MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
I. Khái quát chung về BHXH và quỹ BHXH. . 3
1.1. Sự cần thiết khách quan của BHXH . 3
1.2. Quá trình phát triển của BHXH. 5
1.3. Bản chất của BHXH 16
1.4. Chức năng và tính chất của BHXH 16
1.5. Quỹ BHXH 16
II. Thực trạng công tac thu nộp quỹ BHXH Việt Nam trong thời
gian qua . 34
2.1. Quy định về thu nộp quỹ BHXH Việt Nam . 51
2.2. Tình hình thu nộp quỹ BHXH Việt Nam hiện nay. 60
2.3. Bài học kinh nghiệm rút ra từ hoạt động BHXH trong và ngoài
nước. 72
III. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp quỹ BHXH 72
3.1. Tăng cường công tác quản lý thu nộp BHXH. . 76
3.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm xã hội . 77
3.3. Công tác thông tin tuyên truyền về BHXH. . 78
3.4. Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ hiện đại hoá hoạt động ngành
BHXH. . 79
3.5. Mở rộng đối tượng tham gia và phạm vi BHXH. . 80
3.6. Nâng cao hiệu quả đầu tư nguồn quỹ nhàn rỗi. 81
3.7. Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý 82
3.8. Hợp tác trong nước và quốc tế về BHXH 83
Kết luận 85
Tài liệu tham khảo
89 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2666 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vấn đề thu nộp quỹ bảo hiểm xã hội trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản
danh sách đóng BHXH của đơn vi sử dụng lao động, trả lại cho
đơn vị sử dụng lao động 1 bản, 1 bản lưu tại cơ quan BHXH.
- Trường hợp chậm nộp BHXH hàng tháng thì số tiền nộp
chậm sẽ phải nộp phạt theo lãi suất tiền gửi ngắn hạn của Ngân
hàng tại thời điểm truy nộp là 0,7% tháng.
- Người lao động và đơn vị sử dụng lao động cố tình không
nộp BHXH theo đúng thời hạn và đủ mức theo quy định, thì cơ
quan BHXH thuộc hệ thống BHXH Việt Nam có quyền từ chối
việc chi trả các chế độ BHXH của tất cả người lao động thuộc đơn
vị đó; đồng thời báo cáo lên cơ quan BHXH cấp trên và thông báo
cho các cơ quan hữu quan để có biện pháp giải quyết.
- Bộ phận Kế toán - Tài chính thuộc BHXH các tỉnh, các
huyện thực hiện chuyển tiền thu BHXH lên BHXH cấp trên đúng
thời hạn theo quy định tại công văn số 193 CV/LN ngày 9/9/1995
của liên ngành BHXH Việt Nam và Kho bạc Nhà nước Trung
ương.
- Chế độ báo cáo thu BHXH:
+ Đ ình kỳ 10 ngày 1 lần vào các ngày 5, 15 hàng tháng, cơ
quan BHXH các huyện báo cáo về tình hình thu BHXH gửi về
BHXH tỉnh.
Đình kỳ 10 ngày 1 lần vào các ngày 7, 17 hàng tháng, BHXH
tỉnh tổng hợp số thu BHXH trên địa bàn báo cáo gửi về BHXH
Việt Nam.
+ Chậm nhất là ngày 28 hàng thàng, BHXH các huyện tổng
hợp, lập báo cáo về số thu BHXH trong tháng được xác định từ
ngày 26 của tháng trước đến ngày 25 của tháng báo cáo, có xác
60
nhận của cơ quan Kho bạc Nhà nước nơi mở tài khoản gửi về cho
BHXH tỉnh.
Cơ quan BHXH tỉnh, tổng hợp số thu trên toàn địa bàn trong
tháng được xác nhận từ ngày 29 của tháng trước đến ngày 28 của
tháng báo cáo có xác nhận của Kho bạc Nhà nước nơi mở tài
khoản, gửi về cho BHXH Việt Nam chậm nhất là ngày 30 hàng
tháng.
Riêng tháng 12 hàng năm số liệu được xác định đến hết ngày
31/12.
+ Chậm nhất là ngày 5 tháng 1 năm sau BHXH huyện phải
nộp báo cáo cho BHXH tỉnh về số thu BHXH năm trước có xác
nhận của cơ quan Kho bạc Nhà nước huỵện. BHXH tỉnh tổng hợp
báo cáo số thu BHXH trên toàn địa bàn trong năm có xác nhận của
cơ quan Kho bạc Nhà nước tỉnh gửi cho BHXH Việt Nam chậm
nhất là ngày 10/1 năm sau.
3. Tình hình thu nộp BHXH
3.1. Công tác thu nộp BHXH
Đây là nhiệm vụ được xác định là điều kiện tiên quyết cho
việc hình thành và tăng trưởng quỹ BHXH. Vì vậy ngay từ khi
mới thành lập, trên cơ sở những văn bản hướng dẫn hoạt động
BHXH và danh sách các đơn vị sử dụng lao động nhận bàn giao từ
cơ quan Lao động – Thương binh & xã hội, Tài chính, Liên đoàn
Lao động. BHXH các tỉnh, thành phố đã đã tập trung nắm tình
hình hoạt động và sử dụng lao động của các đơn vị có trong danh
sách được bàn giao, cũng như các đơn vị ngoài danh sách bàn giao
nhưng trong diện phải tham gia BHXH theo quy định của pháp
luật. Nhờ có sự cố gắng trên, toàn ngành BHXH Việt Nam đã đạt
được những thành tích nhất định, khẳng định được vị trí của mình,
khẳng định được sự tồn tại và phát triển thông qua các hoạt động
của ngành. Đó là số thu BHXH ngày một tăng, năm sau cao hơn
năm trước. Thể hiện:
3.1.1. Tình hình đóng BHXH của các đơn vị sử dụng lao
động
61
Theo quy định tại Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 và
Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995 của Chính phủ, các cơ quan
đơn vị doanh nghiệp thuộc diện đóng bắt buộc phải đóng BHXH
bằng 15% tổng quỹ lương của những người tham gia BHXH. Từ
quý IV/1995 đến năm 2000, tổng số tiền đóng BHXH là
14.765.691 triệu đồng, số liệu cụ thể các năm như sau:
- Quý IV/1995 : 296.250 triệu đồng.
- Năm 1996 : 1.927.300 triệu đồng.
- Năm 1997 : 2.584.208 triệu đồng.
- Năm 1998 : 2.906.967 triệu đồng.
- Năm 1999 : 3.139.541 triệu đồng.
- Năm 2000 : 3.911.425 triệu đồng.
3.1.2. Tình hình đóng BHXH của người lao động
Từ khi BHXH Việt Nam chính thức hoạt động(tháng 10/1995)
đến nay, tổng số tiền mà cơ quan BHXH đã thu được từ người lao
động là 4.921.896 triệu đồng, trong đó:
- Quý IV/1995 : 98.750 triệu đồng.
- Năm 1996 : 642.433 triệu đồng.
- Năm 1997 : 861.403 triệu đồng.
- Năm 1998 : 968.989 triệu đồng.
- Năm 1999 : 1.046.513 triệu đồng.
- Năm 2000 : 1.303.808 triều đồng.
3.1.3. Nguồn đóng và hỗ trợ thêm từ Ngân sách Nhà nước
Trong thời gian từ tháng 10/1995 đến hết tháng 12/2000, tổng
số tiền hỗ trợ từ Ngân sách Nhà nước cho quỹ BHXH để chi trả
cho các đối tượng nghỉ chế độ BHXH có thời gian tham gia
BHXH từ năm 1995 trở về trước là 26.966.679 triệu đồng, cụ thể
như sau:
- Quý IV/1995 : 1.112.030 triệu đồng.
- Năm 1996 : 4.387.903 triệu đồng.
