểm tích cực và hạn chế trong quy định
về căn cứ hủy PQTT do không có TTTT hoặc TTTT vô hiệu cũng như
thực tiễn thực thi căn cứ này tại Việt Nam trong thời gian qua, NCS đề
xuất 03 giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt
Nam về căn cứ hủy PQTT này.
Thứ hai, bổ sung cơ chế giám sát tòa án trong việc hủy PQTT
Thứ ba, có chế tài xử lý đủ mạnh về kinh tế để loại bỏ và hạn
chế tình trạng thẩm phán vận dụng sai các quy định của pháp luật về
hủy PQTT.
15
3.2. Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng
tài, phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của
Hội đồng trọng tài
3.2.1. Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng
tài
Căn cứ này được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 68 Luật
TTTM 2010. Tuy nhiên, Luật TTTM 2010 không hướng dẫn cụ thể
những tranh chấp như thế nào sẽ không thuộc thẩm quyền của HĐTT.
Kiến nghị:
Cần phải sửa lại Nghị quyết 01/2014 theo hướng loại bỏ sự
“dẫn chiếu qua lại”, thay vào đó là nên đưa ra hướng dẫn cụ thể bằng
cách chỉ rõ những trường hợp như thế nào được coi là không thuộc
thẩm quyền của trọng tài, của HĐTT.
3.2.2. Phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền
của Hội đồng trọng tài thì nội dung đó bị hủy
Đây là căn cứ hủy PQTT mới được đưa vào Luật TTTM 2010
và tác giả cho rằng quy định này phù hợp với thực tiễn vì một mặt, nó
mở rộng thêm căn cứ hủy PQTT để các bên tranh chấp yêu cầu mặt
khác, nó cũng buộc các TTV phải nâng cao kỹ năng và cẩn trọng khi
công bố PQTT, bởi vì nếu PQTT có nội dung không thuộc thẩm
quyền của HĐTT thì nội dung đó sẽ bị hủy.
3.3. Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài
không phù hợp với thỏa thuận của các bên hoặc trái quy định của
pháp luật
3.3.1. Thành phần Hội đồng trọng tài không phù hợp với thỏa
thuận của các bên hoặc trái với quy định của Luật Trọng tài thương
mại
Căn cứ này được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 68 Luật
TTTM 2010 và được giải thích cụ thể tại điểm b khoản 2 Điều 14
Nghị quyết 01/2014. Theo đó, PQTT bị hủy trong trường hợp các bên
có thỏa thuận về thành phần HĐTT, quy tắc tố tụng trọng tài nhưng
HĐTT thực hiện không đúng thỏa thuận của các bên hoặc HĐTT thực
hiện không đúng quy định Luật TTTM 2010 mà tòa án xét thấy đó là
16
những vi phạm nghiêm trọng và cần phải hủy nếu HĐTT không thể khắc
phục được hoặc không khắc phục theo yêu cầu của tòa án.
Vấn đề đặt ra là thế nào là vi phạm nghiêm trọng? Quy định hiện
hành không có sự giải thích rõ ràng và việc xem xét đến tính nghiêm trọng
của sự vi phạm sẽ thuộc thẩm quyền của tòa án. Điều này sẽ cho phép
tòa án được “tự do” xác định, nếu tòa án “xét thấy” vi phạm đó là
nghiêm trọng thì đó sẽ là “vi phạm nghiêm trọng” mà không có một
căn cứ “trực quan” nào nên cũng sẽ dễ tạo cơ sở để tòa án có thể lạm
quyền.
Kiến nghị:
Từ những phân tích này, tác giả đề xuất giải pháp sửa đổi Luật
TTTM 2010 như của Pháp và kiến nghị bổ sung vào điểm b khoản 2
Điều 68 nội dung cụ thể như sau:“Nếu thành phần của HĐTT được thực
hiện phù hợp với thỏa thuận của các bên nhưng trái với quy định của Luật
TTTM 2010 (tức TTTT trái với quy định của pháp luật) và điều này có
ảnh hưởng tới PQTT thì đây là căn cứ để hủy PQTT”.
3.3.2. Thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của
các bên hoặc trái quy định của Luật Trọng tài thương mại
Căn cứ này được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 68 Luật
TTTM 2010. Một số thủ tục tố tụng trọng tài thường bị vi phạm trong
thực tế và là căn cứ để PQTT phổ biến hiện nay có thể kể đến như:
thông báo của HĐTT gửi cho bị đơn không phải là giấy triệu tập hay
việc tống đạt văn bản của HĐTT bị tòa án cho là “chưa hợp lệ”; việc
triệu tập người làm chứng tham gia tố tụng trọng tài; việc đưa người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng tố tụng Thông qua
việc phân tích một số vụ việc thực tiễn có liên quan đến hủy PQTT do
thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận các bên hoặc
trái luật, Luận án cũng đã phần nào làm rõ hơn thực tiễn áp dụng quy
định của pháp luật về vấn đề này cũng như phân tích một số nguyên
nhân của tình trạng này trong thực tế.
17
3.4. Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ
vào đó để ra phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài
sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh
hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài
3.4.1. Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ
vào đó để ra phán quyết là giả mạo
Căn cứ này được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 68 Luật
TTTM 2010 và được hướng dẫn cụ thể tại điểm d khoản 2 Điều 14
Nghị quyết 01/2014. Theo đó, nếu “chứng cứ do các bên cung cấp mà
Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo” thì đây
sẽ là căn cứ để tòa án hủy PQTT.
Từ quy định trên của pháp luật hiện hành, nhận thấy, tòa án chỉ huỷ
PQTT dựa trên căn cứ liên quan đến “chứng cứ giả mạo” nếu có đủ
hai điều kiện.
Điều kiện 1: Có “chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó”.
Điều kiện 2: Chứng cứ đó phải có liên quan đến việc ra phán
quyết, có ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của PQTT.