- Năm 1997 : 5.163.093 triệu đồng.
- Năm 1998 : 5.128.425 triệu đồng.
- Năm 1999 : 5.025.620 triệu đồng.
62
- Năm 2000 : 6.159.608 triệu đồng.
63
Bảng 6: TÌNH HÌNH THU NỘP BHXH DO BHXH VIỆT NAM QUẢN
LÝ TỪ QUÝ IV/1995 ĐẾN NĂM 2000
S
T
T
Ch ỉ tiêu
Đơn vị
tính
Quý
IV/95
1996
1997
1998
1999
2000
1 Số đơn vị SDLĐ Đơn vị 18.566 30.789 34.815 49.628 59.176 61.577
2 Số LĐ tham gia
BHXH
- % so với năm
trước
Nghìn
người
%
2.276
-
2.821
-
3.162
112,1
3.355
106,1
3.579
106,7
3.843
107,4
3 Số thu BHXH
- % so với năm
trước
Tỷ đồng
%
395,0
-
2.569,7
-
3.445,6
134,1
3.876,0
112,5
4.186,0
108,0
5.215,2
124,6
4 Tỷ lệ thu so với chi % 34,2 54,4 59,9 65,9 70,2 70,5
5 Chênh lệch thu -
chi BHXH
Tỷ đồng 353,0 2.186,5 2.852,1 3.124,4 3.245,6 3.974,7
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Qua bảng 6 cho ta thấy, kết quả nổi bật trong công tác thu
nộp BHXH từ 1/10/1995 đến năm 2000 là số lao động tham gia và
số thu BHXH mỗi năm một tăng lên, năm sau cao hơn năm trước.
Phân tích các chỉ tiêu cho ta thấy như sau:
- Chỉ tiêu số 1 và 2 là: nếu cuối năm 1995 cả nước có 2,2
triệu lao động tham gia BHXH thì đến năm 2000 con số này đã
lên tới 3,8 triệu lao động, tăng 1,6 triệu lao động (chưa kể mỗi
năm có khoảng 15 vạn người nghỉ việc) và bằng khoảng 10% lực
lượng lao động xã hội. Điều đó cho thấy, việc mở rộng đối tượng
tham gia BHXH đến các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh có từ 10 lao động trở lên cùng với chính sách
thu BHXH phù hợp nên số các đơn vị sử dụng lao động lẫn người
lao động tham gia BHXH đã ngày một tăng. Tuy nhiên, con số
10% lực lượng lao động tham gia BHXH so với các nước còn ở
mức rất thấp, ví dụ: Malaysia : 90%, Mỹ : 95%... cùng với đó là
tốc độ gia tăng số lao động tham gia BHXH hàng năm còn chậm
và ở mức thấp nhưng có xu hướng tăng lên từ 6,1% năm 1998 lên
64
7,4% năm 2000. Qua tham khảo số liệu cho thấy, số lao động làm
việc trong các doanh nghiệp tư nhân ngoài quốc doanh có tốc độ
tăng cao nhất, cụ thể là: năm 1995 có 30.063 người, năm 1996 có
56.280 người, năm 1997 có 84.058 người, năm 1998 có 122.685
người, năm 1999 có 125.279 người và năm 2000 có 206.890
người, bình quân tăng 47,1%/năm. Tiếp đến là tốc độ tăng của lao
động làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp
100% vốn vốn đầu tư nước ngoài: năm 1995 có 78.791 người, năm
1996 có 125.889 người, năm 1997 có 214.596 người, năm 1998 có
242.108 người, năm 1999 có 361.522 người và năm 2000 có
369.857 người, bình quân tăng 36,2%/năm.
- Bên cạnh sự tăng lên về số lao động tham gia BHXH th ì
cũng chính nhờ chính sách thu BHXH phù hợp với điều kiện thu
nhập và tiền lương của người lao động còn thấp mà số thu BHXH
ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước được thể hiện rõ nét ở
chỉ tiêu số 3. Thông qua chỉ tiêu này ta thấy, nếu năm 1996 số thu
đạt 2569,7 tỷ đồng thì sau 5 năm, năm 2000 số thu đã lên tới
5215,2 tỷ đồng, tăng 103% so với năm 1996. Nếu so với năm
1994 là năm trước khi bước vào thời kỳ cải cách chính thức hệ
thống BHXH ở nước ta thì các năm 1999 và năm 2000 đều có số
thu tăng gấp hơn 10 lần. Tuy vậy, tỷ lệ tăng thu BHXH năm sau
so với năm trước giảm dần từ 34,1% năm 1997 xuống còn 8% năm
1999 nhưng nhanh chóng được khắc phục bằng tỷ lệ tăng thu
24,6% năm 2000 so với năm 1999. Sự sụt giảm tốc độ tăng thu
BHXH giai đoạn 1997 - 1999 phải chăng là do tình hình kinh tế
trong nước và thế giới có nhiều biến động đặc biệt là ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực. Mặc dù vậy, thu
BHXH hàng năm vẫn đạt vượt mức kế hoạch, điển hình là năm
1997 thu đạt vượt mức 24,4 % kế hoạch đặt ra. Điều đó thể hiện
sự nỗ lực vượt bậc của các cán bộ, công chức ngành BHXH, sự
quan tâm chỉ đạo sâu sát và kịp thời của BHXH Việt Nam và các
cấp uỷ Đảng, Chính quyền từ Trung ương đến địa phương. Cũng
nhờ vậy mà tình hình công nợ tuy có phát sinh nhưng ngày càng
65
giảm, đã rút ngắn số ngày chiếm dụng tiền BHXH phải nộp của
các đơn vị sử dụng lao động từ 73 ngày năm 1995 (ứng với 20,1%
số nợ so với tổng số phải thu) xuống còn 38 ngày năm 2000 (ứng
với 10,4% số nợ so với tổng số phải thu theo số liệu báo cáo
nhanh của BHXH Việt Nam). Mục tiêu trong những năm tới là
phải phấn đấu tiếp tục làm giảm số chiếm dụng này xuống mức
thấp hơn nữa.
- Chỉ tiêu số 4 đã khẳng định rõ hơn những kết quả đạt được
trong công tác thu nộp BHXH thời gian qua, đó là tỷ lệ thu BHXH
từ sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động so
với tổng chi ngày càng tăng từ 34,2% của quý IV/1995 lên 70,5%
năm 2000. Điều đó nói lên rằng, công tác thu nộp BHXH đã góp
phần quan trọng vào việc hình thành được quỹ BHXH tập trung,
hạch toán độc lập với Ngân sách Nhà nước, làm giảm gánh nặng
cho Ngân sách Nhà nước trong việc chi trả các chế độ BHXH
đồng thời tạo điều kiền cho cơ quan BHXH Việt Nam chủ động
trong việc số tiền tạm thời nhàn rỗi chưa được sử dụng trong quỹ
BHXH vào đầu tư tăng trưởng quỹ. Số tiền này được hình thành
từ khoản chênh lệch thu - chi quỹ BHXH hàng năm thể hiện ở chỉ
tiêu số 5 và được phản ảnh rõ nét trong đồ thị dưới đây:
ĐỒ THỊ CHÊNH LỆCH THU – CHI QUỸ BHXH
(từ quý IV/1995 đến năm 2000)
353
2186.5
2852.1
3124.4 3245.6
3974.7
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
4000
IV/1995 1996 1997 1998 1999 2000
Số tiền
(Tỷ đồng)
66
Qua đồ thị chênh lệch thu - chi quỹ BHXH ở trên ta thấy, khoản
chênh lệch này tăng lên qua các năm từ 2.186,5 tỷ đồng năm 1996
lên 3.974,7 tỷ đồng năm 2000, tăng bình quân hàng năm là 447,1
tỷ đồng. Đây là kết quả rất đáng mừng trong thời kỳ đổi mới cơ
chế quản lý BHXH Việt Nam, nó đã tạo cho quỹ BHXH một
khoản tiền tạm thời nhàn rỗi ngày càng lớn, một phần trong đó sẽ
được đem vào đầu tư sinh lời và lại tạo ra một nguồn thu mới cho
quỹ BHXH.