Tuy nhiên, có thể thấy, để chứng cứ đang bị xem xét tính giả mạo
có thể ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của PQTT thì đương
nhiên chứng cứ đó phải “có liên quan đến” việc ra phán quyết. Do đó, ở
điều kiện 2 này, Nghị quyết 01/2014 không cần thiết phải sử dụng thêm
cụm từ “ có liên quan đến việc ra phán quyết trọng tài” để làm dài
dòng và rắc rối về mặt hành văn của điều luật. Việc ghi nhận trường
hợp hủy PQTT do sử dụng chứng cứ giả mạo của pháp luật Việt Nam
là cần thiết vì quy định này cho phép tòa án kiểm tra lại tính xác thực
và đúng đắn của các chứng cứ mà HĐTT dựa vào để ra PQTT. Tuy
nhiên, pháp luật cũng cần có các “chuẩn mực nghiêm ngặt hơn” cho
việc hủy bỏ một PQTT dựa trên cơ sở của chứng cứ giả mạo nhằm
đảm bảo “các lập luận đó không trở thành biện pháp cửa hậu cho việc
công kích nội dung lập luận của Trọng tài và phán quyết”1.
1 Gary B. Born (2009), International commercial arbitration, tlđd, tr. 2633.
18
3.4.2. Trọng tài viên nhận tiền hoặc các lợi ích vật chất khác làm
ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng
tài
Căn cứ này cũng được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 68
Luật TTTM 2010, theo đó PQTT sẽ bị hủy nếu “Trọng tài viên nhận
tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm
ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài”.
Căn cứ này cũng được ghi nhận trong pháp luật của nhiều nước trên
thế giới.
Theo quy định trên, căn cứ hủy PQTT này yêu cầu phải đáp ứng
đủ 3 điều kiện.
Điều kiện 1: Đối tượng mà TTV nhận từ các bên chỉ là “tiền”,
“tài sản” và “lợi ích vật chất khác”.
Điều kiện 2: Chủ thể mang đến các lợi ích trên cho TTV là “một
bên tranh chấp”.
Điều kiện 3: Việc thực hiện hành vi hối lộ phải dẫn đến hệ quả
là “làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết
trọng tài”.
Tuy nhiên, 03 điều kiện theo quy định trên lại chưa toàn diện.
Quy định tại điểm d khoản 2 Điều 68 Luật TTTM 2010 nên được sửa
đổi như sau: “Trọng tài viên nhận lợi ích làm ảnh hưởng đến tính
khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài”.
3.5. Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật Việt Nam
Căn cứ này được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật
TTTM 2010, theo đó PQTT sẽ bị hủy nếu PQTT đó “trái với các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
Quy định hiện hành về “thế nào là các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam” cũng như “thế nào là xâm phạm nghiêm trọng lợi
ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của một hoặc các bên, của
người thứ ba” vẫn còn khá mơ hồ, thiếu cụ thể dẫn đến trong thực tiễn áp
dụng pháp luật, các tòa án khác nhau đưa ra những lập luận khác nhau về
căn cứ này để dựa vào đó hủy PQTT.
19
Kiến nghị:
- Cần bổ sung vào Nghị quyết 01/2014 các quy định giải thích
rõ thế nào là nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với
việc xây dựng và thực hiện pháp luật Việt Nam. Đồng thời, nên đưa
ra một số tiêu chí minh bạch để xác định một nguyên tắc có cơ bản
hay không, có hiệu lực bao trùm đối với việc xây dựng và thực hiện
pháp luật.
- Bổ sung quy định hướng dẫn cách hiểu về “xâm phạm nghiêm
trọng”.
- Nên thay thế cụm từ “người thứ ba” trong quy định tại điểm đ
khoản 2 Điều 14 của Nghị quyết 01/2014 thành “cá nhân, cơ quan,
tổ chức khác”.
- Nên thay thế cụm từ “phải xác định được” trong quy định tại
điểm đ khoản 2 Điều 14 của Nghị quyết 01/2014 thành cụm từ “phải
xem xét” để phù hợp tính chất hành vi mà tòa án sẽ thực hiện ở giai
đoạn này.
- Nên sửa quy định PQTT “trái với nguyên tắc cơ bản của pháp
luật Việt Nam” thành “trái với lợi ích công cộng” như cách quy định
của Pháp lệnh TTTM 2003.
Chương 4
TRÌNH TỰ, THỦ TỤC HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI
4.1. Trình tự, thủ tục yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
4.1.1. Người có quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Theo quy định tại khoản 1 Ðiều 68, khoản 1 Điều 69, khoản 3
Điều 3 Luật TTTM 2010 thì quyền yêu cầu tòa án tuyên hủy PQTT
chỉ trao cho “các bên tranh chấp”, tức hai chủ thể là nguyên đơn và bị
đơn. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những vấn đề sau:
- Trong vụ tranh chấp được giải quyết tại trọng tài không chỉ có
sự tham gia của các bên (tức nguyên đơn, bị đơn) mà còn có chủ thể
khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Do đó, cần bổ sung thêm một
20
chủ thể nữa cũng có quyền yêu cầu tòa án tuyên hủy PQTT, đó là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ tranh chấp.
- Về thoả thuận tự nguyện “hạn chế” quyền yêu cầu hủy PQTT,
pháp luật TTTM hiện hành chưa có quy định cụ thể. Việt Nam cũng
nên cho phép các bên thỏa thuận “không được” yêu cầu hủy PQTT
nếu PQTT không có nhu cầu thi hành tại Việt Nam.
- Về vấn đề lạm dụng quyền yêu cầu, Việt Nam cần xem xét,
học hỏi kinh nghiệm của Pháp, Hoa Kỳ để đưa ra cơ chế thích hợp
nhằm làm hạn chế tình trạng lạm dụng quyền yêu cầu theo hướng
buộc bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phát sinh từ việc chậm thi hành
PQTT nếu họ lạm dụng quyền yêu cầu hủy PQTT.
4.1.2. Ðơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Khoản 1 Điều 70 Luật TTTM 2010 quy định đơn yêu cầu tòa án
hủy PQTT phải có 03 nội dung (ngày, tháng, năm làm đơn; tên và địa
chỉ của bên có yêu cầu; yêu cầu và căn cứ hủy phán quyết trọng tài).
Thiết nghĩ, một đơn yêu cầu phù hợp, ngoài việc phải có 03 nội dung
như trên còn cần bổ sung những nội dung thiết yếu sau đây:
- Tên tòa án có thẩm quyền giải quyết đơn yêu cầu.
- Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến việc giải quyết
đơn yêu cầu (nếu có).
- Người yêu cầu là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; nếu là
doanh nghiệp thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký
tên; nếu là cơ quan, tổ chức khác thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ
chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn.
- Ngoài những nội dung thiết nghĩ là bắt buộc phải có trong đơn
yêu cầu tòa án hủy PQTT như đã nêu ở trên thì đơn yêu cầu nên có
thêm nội dung mang tính tùy nghi đó là “các thông tin khác mà người
yêu cầu xét thấy cần thiết cho việc giải quyết yêu cầu”.
4.1.3. Thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Được quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật TTTM 2010. Quy định
này đặt ra một số vấn đề cần lưu ý sau đây:
21
- Luật TTTM 2010 đã sử dụng cụm từ “làm đơn gửi tòa án có
thẩm quyền” chưa thật sự rõ nghĩa. Do đó, ở đây, nên bỏ từ “làm đơn
gửi” mà chỉ cần quy định “gửi đơn” là đủ.
- Cả Luật TTTM 2010 và Nghị quyết 01/2014 đều không có
quy định cụ thể về phương thức gửi đơn đến tòa án. Điều 190
BLTTDS 2015 quy định rất rõ và hợp lý. Tuy nhiên nên có quy định
mở rộng phạm vi áp dụng của quy định này để phương thức trên được
áp dụng đối với cả đơn yêu cầu trong việc dân sự. Đơn yêu cầu hủy
PQTT với tư cách là một việc dân sự khi đó cũng sẽ áp dụng quy chế
chung này tại BLTTDS.
4.1.4. Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Khoản 3 Điều 68 Luật TTTM 2010 quy định khoảng thời hạn
để cung cấp chứng cứ là quá ngắn. Ở đây, pháp luật TTTM nên học
hỏi quy định của BLTTDS. Theo đó, pháp luật trọng tài nên theo quy
định theo hướng chỉ cần gửi các chứng cứ ban đầu trước và có thể bổ
sung trong quá trình tố tụng. Đồng thời, bổ sung quy định hướng dẫn
thế nào là “lý do khách quan” để tránh những nhận định mang tính
chủ quan, tùy tiện của tòa án làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên.
Khi yêu cầu hủy PQTT, bên yêu cầu có thể viện dẫn những
quyết định cuối cùng để yêu cầu tòa án giải quyết lần nữa trong quá
trình yêu cầu hủy PQTT hay không? Thiết nghĩ, đối với quyết định
của Chủ tịch Trung tâm trọng tài thì có thể viện dẫn lại nhưng đối với
quyết định của tòa án thì không vì không cần thiết và không nên để
xảy ra tình trạng một vấn đề giải quyết tại tòa án hai lần và tránh việc
xét kéo dài thời gian giải quyết tại trọng tài.
4.1.5. Các giấy tờ, tài liệu kèm theo đơn yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài
Khoản 1 Ðiều 69, khoản 2 Ðiều 70 Luật TTTM 2010 quy
định về các tài liệu, chứng cứ phải gửi kèm theo đơn yêu cầu. Quy
định trên có một số vấn đề sau đây:
- Quy định này chỉ yêu cầu “dịch” các giấy tờ từ tiếng nước
ngoài sang tiếng Việt mà không yêu cầu ngược lại là phải “dịch” các
22
giấy tờ đó từ tiếng Việt ra tiếng nước ngoài; cũng không yêu cầu các
thủ tục khác như hợp thức hóa lãnh sự các loại giấy tờ đó... Thiết nghĩ,
quy định trên cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng như nói trên để
bảo vệ quyền lợi cho các bên.
- Theo quy định tại khoản 1 Điều 2, Điều 61 Luật Công chứng
2014 thì công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng hiện nay
được công chứng “bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng
nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt”. Do đó, để tạo
sự phù hợp và thống nhất trong hệ thống pháp luật, cần bổ sung thêm
cụm từ “công chứng” vào khoản 2 Điều 70 Luật TTTM 2010.
4.2. Trình tự, thủ tục liên quan đến thẩm quyền của tòa án trong
việc hủy phán quyết trọng tài
4.2.1. Xác định toà án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu huỷ phán
quyết trọng tài
Thẩm quyền của tòa án theo sự thỏa thuận
Theo quy định tại Điều 7 Luật TTTM 2010 và hướng dẫn tại
Điều 5 Nghị quyết 01/2014, các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn một
trong các TAND cấp tỉnh của Việt Nam để giải quyết yêu cầu huỷ
PQTT. Vấn đề được đặt ra ở đây là:
- Hình thức văn bản của thoả thuận: Thiết nghĩ, không nên hiểu
cứng nhắc hình thức văn bản ở đây bó hẹp theo nghĩa văn bản trên
giấy mà nên mở rộng khái niệm này tương tự như các hình thức quy
định tại khoản 2 Điều 16 Luật TTTM 2010. Thỏa thuận này có thể lập
thành văn bản riêng hay có thể xác lập dưới hình thức điều khoản
trong hợp đồng.
- Nguyên tắc lựa chọn tòa án có thẩm quyền: Pháp luật TTTM
chỉ nên ghi nhận nguyên tắc việc thỏa thuận lựa chọn tòa án đối với
hoạt động trọng tài phải đảm bảo nguyên tắc “chỉ có một tòa án có
thẩm quyền đối với một hoạt động trọng tài”.
Thẩm quyền của tòa án theo luật định
Đối với yêu cầu hủy PQTT, nếu các bên có thỏa thuận lựa chọn
tòa án có thẩm quyền nhưng lựa chọn sai; hoặc không có thỏa thuận
lựa chọn tòa án có thẩm quyền thì xác định tòa án có thẩm quyền theo
23
luật định. Ở đây, pháp luật TTTM nên ghi nhận nguyên tắc cho phép
áp dụng tương tự quy định của BLTTDS về trách nhiệm cung cấp, tài
liệu chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và quyền
đề nghị Toà án xác minh, thu thập tài liệu, chứng của vụ việc mà mình
không thể thực hiện được.