Đạt được những kết quả trên trước hết là nhờ sự cố gắng nỗ
lực của công nhân viên chức toàn ngành, mà trước hết là những
người trực tiếp làm công tác thu nộp, ngoài ra còn do các nguyên
nhân chính sau đây:
- Chỉ thị 15/CP ngày 26/5/1997 của Bộ Chính trị về tăng
cường lãnh đạo thực hiện các chế độ BHXH đã có tác dụng tích
cực trong việc thúc đẩy sự quan tâm của cấp uỷ Đảng và chính
quyền các cấp đối với công tác BHXH, đặc biệt là công tác thu. Ở
hầu hết các địa phương, việc thực hiện nghiêm túc trách nhiệm
đóng BHXH cho người lao động được quy định là một trong các
tiêu chuẩn cơ bản để xét danh hiệu Chi bộ, Đảng bộ trong sạch
vững mạnh và các hình thức khen thưởng khác.
- BHXH các tỉnh, thành phố đã kết hợp công tác giải quyết
chế độ, chính sách BHXH với công tác thu nộp theo nguyên tắc có
đóng BHXH mới được hưởng quyền lợi BHXH, vì vậy đã làm
tăng thêm ý thức trách nhiệm của các đơn vị sử dụng lao động
trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH.
- Việc triển khai công tác cấp sổ BHXH nhằm ghi nhận quá
trình làm việc và đóng BHXH của người lao động đã tạo được
niềm tin cho người lao động, cũng thông qua công tác này BHXH
các tỉnh, thành phố đã phát hiện kịp thời các trường hợp khai
giảm số lao động và quỹ tiền lương của đơn vị sử dụng lao động,
tạo điều kiện truy thu một số lượng lớn tiền đóng BHXH còn nợ
đọng hoặc bỏ sót.
Năm
67
- Công tác tổ chức cán bộ, công tác kiểm tra và thông tin
tuyên truyền đã được chú ý đẩy mạnh góp phần nâng cao hiệu quả
thu nộp và ý thức thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH của người lao
động và người sử dụng lao động.
Bên cạnh những kết quả đạt được của công tác thu nộp BHXH
như đã nêu ở trên, trong thời gian qua vẫn còn một số tồn tại, hạn
chế cần khắc phục, cụ thể:
- Chưa có biện pháp hữu hiệu để quản lý toàn bộ số lao động
phải tham gia BHXH và nguồn thu theo quy định của pháp luật.
Trong thời gian qua, tuy số người đóng BHXH có tăng hàng năm
nhưng so với tổng số lao động trong diện phải tham gia BHXH
theo quy định mới đạt 86%, riêng số lao động làm việc trong khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh tham gia BHXH mới đạt 40%, còn
một lực lượng lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh kể cả người
lao động đang làm việc trong khu vực sản xuất nông nghiệp và
tiểu thủ công nghiệp chưa được tham gia BHXH. Kết quả thu
BHXH mới chỉ đạt khoảng 90% so với tổng số phải thu, nhiều
doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn còn có hiện tượng khai giảm
quỹ tiền lương, số lao động tham gia BHXH và chốn nộp BHXH
dưới nhiều hình thức như: chỉ ký hợp đồng lao động dưới 3 tháng
hoặc không ký hợp đồng lao động... Điều đó cho thấy, mạng lưới
BHXH chưa vươn tới được toàn bộ số lao động trong toàn xã hội.
Vì vậy trong những năm tới, nước ta cần có nhưng giải pháp để
tăng nhanh số người tham gia đóng BHXH, nhằm đảm bảo quyền
lợi cho mọi người lao động.
- Mức thu BHXH ở nước ta còn thấp so với nhiều nước, cộng
với tình trạng nợ đọng tiền BHXH vẫn còn lớn, tính đến nay số nợ
đọng lên tới gần 490 tỷ đồng chiếm khoảng 10 - 11% so với tổng
số phải thu. Nếu kéo dài tình trạng này sẽ làm nẩy sinh nhiều vấn
đề phức tạp và khó khăn, trước hết là thiếu nguồn chi trả cho
người hưởng BHXH, ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của người
lao động.
68
- Nhận thức về BHXH của mọi người dân nói chung và người
lao động nói riêng còn b ị hạn chế, chưa thấy rõ bản chất ưu việt
của BHXH, còn có nhiều người nhầm lẫn giữa BHXH với BHTM.
- Trình độ của cán bộ, công nhân viên chức trong hệ thống
BHXH Việt Nam nói chung, cán bộ làm công tác thu nói riêng còn
bất cập; còn hạn chế cả về chuyên môn nghiệp vụ lẫn năng lực
công tác; chưa năng động, sáng tạo; còn làm việc theo lối hành
chính, chưa quen với cách làm việc như hoạt động của một ngành
dịch vụ; còn thiếu cán bộ nghiên cứu, đề xuất chính sách và hoạch
định chiến lược phát triển lâu dài, nên chưa đáp ứng kịp với tiến
trình đổi mới sự nghiệp BHXH.
- Chính sách BHXH trong thời gian qua còn thiếu đồng bộ,
thay đổi nhiều lần và vẫn còn một số nội dung chưa hợp lý cho
nên cần được tiếp tục nghiên cứu và xây dựng thành luật BHXH
để tập trung thống nhất quản lý nhằm tổ chức thực hiện có hiệu
quả.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành còn nghèo nàn và thiếu
thốn. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý trong lĩnh
vực này hiện nay chưa có, các công việc thuộc nghiệp vụ chủ yếu
vẫn làm thủ công là chính, máy vi tính được trang bị còn ít, các
công nghệ phần mềm đang còn trong giai đoạn nghiên cứu thử
nghiệm chưa được áp dụng rộng rãi.
- Hệ thống BHXH Việt Nam chưa có mối quan hế chặt chẽ
với các nước khác. Điều này làm hạn chế khả năng phát triển,
thiếu thông tin, khó khăn trong việc hiện đại hoá ngành.
3.2. Công tác đầu tư tăng trưởng quỹ
Mục tiêu hoạt động của quỹ là tự cân đối thu - chi do đó quỹ
BHXH luôn luôn phải có một lượng tiền tích luỹ để chi trả cho
các chế độ dài hạn như: hưu trí, tử tuất, thương tật. Lượng tiền
tồn tích này (lượng tiền tạm thời nhàn rỗi chưa được sử dụng
trong quỹ BHXH) được phép đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH theo
quy định tại Mục 2, Điều 17 Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg về
69
việc ban hành quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam,
như sau:
- Mua trái phiếu, tín phiếu của Kho bạc Nhà nước và các ngân
hàng thương mại của Nhà nước.
- Cho vay đối với Ngân sách Nhà nước, quỹ Hỗ trợ Đầu tư
Quốc gia, các ngân hàng thương mại của Nhà nước.
- Đầu tư vào một số dự án lớn và doanh nghiệp lớn của Nhà
nước có nhu cầu về vốn được Chính phủ cho phép và bảo trợ.