4.2.2. Xác định phạm vi thẩm quyền của Toà án trong giải quyết
yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài
Khoản 4 Điều 71 Luật TTTM 2010 và khoản 2 Điều 15 Nghị
quyết 01/2014 quy định về phạm vi Toà án được xem xét lại đối với
PQTT. Thiết nghĩ, cần giải thích rõ hơn nghĩa của từ “nội dung vụ
tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết” theo hướng sau: Khi
xét đơn yêu cầu, Hội đồng xét đơn không xét lại nội dung vụ tranh
chấp để đưa ra quyết định về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên mà
chỉ kiểm tra phán quyết trọng tài có thuộc một trong các trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật TTTM 2010 hay không.
4.2.3. Trình tự, thủ tục Tòa án nhận đơn, thành lập Hội đồng xét
đơn yêu cầu và chuẩn bị xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Liên quan đến vấn đề nhận đơn yêu cầu hủy PQTT thì không
thể không nhắc đến trường hợp bị trả lại đơn yêu cầu và yêu cầu sửa
đổi, bổ sung đơn yêu cầu. Nội dung này cũng không được pháp luật
TTTM quy định. Khoản 1 Điều 364 BLTTDS 2015 đã quy định về
các trường hợp trả lại đơn yêu cầu là hợp lý và phù hợp để áp dụng
đối với việc dân sự nói chung và Luật TTTM 2010 nên quy định các
trường hợp cụ thể như BLTTDS về trả lại đơn yêu cầu hủy PQTT.
Về vấn đề thụ lý đơn yêu cầu và chỉ định Hội đồng xét đơn yêu
cầu hủy phán quyết trọng tài
BLTTDS 2004 không có quy định về việc thụ lý đơn yêu cầu
mà chỉ quy định về thủ tục thụ lý vụ án dân sự. Tuy nhiên, BLTTDS
2015 đã có quy định bổ sung về vấn đề này.
- Phương thức thông báo thụ lý đơn yêu cầu của Toà án: Pháp
luật TTTM chưa có quy định về vấn đề này. Ở đây, nên quy định cụ
thể hình thức phải thực hiện trong trường hợp trên bằng văn bản nhằm
đảm bảo sự áp dụng pháp luật một cách thống nhất giữa các Tòa, tránh
24
sự tùy tiện dẫn đến những hệ quả pháp lý không mong muốn có thể
xảy ra.
- Về thời hạn chỉ định Hội đồng xét đơn yêu cầu và thông báo
thụ lý đơn yêu cầu, thiết nghĩ, Luật TTTM 2010 nên theo hướng quy
định của BLTTDS 2015 là giới hạn khoảng thời gian tối đa Tòa án
phải thông báo cho các chủ thể có liên quan.
- Nội dung của thông báo thụ lý đơn yêu cầu: Luật TTTM 2010
chỉ quy định Tòa án phải thông báo mà không cho biết phải thông báo
về việc gì và nội dung của thông báo gồm những vấn đề gì. Pháp luật
TTTM nên quy định kèm theo thông báo về việc thụ lý đơn yêu cầu,
Tòa án phải gửi bản sao các tài liệu, chứng cứ do người yêu cầu cung
cấp để trên cơ sở đó các chủ thể mới có thể thực hiện được quyền của
mình là đưa “ý kiến” đối với yêu cầu hủy PQTT của bên yêu cầu.
Về trình tự, thủ tục tòa án chuẩn bị xét đơn yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài
Theo quy định tại khoản 2 Điều 71 Luật TTTM 2010 thì trong
thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được chỉ định, Hội đồng xét đơn yêu cầu
phải mở phiên họp để xét đơn yêu cầu hủy PQTT. Thiết nghĩ, khoảng
thời gian quy định nêu trên là hợp lý nhưng trong thực tế, Tòa án lại
áp dụng chưa đúng quy định trên. Nguyên nhân của thực trạng này
không xuất phát từ quy định của pháp luật mà từ thực tế quản lý và áp
dụng pháp luật của cơ quan xét xử. Do đó, để khắc phục, cần có chế
tài cụ thể nếu cơ quan xét xử không thực thi đúng quy định của pháp
luật cũng như cần hoàn thiện lại hệ thống quản lý trong nội bộ cơ quan
xét xử đó.
4.2.4. Phiên họp của Hội đồng xét đơn yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài
Về mối liên hệ giữa khoản 3 và khoản 5 Điều 71 Luật TTTM
2010, dường như nhà làm luật đã có sự nhầm lẫn trong cách dùng từ
tại khoản 3 Điều 71 Luật TTTM 2010, theo đó, chủ thể được đề cập
đến tại khoản 3 Điều 71 Luật TTTM 2010 không phải là “một trong
các bên” mà sẽ là “bên không có yêu cầu” hủy PQTT, còn chủ thể đề
cập đến tại khoản 5 Điều 71 Luật TTTM 2010 là “bên có yêu cầu”.
25
Về việc hoãn phiên họp xét đơn yêu cầu hủy PQTT, nếu HĐTT
không tiến hành phiên họp xét đơn yêu cầu hoặc không ra quyết định
đình chỉ việc xét đơn yêu cầu hủy PQTT thì trường hợp này sẽ xử lý
như thế nào? BLTTDS đã quy định rất rõ về cơ chế xử lý trường hợp
này nên thiết nghĩ, pháp luật TTTM nên áp dụng quy định tương tự
quy định nêu trên của BLTTDS.
Về sự tham gia phiên họp xét đơn yêu cầu của Kiểm sát viên
Pháp luật TTTM nên học hỏi quy định của khoản 1 Điều 367
BLTTDS 2015 khi quy định về vấn đề này. Theo đó, nếu KSV vắng
mặt tại phiên họp xét đơn yêu cầu hủy PQTT thì Tòa án vẫn tiến hành
phiên họp để tạo nên sự hợp lý cũng như thống nhất với quy định của
BLTTDS 2015. Quy định này sẽ góp phần tăng trách nhiệm của KSV
và tạo thuận lợi cho Hội đồng xét đơn yêu cầu hủy PQTT làm việc
hiệu quả hơn.