Thực hiện Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg ngày 26/1/1998
của Thủ tướng Chính phủ, BHXH Việt Nam về tiến hành các hoạt
động đầu tư tăng trưởng. Tính đến ngày 31/12/1999, BHXH Việt
Nam đã cho vay được 10.628.002 triệu đồng. Cụ thể như sau:
Bảng 7: TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ CỦA QUỸ BHXH
(tính đến 31/12/1999)
STT Đơn vị vay Số tiền
(triệu đồng)
Cơ cấu đầu
tư
(%)
1 Ngân sách Nhà nước 1.087.636 10,2
2 Quỹ Hỗ trợ Đầu tư Quốc
gia
4.200.000 39,5
3 Ngân hàng đầu tư 2.000.000 18,8
4 Các ngân hàng thương mại 2.425.000 22,8
5 Mua tín phiếu, trái phiếu 915.366 8,7
Cộng 10.628.002 100,0
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Qua bảng số liệu số 7 ta thấy, trong cơ cấu đầu tư vào các
lĩnh vực, đơn vị thì đầu tư vào Quỹ Hỗ trợ Đầu tư Quốc gia chiếm
tỷ trọng lớn nhất bằng 39,5% so với tổng số tiền đầu tư. Và phần
lớn các dự án đầu tư tiền nhàn rỗi của quỹ BHXH đều theo sự chỉ
định của Thủ tướng Chính phủ, kể cả tổng mức đầu tư, lãi suất,
thời hạn vay... Vì vậy, mức lãi suất thực hiên thấp, bình quân chỉ
6- 7%/ năm, có năm thấp hơn cả tỷ lệ trượt giá (năm 1998 trượt
70
giá 9,2%/ năm). Tổng số tiền lãi thu được tính đến hết năm 1999
là: 1.351.488 triệu đồng. Với kết quả này, quỹ BHXH đã có tác
dụng tích cực góp phần vào việc phát triển các lĩnh vực kinh tế -
xã hội của đất nước.
Về sử dụng lãi đầu tư: Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg ngày
26/1/1998 của Thủ tướng Chính phủ đã chỉ rõ tiền sinh lời do hoạt
động đầu tư quỹ BHXH được phân bổ như sau:
- Được trích 50% trong 5 năm để bổ xung vốn đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất của toàn hệ thống BHXH.
- Trích 2 quỹ khen thưởng và phúc lợi bằng 3 tháng lương
thực tế toàn ngành.
- Phần còn lại bổ xung vào quỹ BHXH để bảo toàn và tăng
trưởng quỹ.
Thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, BHXH Việt
Nam đã sử dụng tiền sinh lời do đầu tư tăng trưởng đúng mục đích
là xây dưng cơ sở vật chất của toàn ngành và trích lập quỹ phúc
lợi, quỹ khen thưởng. Ngoài các khoản chi trên, phần còn lại của
lợi nhuận đầu tư được nộp vào quỹ BHXH.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được của công tác đầu tư tăng
trưởng quỹ, trong thời gian qua cũng còn một số vấn đề tồn tại:
- Lãi suất đầu tư chưa hình thành và vận động theo quy luật
lãi suất của thị trường. Hầu hết lãi suất được hình thành theo sự
chỉ định của Chính phủ và thường là lãi suất thấp. Theo em để
đảm bảo việc đầu tư tăng trưởng quỹ có hiệu quả, vấn để đầu tư
quỹ nên phân ra 2 lĩnh vực như sau:
+ Nếu cho Ngân sách Nhà nước hoặc Quỹ Hỗ trợ Đầu tư
Quốc gia vay theo sự chỉ định của Chính phủ th ì có thể thực hiện
lãi suất thấp, ưu đãi dưới mức cho vay trên thị trường. Vì Ngân
sách Nhà nước hoặc Quỹ Hỗ trợ Đầu tư Quốc gia vay không phải
là để kinh doanh, mà để đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế
quốc dân, hoặc chi tiêu cho mục đích của Chính phủ.
+ Nếu cho các ngân hàng thương mại vay thì phải theo lãi
suất thị trường. Vì các ngân hàng thương mại vay là để kinh
71
doanh lấy lãi. Lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại
theo thị trường, trong khi đó lãi suất đi vay của quỹ BHXH lại
theo lãi suất ưu đãi thấp hơn lãi suất đi vay trên thị trường. Khoản
lợi nhuận siêu ngạch đó các ngân hàng thương mại được hưởng,
gây thiệt hại đến quỹ BHXH của người lao động.
- Việc phân bổ vốn đầu tư vào các dự án cũng không theo yêu
cầu của quy luật cung cầu về vốn trên thị trường. Lẽ ra, theo yêu
cầu của của quy luật vận động về vốn trên thị trường thì vốn phải
vận động từ nơi thừa (quỹ BHXH) đến các nơi thiếu vốn, cần vốn
để sản xuất kinh doanh. Nhưng trong các năm qua, vốn đầu tư của
quỹ BHXH phần lớn lại theo sự chỉ đạo của Chính phủ. Nhiều lĩnh
vực đầu tư đang có lợi nhuận cao, khả năng rút vốn thuận lợi th ì
quỹ lại không được đầu tư. Bản thân các ngân hàng thương mại
biết là có biểu hiện đọng vốn, song vì lãi suất vay quá thấp nên
vẫn cứ vay của quỹ BHXH, gây nên tình trạng thiếu vốn giả tạo
trên thị trường.
4. Đánh giá chung
Trên đây là tình hình thu nộp BHXH từ quý IV/1995 - 2000
của BHXH các tỉnh, thành phố và toàn ngành đã đạt được trong
thời kỳ đổi mới của đất nước. Những kết quả trên tuy chưa nhiều
nhưng có một ý nghĩa hết sức quan trọng, nó đã chứng minh và
khẳng định được việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH theo cơ
chế mới, việc tập trung thống nhất cơ quan BHXH vào một đầu
mối, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ là
hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với điều kiện của nền kinh tế
nhiều thành phần ở nước ta. Cho nên đã bước đầu hướng hoạt
động sự nghiệp BHXH Việt Nam dần dần phù hợp với bản chất
của nó trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng XHCN. Đồng thời, nó cũng thể hiện được sự
đúng đắn trong tư duy đổi mới và bản chất nhân văn, xuyên suốt
mọi chính sách, chế độ BHXH của Đảng và Nhà nước ta tất cả là
vì con người, vì người lao động nhằm đảm bảo công bằng và an
72
sinh xã hội. Vì vậy, đã thực sự phát huy được tác dụng và đi vào
cuộc sống. Để làm tốt hơn nữa những chính sách BHXH theo Chủ
trương, Đường lối cả Đảng và Nhà nước đã vạch ra, nhằm đem
việc thực hiên các chế độ BHXH đến với mọi người lao động, cần
thiết phải có những định hướng chiến lược cũng như các giải pháp
phù hợp cho từng giai đoạn, từng thời kỳ để khắc phục những tồn
tại hạn chế, phát huy những ưu điểm đạt được trong công tác
BHXH những năm tới.
PHẦN THỨ BA
MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THU NỘP VÀ QUẢN LÝ QUỸ
BHXH
I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN
1. Bài học kinh nghiệm
1.1. Từ hoạt động BHXH của các nước trên thế giới
Qua kinh nghiệm của các nước trên thế giới có hoạt động bảo
hiểm xã hội phát triển, cũng như ở các nước mà các chính sách về
bảo hiểm xã hội được thực hiện tốt chúng ta có thể học hỏi được ở
một số vấn đề sau:
- Việc xây dựng mô hình bảo hiểm xã hội phải phù hợp với
các điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia mình. Hoạt động BHXH
có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào độ chặt chẽ và
tính hiệu quả của các cơ chế và chính sách và biện pháp thu
BHXH.Cũng có thể dễ dàng nhận ra một thực tế đó là trong bất kỳ
73
thể chế kinh tế xã hội nào thì hoạt động BHXH vẫn phụ thuộc vào
ngân sách Nhà nước ở các mức độ khác nhau, vấn đề là phụ thuộc
ít hay nhiều, điều này còn tuỳ thuộc vào hoàn cảnh thực tế ở mỗi
giai đoạn phát triển của quốc gia.
- Qua kinh nghiệm một số nước phát triển cho thấy việc đề ra
các chính sách BHXH phải dựa trên nguyên tắc bắt buộc, để có
thể thu hút được ngày càng nhiều hơn các đối tượng tham gia
BHXH, vấn đề này ngày càng trở nên quan trọng bởi sự an toàn
của quỹ BHXH. Việc chi trả các chế độ BHXH căn cứ vào mức độ
đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động và đặc
biệt là phụ thuộc vào mức lương của người lao động dùng làm căn
cứ đóng BHXH trước khi về hưu.
- Qua kinh nghiệm của Thuỵ Điển trong việc sử dụng các
nguồn thu thuế từ lương của người lao động và chủ sử dụng lao
động cho mục đích phúc lợi xã hội, đối với tất cả các công dân
sống và làm việc tại Thuỵ Điển và công dân Thuỵ Điển làm việc ở
nước ngoài nhưng có đóng thuế cho Chính phủ. Với cơ chế đóng
góp như vậy chính phủ Thuỵ Điển cho rằng không cần thiết có
một tổ chức riêng biệt để quản lý quỹ BHXH, việc thực hiện chi
BHXH mang tính bao cấp với mục đích điều tiết thu nhập cá nhân
đảm bảo sự công bằng xã hội, và vì vậy những người được hưởng
các chế độ BHXH đều nhận được các khoản phúc lợi xã hội vượt
quá mức đóng góp của mình. Mô hình xây dựng hệ thống BHXH
theo kiểu Thuỵ Điển chỉ phù hợp với điều kiện của nền kinh tế
phát triển, những nước có mức phúc lợi xã hội cao. Trước đây,
chúng ta đã xây dựng mô hình BHXH gần tương tự như mô hình
của Thuỵ Điển, tuy vậy nó đã tỏ ra không phù hợp với điều kiện
hoàn cảnh kinh tế của Việt Nam bởi sự bao cấp quá lớn của ngân
sách Nhà nước và bởi mức độ phát triển thấp của nền kinh tế.
Như vậy, việc xây dựng mô hình BHXH phải phù hợp với
điều kiện và hoàn cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam trong từng
thời kỳ, ngoài ra trong điều kiện đất nước chuyển sang nền kinh tế
thị trường thì việc tăng cường khả năng đóng góp của người lao
74
động, người sử dụng lao động để có thể giảm nhẹ sự phụ thuộc
vào ngân sách Nhà nước là một trong những hướng chính trong
xây dựng và thực hiện các chế độ, chính sách BHXH ở Việt Nam
hiện nay.
1.2. Từ hoạt động BHXH thực tiễn trong nước
Thứ nhất: nắm chắc chủ trương chính sách BHXH của Đảng,
Nhà nước và quy định quản lý của ngành để tranh thủ sự lãnh đạo,
chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, sự phối hợp giúp đỡ
của các ngành liên quan, đặc biệt gắn kết chặt chẽ mối quan hệ ba
bên: người sử dụng lao động, người lao động và cơ quan BHXH
tạo sự phối hợp đồng bộ, kịp thời trong việc tổ chức thu nộp và
giải quyết các chế độ BHXH.
Thứ hai: Thực hiện đúng điều lệ BHXH cùng với các văn bản
quy định quản lý thu, chi BHXH của BHXH Việt Nam và các Bộ,
ngành trung ương. Tổ chức xét duyệt và chi trả các chế độ BHXH
kịp thời, đầy đủ, tận tay đối tượng được hưởng, thực sự là chỗ dựa
tin cậy của người lao động khi tham gia BHXH.
Thứ ba: Tăng cường phối hợp với các cấp uỷ Đảng, chính
quyền, các ngành chức năng trong việc kiểm tra xử phạt những
trường hợp vi phạm Bộ luật lao động về BHXH, kiến nghị với các
cấp có thẩm quyền có biện pháp ràng buộc đối với các đơn vị sử
dụng lao động cố tình né tránh không tham gia BHXH, nhất là các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Thứ tư: Xét duyệt và thực hiện đúng chế độ chính sách
BHXH, tạo sự công bằng giữa những người tham gia BHXH, đảm
bảo có đóng BHXH thì được hưởng thụ, không gây phiền hà cho
người sử dụng lao động và người lao động, đồng thời tăng cường
kiểm tra không để tiêu cực xảy ra làm thất thoát ngân quỹ.
Thứ năm: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng chế độ
chính sách BHXH đến với người lao động để mọi người hiểu:
tham gia BHXH là nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi mang tính
xã hội nhân đạo sâu sắc. Chính sách BHXH rất đa dạng, phong
phú và phức tạp, vì vậy cần nghiên cứu để xem xét, giải quyết
75
những kiến nghị, thắc mắc của đối tượng một cách thoả đáng về
chế độ và quyền lợi BHXH, vừa đảm bảo đúng chính sách, vừa
đảm bảo quyền lợi của người được hưởng đúng với sự cống hiến
của họ, trách quan liêu cửa quyền, sách nhiễu trong việc giải
quyết chính sách BHXH.
Thứ sáu: Giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ
ngành là yếu tố quyết định thắng lợi cho mọi hoạt động; đề cao
trách nhiệm và tinh thần phục vụ của ngành, kiện toàn tổ chức,
sắp xếp phân công cán bộ hợp lý; chú trọng công tác đào tạo xây
dựng đội ngũ cán bộ, viên chức có đủ phẩm chất đạo đức và trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, chăm lo đời sống của cán bộ, viên chức
thật sự ổn định, yên tâm công tác, gắn bó với ngành; đẩy mạnh
các phong trào thi đua, thực sự tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ
việc hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch trên giao.
2. Những định hướng cơ bản
Trong thời gian tới, BHXH Việt Nam cần được phát triển
theo những định hướng sau:
- Tiếp tục xây dựng đầy đủ, đồng bộ hệ thống pháp luật về
BHXH. Trước mắt cần xúc tiến ngay việc xây dựng Luật BHXH
để tiến tới quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này bằng pháp luật.
- Mở rộng đối tượng tham gia BHXH tới mọi người lao động,
dù họ tham gia lao động trong bất cứ ngành nghề nào, thuộc thành
phần kinh tế nào,miễn là họ tham gia đóng góp đầy đủ vào quỹ
BHXH như luật định.
- Thực hiện đầy đủ các hình thức BHXH bắt buộc và BHXH
tự nguyện để khuyến khích những người giầu có tích cực tham gia
BHXH, thực hiện một bước phân phối lại thu nhập trong cộng
đồng, góp phần đảm bảo công bằng xx hội và an sinh xã hội.
- Bộ máy quản lý cần tinh giảm, gọn nhẹ, đa chức năng trên
cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ và quy chế
làm việc cụ thể.
- Cán bộ, công nhân viên chức của ngành cần được đào tạo và
đào tạo lại một cách cơ bản và hệ thống cả về chuyên môn nghiệp
76
vụ, lẫn nhận thức tư tưởng, đạo đức, thấm nhầm sâu sắc quan
điểm phục vụ người lao động. Làm tốt công tác cán bộ từ khâu
đào tạo, tuyển dụng, sử dụng đến khâu đãi ngộ để phát huy hết
năng lực, sở trường của họ.
- Áp dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong quản lý Nhà
nước, đặc biệt là trong quản lý nghiệp vụ sự nghiệp BHXH như
quản lý các đối tượng tham gia BHXH, quản lý thu – chi BHXH,
quản lý tài chính, thống kê, kế toán BHXH...
- Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ cho
ngành, đảm bảo nganh tầm thời đại và hoà nhập vào cộng đồng
quốc tế.
- Thực hiện tốt các biện pháp bảo toàn và đầu tư tăng trưởng
quỹ BHXH.