Về quyền tham gia và sự tham gia phiên họp xét đơn yêu cầu
hủy phán quyết trọng tài của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Trong trường hợp việc giải quyết tranh chấp có sự tham gia của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì khi PQTT được ban hành
nhất định sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến quyền lợi, nghĩa vụ
của những người liên quan này. Thiết nghĩ, sẽ không công bằng và
hợp lý nếu không triệu tập chủ thể này tham gia phiên họp thế nên
khoản 3 Điều 71 Luật TTTM 2010 cần bổ sung thêm chủ thể này.
4.2.5. Tạm đình chỉ việc xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng
tài
Được quy định tại khoản 7 Điều 71 Luật TTTM 2010 và khoản
2, 3 Điều 15 Nghị quyết 01/2014.
- Chủ thể có quyền yêu cầu tạm đình chỉ việc xem xét đơn yêu
cầu hủy PQTT: Nên bổ sung chủ thể có quyền yêu cầu hủy PQTT là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Thời điểm thực hiện quyền yêu cầu tạm đình chỉ việc xem xét
đơn yêu cầu hủy PQTT: Pháp luật TTTM hiện hành không cho biết
các chủ thể được thực hiện quyền này vào thời điểm nào. Thiết nghĩ,
26
nên quy định chủ thể có quyền được thực hiện quyền này từ sau thời
điểm Tòa án thụ lý đến tại phiên họp xét đơn yêu cầu.
- Hình thức thực hiện quyền yêu cầu tạm đình chỉ việc xem xét
đơn yêu cầu hủy PQTT: Thiết nghĩ, yêu cầu này của các chủ thể có
quyền phải được thực hiện bằng hình thức văn bản. Tuy nhiên, nếu
yêu cầu này được đưa ra tại phiên họp, yêu cầu này chỉ cần được ghi
vào biên bản phiên họp và có sự xác nhận hợp pháp của các chủ thể có
liên quan là đủ.
- Căn cứ để Hội đồng xét đơn yêu cầu xem xét tạm đình chỉ
việc xem xét đơn yêu cầu hủy PQTT: khoản 7 Điều 71 Luật TTTM
2010 tạo ra cách hiểu rằng HĐTT chỉ được “khắc phục sai sót tố tụng
trọng tài” chứ không phải là “khắc phục sai sót trong tố tụng trọng tài”
nên sẽ không có trường hợp HĐTT được phép khắc phục các sai sót
về mặt nội dung. Thiết nghĩ, quy định tại khoản 7 Điều 71 Luật TTTM
2010 nên sửa đổi theo hướng mở rộng một cách minh thị phạm vi áp
dụng cơ chế này không chỉ cho sai sót tố tụng mà cả cho sai sót khác.
- Hệ quả của việc tạm đình chỉ hoặc không tạm đình chỉ việc
xem xét đơn yêu cầu hủy PQTT: Khoản 7 Điều 71 Luật TTTM 2010
và khoản 2, 3, 4 Điều 15 Nghị quyết 01/2014 đã hướng dẫn rất cụ thể
về từng hệ quả của từng cách xử sự của Hội đồng xét đơn và HĐTT.
Nhưng quy định về thời hạn nêu trên có thể dẫn đến các cách hiểu
khác nhau. Về quy định này, nên hiểu theo hướng tòa án luôn quy
định thời hạn này là “không quá 60 ngày” nhưng bất kể thời điểm nào
trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày ban hành Quyết định tạm đình chỉ
(có thể là ngày thứ 15, ngày thứ 45, ngày thứ 60..) nếu HĐTT đã khắc
phục được sai sót theo quy định của pháp luật, tức lý do tạm đình chỉ
không còn thì tòa án sẽ tiếp tục giải quyết đơn yêu cầu.
4.2.6. Quyết định hủy phán quyết trọng tài của Tòa án
- Về tên gọi Quyết định về việc hủy PQTT, Nghị quyết 01/2014
đã quy định mẫu văn bản đính kèm để nhằm tạo sự áp dụng thống nhất
trong toàn hệ thống với mục tiêu là tính chuyên nghiệp nên rõ ràng, sự
linh hoạt trong tình huống này là không cần thiết và không nên. Do
27
đó, ngay cả trong việc đặt tên văn bản cũng nên có sự thống nhất giữa
các HĐTT khác nhau đối với loại việc này.
- Về việc nêu tên TTV trong Quyết định về việc hủy PQTT, do
trọng tài vụ việc không gắn được với một trung tâm nào nên việc nêu
tên TTV là cần thiết. Thế nhưng đối với PQTT của trung tâm trọng tài,
cần thấy, đối tượng bị yêu cầu hủy là PQTT chứ không phải là các
TTV đã ban hành PQTT nên để không ảnh hưởng tới uy tín của cá
nhân TTV, thiết nghĩ không nên quy định tòa án nêu đích danh TTV
đã ra phán quyết trong Quyết định về việc hủy PQTT mà chỉ cần nêu
số PQTT và tên của trung tâm là đủ.
4.2.7. Thủ tục gửi quyết định của Tòa án sau phiên họp xét đơn yêu
cầu và cơ chế giám sát
Sau khi tòa án đã ra quyết định, cần gửi quyết định này cho
những người có quyền và nghĩa vụ liên quan.
- Về khả năng quyết định hủy PQTT bị kháng cáo, kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm, việc cho rằng không cần thiết phải quy định
thủ tục phúc thẩm ở đây là có thể chấp nhận được và giải quyết phúc
thẩm cũng chỉ là giải quyết lại vụ việc đã được giải quyết ở cấp sơ
thẩm.
- Về khả năng quyết định hủy phán quyết trọng tài bị kháng
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, Luật TTTM 2010 không có điều khoản
nào ghi nhận về vấn đề này nên trên thực tế nảy sinh các hai luồng
quan điểm trái ngược nhau. Thiết nghĩ, nên có một quy định minh thị
rằng việc xem xét lại PQTT theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ
được thực hiện theo quy chung tại BLTTDS để đảm sự tuân thủ pháp
luật của tòa án trong hủy PQTT.