- Mở rộng mối quan hệ mật thiết giữa BHXH Việt Nam với
các cơ quan hữu quan, với các cấp uỷ Đảng, Chính quyền, Đoàn
thể từ Trung ương đến địa phương. Tăng cường và mở rộng mối
quan hệ hợp tác giữa BHXH Việt Nam với các tổ chức BHXH, An
sinh xã hội quốc tế, trước mắt là hội nhập vào các nước trong khu
vực.
- Tăng cường quyền lực Nhà nước và các chế tài pháp lý cho
BHXH Việt Nam trong việc quản lý Nhà nước về BHXH. Đồng
thời làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra của Nhà nước về BHXH.
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THU NỘP
QUỸ BHXH
3.1. Tăng cường công tác quản lý thu nộp BHXH.
Kiểm soát chặt chẽ thu, chi BHXH là hết sức cần thiết. Do đó
công tác thu phải được hoàn chỉnh từng bước bằng việc theo dõi
danh sách đối tượng tham gia đóng BHXH, biến động của đối
tượng và mức đóng góp. Cần tiếp tục nghiên cứu, cải tiến phương
pháp quản lý thu với các biện pháp đồng bộ nhằm thu đúng, thu
đủ và kịp thời tiền đóng bảo hiểm xã hội của người lao động, các
đơn vị sử dụng lao động theo đúng pháp luật, nhất là khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh. Chỉ có như vậy mới thúc đẩy và cải thiện
77
được tình hình thu BHXH, đáp ứng nhu cầu về BHXH của người
lao động trong nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay.
Trên cơ sở thực hiện đổi mới sự chỉ đạo điều hành nền kinh tế
- xã hội của chính phủ BHXH Việt Nam cũng cần phải đổi mới sự
chỉ đạo, điều hành thì mới đạt được kết quả như mong muốn. Sự
đổi mới ở đây chính là sự phân công, phân cấp rõ về chức năng,
nhiệm vụ giữa cơ quan BHXH ở trung ương và BHXH các tỉnh,
thành phố nhằm nâng cao trách nhiệm, chiến lược quản lý và phục
vụ ngày càng tốt hơn nhưng vẫn đảm bảo thống nhất về hướng dẫn
chính sách, chế độ BHXH của Nhà nước và sự chỉ đạo về nghiệp
vụ của cơ quan BHXH Việt Nam.
Trong những năm tới, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
quản lý chặt chẽ và không ngừng nâng cao quỹ BHXH; tập trung
thu ngoài quốc doanh theo quy định của Bộ luật lao động, kiện
toàn bộ máy: sắp xếp, bố trí, sử dụng hợp lý nhân sự, đào tạo và
đào tạo lại, hoàn chỉnh cải cách thủ tục hành chính; ứng dụng tin
học vào công tác quản lý BHXH, tăng cường công tác thi đua,
thanh tra và kiểm tra, tham gia vào phát triển kinh tế; bảo toàn và
tăng trưởng quỹ. Về lâu dài, quỹ BHXH nên được quản lý theo
dõi riêng theo từng loại tương ứng với từng chế độ BHXH, kể cả
phần tích luỹ từ mỗi quỹ, không sử dụng lẫn lộn quỹ này để bù
đắp sự thiếu hụt của quỹ khác. Sở dĩ làm như vậy là nhằm để dễ
dàng cho việc theo dõi, phân tích và đánh giá tình hình hoạt động
của từng quỹ mà vẫn đảm bảo sự thống nhất quản lý của cơ quan
BHXH Việt Nam.
3.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Xuất phát từ phương hướng nhiệm vụ trong thời gian tới, vấn
đề hoàn thành hệ thống pháp luật về BHXH là rất cần thiết tuy
nhiên cần thực hiện từng bước cụ thể:
- Để có thể có được một hệ thống pháp luật về BHXH đầy đủ
và đồng bộ thì trước hết là phải sắp xếp, rà soát lại toàn bộ các
văn bản pháp quy về hoạt động BHXH trước đây và hiện hành với
78
mục đích loại bỏ hoặc điều chỉnh bổ sung cho phù hợp với nhu
cầu quản lý trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
- Nâng cao khả năng thực thi của các văn bản pháp lý trong
lĩnh vực BHXH. Muốn thực hiện được những điều này, ngoài sự
đóng góp xây dựng và hoàn thiện của các chuyên gia, cán bộ có
kinh nghiệm trong và ngoài ngành thì việc học tập kinh nghiệm
xây dựng khung pháp lý trong các văn bản quy định về BHXH của
các nước khác cũng là việc nên làm.
- Các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực BHXH cần
khẩn trương soạn thảo Luật BHXH để có thể tình quốc hội trong
thời gian sớm nhất và đưa luật vào áp dụng điều chỉnh, hướng các
hoạt động BHXH đi theo đúng đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước.
3.3. Công tác thông tin tuyên truyền về BHXH.
Việc tuyên truyền, giải thích nhằm nâng cao nhận thức về
BHXH của người lao động và chủ sử dụng lao động có ý nghĩa hết
sức quan trọng và cấp bách trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế
thực hiện chế độ, chính sách BHXH hiện nay. Đây không chỉ là
công việc của ngành BHXH mà là nhiệm vụ chung của nhiều
ngành, nhiều cấp, của toàn xã hội. Nó bao gồm những nội dung
sau:
- Trước hết, đó là việc phải xác định rõ nội dung tuyên truyền.
Phải tuyên truyền, giải thích về bản chất, nội dung của chính sách
BHXH. Từ đó, người lao động hiểu được bản chất nhân văn, nhân
đạo của BHXH, họ có thể phân biệt rõ hơn sự khác nhau giữa
BHXH và các loại hình BHTM khác.
- Mặt khác, cũng phải tuyên truyền và giới thiệu cho họ về nội
dung các chế độ BHXH mà người lao động tham gia BHXH được
hưởng. Đặc biệt cần phải nhấn mạnh nội dung "tham gia BHXH
vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của người lao động". Ngoài ra
việc giải đáp những vướng mắc của người lao động trong quá
trình thực hiện các chế độ BHXH, việc phản ánh tâm tư, nguyện
79
vọng, các kiến nghị bổ sung sửa đổi những bất hợp lý về chế độ
BHXH cũng hết sức cần thiết và bổ ích.
Những nội dung nói trên cần phải được thể hiện bằng nhiều
hình thức, phương pháp phù hợp thì mới đạt được hiệu quả cao.
Như chúng ta biết, đối tượng tuyên truyền về BHXH là người lao
động và chủ sử dụng lao động nên phải sử dụng nhiều hình thức
tuyên truyền khác nhau mới có thể phù hợp với nhận thức tâm lý
và trình độ của họ. Đối với người lao động nên sử dụng nhiều
hình thức trực quan sinh động như truyền hình, tạp chí BHXH,
sách hỏi đáp về BHXH, tờ gấp giới thiệu về BHXH, các loại ấn
phẩm tuyên truyền... Đặc biệt, các nội dung tuyên truyền cần được
biên tập cô đọng, dễ hiểu, hấp dẫn. Các ấn phẩm tuyên truyền cần
được phổ cập một cách rộng rãi đến tận người lao động và đơn vị
sử dụng lao động dưới dạng tặng phẩm tuyên truyền, cần có các
biện pháp tăng cường phát hành tạp chí BHXH đến tận cơ sở
nhằm góp phần nâng cao nhận thức của người lao động và chủ sử
dụng lao động về BHXH.
Nhìn chung, việc nhận thức đúng đắn của người lao động và
chủ sử dụng lao động về ý nghĩa, tầm quan trọng của BHXH đòi
hỏi phải tăng cường hơn nữa công tác thông tin tuyên truyền về
BHXH cả về bề rộng lẫn chiều sâu của hoạt động này. Nó đòi hỏi
sự phối hợp đồng bộ có hiệu quả trong công tác tuyên truyền về
BHXH giữa BHXH Việt Nam với các cơ quan thông tin đại chúng,
hệ thống tổ chức công đoàn và các cơ quan có liên quan trong xã
hội. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể đạt được hiệu quả như
mong muốn.
3.4. Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ hiện đại hoá hoạt động
ngành BHXH.
Việt Nam trên bước đường thực hiện công nghiệp hoá và hiện
đại hoá đất nước cần nhanh chóng tích cực đổi mới hiện đại hoá
mọi mặt công tác trong đó đặc biệt đáng quan tâm là công tác đào
tạo nguồn nhân lực. Đối với ngành BHXH, trong thời gian tới cần
80
cải tiến và đổi mới công tác đào tạo nguồn nhân lực theo các
hướng sau:
- Phương châm trong công tác cán bộ là giảm nhẹ về số lượng
nhưng nâng cao về chiến lược để làm việc có hiệu quả hơn đáp
ứng được yêu cầu, nhiệm vụ khi số lượng đối tượng BHXH tăng
lên nhiều. Và để theo kịp được sự phát triển chung của toàn xã
hội, ngoài các phương tiện hiện đại, các phương pháp quản lý tiên
tiến cần được áp dụng đồng bộ thì ngoại ngữ, tin học cũng là việc
cần thiết cho mỗi cán bộ công chức nhằm làm chủ các phương tiện
và mở cửa "kho tàng tri thức" của nhân loại nói chung, về BHXH
nói riêng. Do đó trên bước đường hiện đại hoá, công tác đào tạo
bổ sung, đào tạo nâng cao chắc chắn sẽ có vai trò ngày càng cần
thiết. Đặc biệt là đào tạo các chuyên gia giỏi về tin học, nhất là về
phần mềm; các chuyên gia về chính sách BHXH; các chuyên gia
về pháp lý; các chuyên gia về tính toán BHXH; các cán bộ kiểm
tra. Từ đó nhằm nâng cao trình độ cả về chuyên môn và chính trị
cho cán bộ đảng viên; rèn luyện phẩm chất đạo đức người công
chức để mỗi cán bộ, đảng viên thực sự yêu ngành, yêu nghề, có
trách nhiệm với công việc được giao và vì sự nghiệp chung của
BHXH.
- Công tác tuyển dụng cán bộ cần xem xét đến trình độ, học
vấn và đặc biệt là những kiến thức đó phải phù hợp với công tác
được giao. Ngoài ra, để có thể thu hút những người có phẩm chất
đạo đức tốt và năng lực chuyên môn giỏi giúp họ yên tâm công tác
thì BHXH cũng nên kiến nghị với Nhà nước có những chế độ đãi
ngộ và sự hỗ trợ giáo dục đào tạo thoả đáng hơn.
3.5. Mở rộng đối tượng tham gia và phạm vi BHXH.
Bảo hiểm xã hội là một hoạt động sự nghiệp, không mang tính
kinh doanh như các loại hình bảo hiểm khác. Vì vậy, việc mở rộng
đối tượng tham gia và phạm vi BHXH là một chủ trương mang
tính xã hội cao và nhân đạo sâu sắc của Nhà nước ta. Nó bao gồm
những vấn đề sau:
81
- Mục tiêu lâu dài của BHXH là mọi người đều được tham gia
BHXH nhằm thực hiện bình đẳng xã hội giữa các thành phần kinh
tế. Trước mắt, có thể thực hiện BHXH cho lao động trong các
doanh nghiệp có dưới 10 lao động, bỏ quy định doanh nghiệp từ
10 lao động trở lên và hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên mới
tham gia BHXH bắt buộc, mà quy định doanh nghiệp có thuê
mướn lao động và người lao động được trả lương ổn định thì phải
tham gia BHXH, từng bước mở rộng diện áp dụng cho lao động
tiểu, thủ công nghiệp, lao động trong nông nghiệp và nông thôn,
lao động phi kết cấu ... theo các loại h ình bảo hiểm xã hội bắt
buộc và tự nguyện.
- Để cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân thực hiện có hiệu
quả chính sách BHXH, thiết nghĩ ngành BHXH cần sớm ban hành
luật BHXH Việt Nam với những điều khoản áp dụng chung cho tất
cả các đối tượng lao động, nhanh chóng xây dựng một cơ chế gọn
nhẹ thông thoáng, thuận tiện để người lao động làm việc ở mọi
ngành nghề, mọi lĩnh vực, mọi tổ chức đều được tham gia BHXH.
Đồng thời từng bước hoàn thiện và bổ sung các chế độ BHXH, đa
dạng hóa các hình thức và loại hình tham gia bảo hiểm xã hội.
Đặc biệt là việc xác định tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ, tuổi nghỉ
hưu giữa các loại lao động có ngành nghề khác nhau, trong đó cần
nghiên cứu tuổi nghỉ hưu của lao động "chất xám" của các nhà
quản lý và việc nghiên cứu triển khai 2 chế độ BHXH hưu trí, tử
tuất cho người lao động ở khu vực nông thôn, chế độ BHXH thất
nghiệp cho người lao động trong thời gian tạm thời mất việc nhằm
đảm bảo ổn định cuộc sống cho họ.
3.6. Nâng cao hiệu quả đầu tư nguồn quỹ nhàn rỗi.
Quỹ BHXH hoạt động theo nguyên tắc thu trước - chi sau, nên
phải có trách nhiệm bảo đảm an toàn và phát triển quỹ trong một
cơ chế luật pháp ít rủi ro nhất. Với tư cách là quỹ của người lao
động, quỹ tài chính tập trung, một tổ chức tài chính vô vị lợi, hoạt
động không vì mục tiêu lợi nhuận, nguồn vốn của quỹ cần được
82
hoà vào dòng chảy của ngân sách Quốc gia, tham gia tích cực có
chọn lọc vào thị trường tài chính:
- Trước hết, cần tạo lập những quy định mang tính pháp lý và
cơ chế tài chính để ngân quỹ của BHXH có thể tham gia đầu tư tài
chính theo phương thức an toàn, ít rủi ro nhất và trong thị trường
có sự bảo đảm, đặc biệt là việc duy trì và kiềm chế lạm phát ở
mức thấp nhằm tránh hiện tượng số tiền đầu tư từ ngân quỹ nhàn
rỗi lại nhận được mức lãi suất thấp hơn mức lạm phát hàng năm.
Cần phân biệt đầu tư tài chính của BHXH với đầu tư tài chính của
BHTM, lợi nhuận thu được từ đầu tư ngân quỹ BHXH hoàn toàn
không mang tính lợi nhuận thương mại và được dùng để bảo tồn,
phát triển quỹ, không phải là đối tượng chịu thuế. BHXH có thể
mua bảo hiểm để bảo hiểm, bù đắp và chia sẽ rủi ro trong đầu tư
tài chính.