- Về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự liên quan đến yêu
cầu hủy PQTT, từ quy định tại mục 2 phần quyết định Mẫu số 08 ban
hành kèm theo Nghị quyết 01/2014, nhận thấy, các bên lẫn HĐTT đã
bị loại trừ quyền khiếu nại. Tuy nhiên, quy định này chỉ áp dụng đối
với việc khiếu nại quyết định hủy PQTT còn những khiếu nại khác
trong tố tụng dân sự liên quan đến quá trình giải quyết đơn yêu cầu
này các chủ thể vẫn có quyền được thực hiện theo quy định của pháp
28
luật tố tụng dân sự.
Chương 5
HỆ QUẢ PHÁP LÝ CỦA HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI
5.1. Khi phán quyết trọng tài bị hủy, những ưu điểm vượt trội của
trọng tài sẽ không hiện hữu
5.1.1. Hệ quả pháp lý đối với các bên tranh chấp
Khi PQTT bị hủy, tất cả những mục đích, những lợi ích mà
ngay từ lúc ban đầu các bên hướng đến khi thỏa thuận giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài sẽ không đạt được, khi đó các bên sẽ hoặc đưa
tranh chấp ra giải quyết trước trọng tài một lần nữa (bằng một TTTT
mới) hoặc sẽ phải giải quyết bằng tòa án. Việc này gây mất thời gian
và lãng phí tiền của cho cả bên thắng lẫn bên thua trong tranh chấp.
5.1.2. Hệ quả pháp lý đối với trọng tài
Theo quy định của Luật TTTM 2010, khi TTV vi phạm các thủ
tục tố tụng thì phán quyết bắt buộc phải bị hủy. Tuy nhiên, nếu phán
quyết bị hủy do các lý do khác như chứng cứ do các bên cung cấp là
giả mạo hoặc do TTTT vô hiệu (không do lỗi cố ý của TTV) thì hậu
quả “phán quyết vô hiệu” dường như khá nghiêm trọng đối với trọng
tài. Đặc biệt, khi pháp luật hiện hành lại không quy định cơ chế giám
sát đối với hoạt động hủy PQTT của tòa án, sự tùy tiện khi ban hành
các quyết định hủy PQTT của tòa án là không thể tránh khỏi. Điều này
đặt hoạt động trọng tài vào tình trạng vô định, các TTV phải xét xử
trong tình trạng “không biết phán quyết của mình sẽ bị hủy như thế
nào”. Không những thế, việc tòa án tuyên hủy PQTT trong nước khiến
hoạt động trọng tài bị giảm uy tín và hiệu quả, làm môi trường kinh
doanh, đầu tư của Việt Nam kém hấp dẫn hơn.
5.1.3. Hệ quả pháp lý đối với tòa án
Khi PQTT bị hủy, theo quy định tại khoản 10 Điều 71 Luật
TTTM 2010, một bên có quyền khởi kiện vụ án ra trước tòa án. Lúc
này, tình trạng quá tải của hệ thống tòa án vốn đã nghiêm trọng nay lại
càng nghiêm trọng hơn. Hơn nữa, quy định của pháp luật hiện hành về
29
vấn đề quyết định của tòa án về việc hủy PQTT có được giám đốc
thẩm, tái thẩm hay không vẫn chưa được rõ ràng, minh bạch. Điều này
làm cho các thẩm phán lúng túng khi có nhiều trường hợp sau khi
quyết định hủy phán quyết được ban hành, bên thắng trong tố tụng
trọng tài khiếu kiện quyết định hủy đó.
5.1.4. Hệ quả pháp lý đối với xã hội, doanh nghiệp
Trong quan hệ thương mại, khi tranh chấp nảy sinh giữa các
bên, nhằm hạn chế đến mức tối thiểu các thiệt hại về tiền bạc, thời
gian, các bên thường mong muốn được đưa tranh chấp ra giải quyết
trước trọng tài vì những lợi ích của hoạt động tố tụng trọng tài đã phân
tích ở trên. Tuy nhiên, phán quyết cuối cùng của trọng tài vẫn có thể
bị hủy đã khiến cho những mong muốn ban đầu của các bên không thể
đạt được.
Với quy định hiện hành về hệ quả pháp lý của việc hủy PQTT,
tâm lý e dè khi quyết định đầu tư vào thị trường trong nước của các
nhà đầu tư nước ngoài là không thể tránh khỏi mà điều này rõ ràng
gây ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế và xă hội .
5.2. Những bất cập của pháp luật và giải pháp
5.2.1. Những bất cập trong quy định của pháp luật về hệ quả pháp
lý của hủy phán quyết trọng tài
Quy định về hệ quả pháp lý của hủy PQTT được ghi nhận tại
khoản 8 Điều 71 Luật TTTM 2010. Sau 05 năm thi hành, quy định
này đã bộc lộ một số điểm hạn chế nhất định.
Thứ nhất, việc quy định khi PQTT bị hủy, các bên có thể thỏa
thuận lại để đưa vụ tranh chấp ra trước trọng tài không đảm bảo tính
khả thi.
Một khi các bên đã đưa vụ việc ra tranh chấp trước trọng tài và
đưa quyết định trọng tài ra trước tòa án thì các bên khó có thể cùng
nhau đạt được một TTTT nào nữa. Cách quy định này không khác nào
doanh nghiệp phải đi đường vòng để giải quyết một vụ tranh chấp đưa
ra trọng tài nhưng cuối cùng vẫn phải đến tòa án giải quyết. Ngoài ra,
nếu các bên thỏa thuận đưa vụ việc giải quyết bằng trọng tài lần thứ
hai thì vẫn không khác gì một vụ tranh chấp được giải quyết theo trình
30
tự lặp đi lặp lại làm tốn kém thời gian, chi phí gấp hai lần so với việc
đưa vụ việc đến tòa án ngay từ đầu.
Thứ hai, với quy định như hiện nay, khi PQTT bị tuyên hủy,
TTTT hợp pháp cũng không còn giá trị pháp lý nữa.
Thứ ba, việc quy định các bên phải giải quyết bằng con đường
tòa án đối với những trường hợp phán quyết bị hủy không xuất phát từ
lỗi của các bên sẽ đi ngược lại với ý chí và quyền tự định đoạt của các
bên; đồng thời, cách quy định này cũng không bảo vệ tốt nhất sự
thống nhất ý chí của các bên ngay cả khi các bên đã cùng thỏa thuận
chọn Trọng tài giải quyết các tranh chấp từ trước.
Thứ tư, việc quy định các bên có thể đưa vụ việc ra giải quyết
trước tòa án khi phán quyết bị hủy có khả năng làm vô hiệu hóa các
giá trị của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Thứ năm, việc quy định các bên có thể đưa tranh chấp ra tòa án
khi PQTT bị hủy có thể đi ngược lại với bản chất của hoạt động tố
tụng trọng tài là nhanh chóng, có hiệu lực ràng buộc với các bên, gây
mất thời gian cho các bên trong tranh chấp thương mại.
Thứ sáu, Luật TTTM 2010 không có quy định về việc nếu phán
quyết bị hủy do lỗi từ phía HĐTT mà các bên có thỏa thuận lại để đưa
vụ việc ra trước trọng tài lần nữa thì HĐTT đã ra phán quyết có buộc
phải từ chối xét xử hay không? Với cùng một vụ tranh chấp mà HĐTT
cũ đã có những sai phạm nhất định trong quá trình xét xử dẫn đến
phán quyết bị hủy thì khi các bên quyết định đưa vụ việc ra trước
trọng tài một lần nữa, liệu có gì đảm bảo HĐTT ấy sẽ không mắc phải
những sai sót tương tự? Nếu thật sự giữ nguyên thành phần HĐTT đã
ban hành phán quyết bị hủy, có khả năng lợi ích của các bên sẽ bị ảnh
hưởng nghiêm trọng.
Thứ bảy, Luật TTTM 2010 chưa quy định liệu nếu một PQTT
đã bị tòa án quốc gia tại đó hủy thì phán quyết ấy có được công nhận
và cho thi hành ở một quốc gia khác hay không.
5.2.2. Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn áp dụng và giải pháp
Xuất phát từ thực trạng quy định của pháp luật như trên, trong
quá trình áp dụng pháp luật đã nảy sinh một số vấn đề.
31
Thứ nhất, quy định hiện hành về hệ quả pháp lý của hủy PQTT
dẫn đến tình trạng lạm dụng quyền yêu cầu hủy PQTT trong thực tế.
Thứ hai, hiện nay có một số quốc gia công nhận và cho thi hành
quyết định của trọng tài nước ngoài đã bị hủy bởi cơ quan có thẩm
quyền của nước sở tại (như Pháp, Hoa Kỳ, Bỉ, Áo đã và đang cho
thi hành khá nhiều PQTT đã bị hủy ở nước gốc). Khả năng công nhận
và thi hành quyết định trọng tài đã bị hủy tại nước gốc được minh
chứng qua một loạt các án lệ nổi tiếng, trong đó đáng kể là các
vụ Hilmarton, Norsolor và Chromalloy cùng một số trường hợp khác
của các quốc gia Châu Âu cũng công nhận và cho thi hành những
PQTT đã bị hủy ở nước sở tại.
Xuất phát từ thực tiễn áp dụng pháp luật, Luận án này sẽ đề ra
một số kiến nghị như sau nhằm khắc phục những bất cập của quy định
hiện hành:
Thứ nhất, quy định “khi phán quyết trọng tài bị hủy, các bên có
thể thỏa thuận lại để đưa vụ việc ra giải quyết trước trọng tài” là
không khả thi. Do đó, nên loại bỏ quy định này ra khỏi Luật TTTM
2010.
Thứ hai, nên phân biệt rõ hai trường hợp: Khi việc hủy PQTT
xuất phát từ TTTT “nếu không có thỏa thuận khác thì các bên có
quyền đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại tòa án”; khi việc hủy
PQTT xuất phát từ lý do khác (TTV vi phạm thủ tục tố tụng) thì giữa
các bên vẫn tồn tại một TTTT hợp pháp nên chúng ta cần phải tôn
trọng. Ở đây, nếu vẫn có tranh chấp các bên có quyền đưa vụ tranh
chấp đó ra giải quyết tại trọng tài như thỏa thuận.
Thứ ba, khi PQTT bị hủy mà TTTT không bị vô hiệu, nếu tòa
án thụ lý vụ việc sẽ đi ngược lại với nguyên tắc tại khoản 1 Điều 5 và
Điều 6 Luật TTTM 2010. Để đảm bảo tính thống nhất với khoản 1
Điều 5 và Điều 6 Luật TTTM 2010, chúng ta nên bỏ quy định tại
khoản 8 Điều 71. Lúc này, chúng ta chỉ cần áp dụng khoản 1 Điều 5
và Điều 6 nêu trên là tranh chấp vẫn thuộc thẩm quyền của trọng tài
khi TTTT hợp pháp vẫn tồn tại.
32
Thứ tư, nên quy định trong Luật TTTM 2010 một điều khoản về
thủ tục xem xét lại quyết định hủy PQTT của tòa án nhằm đảm bảo
hơn nữa sự công bằng và khách quan trong quá trình áp dụng pháp
luật.
Thứ năm, Luật TTTM 2010 nên quy định theo tinh thần của
Điều 53 BLTTDS 2015. Theo đó, khi phán quyết bị hủy do lỗi từ phía
TTV, nếu các bên vẫn muốn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì
thành phần HĐTT lúc này phải không bao gồm các TTV đã tham gia
xét xử vụ việc đó.
Thứ sáu, nên có một điều khoản riêng trong Luật TTTM 2010
về việc công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước
ngoài đã bị hủy bởi tòa án nước gốc với tư cách là một quy định về
hậu quả pháp lý của hủy PQTT.
Thứ bảy, nên học hỏi kinh nghiệm của pháp luật một số quốc
gia trên thế giới như Thụy Sĩ, Anh, Hoa Kỳ khi quy định về hệ quả
pháp lý của hủy PQTT .
Bên cạnh đó, TAND tối cao cũng nên có bộ phận theo dõi việc
hủy PQTT nâng cao năng lực của các thẩm phán tại tòa án, tạo mối
quan hệ gần gũi giữa tòa án và trọng tài, doanh nghiệp; các tòa án địa
phương cũng nên có thẩm phán chuyên sâu chuyên giải quyết các vấn
đề liên quan đến trọng tài. Ngoài ra, việc tăng cường sức mạnh của
trung tâm trọng tài cũng là vấn đề đáng lưu ý nhằm đảm bảo hiệu lực
của PQTT.
KẾT LUẬN
Với mong muốn góp phần hạn chế tình trạng hủy PQTT một
cách thiếu thuyết phục và gây quan ngại đối với xã hội như hiện hay,
Luận án tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng các quy định của
pháp luật hiện hành về hủy PQTT trong mối tương quan với thực tiễn
xã hội Việt Nam, với pháp luật quốc tế và từ đó đề xuất những giải
pháp cụ thể. Theo đó, Luận án đã tập trung làm rõ các nội dung sau:
Thứ nhất, Luận án đã khái quát được tình hình nghiên cứu trong
và ngoài nước về huỷ PQTT qua đó chỉ ra những giá trị tích cực đã đạt
33
được và những vấn đề còn bỏ ngỏ chưa được nghiên cứu để làm cơ sở
định hướng nghiên cứu cho Luận án. Đặc biệt chỉ ra được tính cấp
thiết của việc nghiên cứu đề tài này đối với công tác lập pháp và áp
dụng pháp luật trong thời gian gần đây để hạn chế tình trạng hủy
PQTT thiếu thuyết phục và tăng đột biến.
Thứ hai, Luận án đã khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản như
khái niệm về PQTT, hủy PQTT, đặc điểm, bản chất và ý nghĩa của
hủy PQTT. Đồng thời, Luận án cũng phân tích để làm rõ bản chất và ý
nghĩa của hủy PQTT từ góc độ tiêu cực và tích cực đồng thời nêu ra
những nguyên nhân chủ yếu, cả khách quan và chủ quan, dẫn đến hủy
PQTT. Về khách quan, nguyên nhân dẫn đến hủy PQTT là do những
bất cập của pháp luật về hủy PQTT, như quy định còn chung chung về
một số căn cứ hủy PQTT dẫn đến tình trạng tùy tiện của tòa án khi áp
dụng... Trong số các nguyên nhân chủ quan, luận án phân tích nguyên
nhân về năng lực của TTV và về nhận thức cũng như năng lực của
thẩm phán.
Thứ ba, Luận án đã phân tích những vấn đề lý luận về căn cứ
hủy PQTT theo pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. Theo đó, các
quy định về căn cứ hủy PQTT theo pháp luật Việt Nam được phân
tích theo nội dung quy định tại Điều 68 Luật TTTM 2010 và hướng
dẫn tại Nghị quyết 01/2014. Đối với từng căn cứ hủy PQTT, Luận án
đã phân tích những hạn chế về mặt quy định trong văn bản, những bất
cập trong việc áp dụng và vận hành của tòa án khi xem xét hủy PQTT
từ đó đề xuất các nội dung sửa đổi cụ thể để thống nhất về cách hiểu
và vận dụng từ phía tòa án.
Thứ tư, về vấn đề liên quan đến trình tự, thủ tục hủy PQTT,
Luận án tập trung phân tích trình tự, thủ tục yêu cầu hủy PQTT và
trình tự, thủ tục liên quan đến thẩm quyền của tòa án trong việc hủy
PQTT. Theo đó, pháp luật Việt Nam nên thừa nhận thủ tục hủy PQTT
là thủ tục đối với vụ án dân sự có tính tranh chấp giữa các bên chứ
không phải chỉ thuần túy là việc dân sự. Ngoài ra, các vấn đề về việc
xác định tòa án có thẩm quyền và phạm vi thẩm quyền của tòa án; các
quy định về trình tự, thủ tục nộp đơn, nhận đơn, thụ lý đơn và xét đơn
34
yêu cầu đến khi ra quyết định cũng cần có sự điều chỉnh phù hợp hơn
để đảm bảo tính nhanh chóng của phương thức giải quyết tranh chấp
bằng Trọng tài.
Thứ năm, Luận án đã nêu lên được những vấn đề thực trạng
trong các quy định về hệ quả pháp lý của việc hủy PQTT và đưa ra
những kiến nghị cụ thể. Theo đó, để tránh việc một bên nào đó lạm
dụng quyền yêu cầu hủy PQTT vì bên này cho rằng tòa án sẽ có xu
hướng hủy các PQTT ít nhiều mang tính cảm tính trong khi các căn cứ
quy định chưa thật sự cụ thể và cách vận hành khác nhau trong thực
tiễn thì việc bỏ quy định liên quan đến việc sau khi hủy PQTT các bên
có thể đưa vụ kiện ra tòa án hoặc tiếp tục thỏa thuận ra trọng tài là một
việc nên làm. Ngoài ra, Luận án cũng đã đề xuất ghi nhận cơ chế giám
sát việc ra Quyết định hủy PQTT của tòa án và ghi nhận khả năng
giám đốc thẩm, tái thẩm của Quyết định này./.
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Phan Thông Anh (2015), “Xác định thẩm quyền của Tòa án nhân
dân đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài”, Dân chủ và Pháp
luật, 9 (282), tr. 39 – 43.
2. Phan Thông Anh (2015), “Căn cứ hủy phán quyết trọng tài liên
quan đến chứng cứ và sự khách quan của trọng tài viên trong tố
tụng trọng tài - bất cập và hướng hoàn thiện”, Khoa học pháp lý,
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, (6).
3. Phan Thông Anh (2016), “Mối quan hệ giữa năng lực của thẩm
phán, trọng tài viên và thực trạng hủy phán quyết trọng tài”, Xây
dựng pháp luật, 2 (287, tr. 19 – 24.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tt_huy_phan_quyet_trong_tai_3571.pdf