- Thứ hai, cần tính toán một cách có căn cứ khoa học số ngân
quỹ tối đa có thể dùng để đầu tư tài chính, thời hạn cần thiết và an
toàn cho đầu tư. Cơ quan BHXH nên có những kiến nghị với
chính phủ trong việc mở rộng các lĩnh vực đầu tư nhằm nâng cao
hiệu quả. Có thể xem xét tới việc cho một số Bộ, ngành, hoặc
tổng công ty lớn trực tiếp vay vốn để thực hiện vào các dự án,
phát triển cơ sở hạ tầng xây dựng bởi các nhu cầu này sẽ không
ngừng tăng lên trong những năm tới và khả năng thu hồi vốn, có
lãi là tương đối cao. Tuy vậy, đối với mỗi dự án luôn cần có sự
thẩm định kỹ lưỡng về đơn vị được vay vốn và khả năng thu hồi
vốn của dự án. Đối với mỗi quyết định cho vay như vậy sẽ được
trình Chính phủ trước khi thực hiện. Còn phần dư của ngân quỹ
cần đảm bảo khả năng chi trả cho toàn hệ thống trong mọi thời
điểm với mức độ cao nhất. Đây là việc làm khó, nhưng hoàn toàn
có thể làm được và phải tính toán thận trọng bằng phương pháp
nghiệp vụ và thống kê kinh nghiệm
3.7. Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hoạt động là một
trong những mục tiêu hàng đầu, và đa dạng được các nhà quản lý
83
quan tâm. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản
lý nghiệp vụ BHXH không chỉ có lợi ích giảm chi phí, mà còn
giúp thống nhất cách nhìn của nhiều người, nhiều đơn vị, dưới
cùng một tiêu chuẩn thống nhất. Tạo ra phong cách làm việc khoa
học và hiệu quả, xây dựng các nguyên tắc bảo mật an toàn, có sự
kiểm tra và tính toán khoa học khi lưu trữ, xây dựng được sự tin
cậy đối với các đối tượng tham gia quan hệ BHXH... từ đó nâng
cao chiến lược phục vụ. Để ngày càng ứng dụng rộng rãi công
nghệ thông tin vào nghiệp vụ quản lý BHXH, cần quan tâm đến
một số vấn đề sau:
- Coi trọng hơn nữa quan hệ giữa các yếu tố cần thống nhất
trong nghiệp vụ thu - chi, kế toán, chế độ chính sách. Từ đó cùng
với những đổi mới về kỹ thuật, công nghệ, xây dựng được hệ
thống xử lý số liệu BHXH có chiến lược, hiệu quả. Muốn vậy,
phải có sự phối hợp đồng bộ từ trung ương đến địa phương, giữa
các cơ quan BHXH tỉnh, thành phố với nhau.
- Để có một mạng máy tính mạnh cho hệ thống BHXH, chúng
ta phải mạnh dạn ứng dụng kỹ thuật hiện đại bằng việc quan tâm
đầu tư trang bị máy móc, thiết bị hiện đại cho toàn hệ thống, đào
tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu. Điều quan trọng và cần làm
trước hết là xây dựng cho được hệ thống các tiêu chuẩn trong các
nghiệp vụ BHXH. Chẳng hạn: chuẩn hoá các mã quản lý, danh
mục các báo biểu, các chỉ tiêu thống kê và phương pháp tính.
- Ngoài ra, còn phải đầu tư cho các phần mềm đáp ứng nhu
cầu tự động hoá có khả năng thích ứng với sự thay đổi về chế độ
chính sách. Trong tương lai gần, hệ thống thông tin BHXH Việt
Nam cần được nối mạng toàn ngành, rút ngắn khoảng cách về
trình độ phát triển với các ngành nghề khác. Đồng thời thúc đẩy
tiến trình cải cách hành chính, nâng cao chiến lược hoạt động
BHXH, góp phần đưa ngành BHXH Việt Nam lên một tầm cao
mới
3.8. Hợp tác trong nước và quốc tế về BHXH
84
Với đặc thù là hoạt động mang tính xã hội và nhân đạo nên
việc hợp tác với các tổ chức trong nước và quốc tế là hoạt động
hết sức cần thiết đối với cơ quan bảo hiểm xã hội. Trong điều kiện
mới được thành lập của BHXH Việt Nam, cộng với sự hỗ trợ từ
ngân sách Nhà nước còn lớn cho quỹ BHXH, chính vì vậy cần
tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế và đẩy mạnh hơn nữa
hợp tác với các cơ quan, đoàn thể trong nước tạo điều kiện cho
thực hiện các hoạt động BHXH tốt hơn. Đẩy mạnh hơn nữa quan
hệ với các tổ chức BHXH, lao động quốc tế với mục đích trao đổi,
đào tạo cán bộ, chuyên gia để nâng cao trình độ cho đội ngũ cán
bộ làm về công tác BHXH.
85
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh đất nước đang tiến hành công cuộc công
nghiệp hoá - hiện đại hoá như hiện nay thì vấn đề người lao động
và các chế độ chính sách đối với người lao động ngày càng trở lên
quan trọng bởi nó không chỉ có ý nghía về mặt kinh tế mà còn có
ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội sâu sắc. Hơn thế nữa, sự mở ra
của nhiều thành phần kinh tế đã và đang gây không ít khó khăn
cho các nhà quản lý vĩ mô trong việc chăm lo cuộc sống và điều
kiện làm việc của người lao động. Để có thể giải quyết tốt vấn đề
này, trong những năm vừa quan Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều
quan tâm cho công tác BHXH. Từ đó giúp người lao động yên tâm
hơn trong công tác.
Qua 5 năm từ khi chính thức đi vào hoạt động, những kết quả
ban đầu mà BHXH Việt Nam đã làm được là rất đáng trân trọng,
góp phần giúp chính phủ giải quyết tốt các chế độ, chính sách của
Đảng và Nhà nước về công tác BHXH cho người lao động. Trong
thời gian hoạt động vừa qua, BHXH Việt Nam đã chứng tỏ vai trò
quan trọng trong việc góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách
Nhà nước, tạo nguồn vốn khá lớn để đầu tư tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Ngoài ra, từ khi thực hiện cơ chế mới trong thu chi
BHXH cũng đã tạo ra một thói quen và nhận thức mới tốt hơn,
toàn diện hơn cho người lao động và người sử dụng lao động về
BHXH.
BHXH Việt Nam luôn được sự quan tâm chỉ đạo của chính
phủ và các cơ quan Nhà nước có liên quan nhưng vẫn không tránh
khỏi những khó khăn và hạn chế. Những khó khăn trong công tác
BHXH có nguyên nhân từ phía người lao động, người sử dụng lao
động và cả nguyên nhân chủ quan từ phía BHXH Việt Nam. Đó là
sự thiết hụt trong nhận thức của khá nhiều người lao động đặc biệt
là trong các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh, điều này dẫn đến nhiều thiếu hụt cho người lao động khi
có rủi ro xảy ra. Bên cạnh đó, nhiều chủ doanh nghiệp không thực
86
sự tuân thủ các quy định trong thực hiện nghĩa vụ về BHXH cho
người lao động mà họ sử dụng vì vậy càng làm tăng khó khăn cho
quỹ BHXH. Ngoài ra, các cơ chế và quy định cho đầu tư quỹ
BHXH chưa thực sự thông thoáng tạo điều kiện thuận lợi cho
BHXH có thể thực hiện tốt nhiệm vụ bảo toàn và phát triển nguồn
quỹ.
Tuy có những khó khăn và hạn chế như vậy trong công tác
BHXH nhưng có thể khẳng định thuận lợi là cơ bản và nếu có sự
hỗ trợ hơn nữa của Chính phủ, các bộ ngành và đặc biệt là sự nỗ
lực của bản thân BHXH Việt Nam thì trong thời gian tới chúng ta
tin tưởng các chính sách chế độ về BHXH cho người lao động sẽ
được thực hiện tốt hơn đáp ứng lòng mong mỏi và trông đợi của
hàng triệu người lao động Việt Nam sống trên mọi miền đất nước.
Từ đó góp phần tích cực, tạo điều kiện tăng thu cho quỹ BHXH
Việt Nam. Hơn thế nữa, việc làm tốt công tác BHXH cũng là sự
khẳng định trong tương lai không xa chúng ta có thể bắt kịp các
quốc gia khác trên thế giới không chỉ bằng thành tự kinh tế mà
còn bằng những giá trị đạo đức trong bảo vệ và tôn trọng quyền
lơị của người lao động, một trong những ưu việt của chế độ
XHCN mà chúng ta đang quyết tâm xây dựng.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong
Bộ môn Kinh tế bảo hiểm - trường Đại học Kinh tế Quốc dân, cảm
ơn thầy giáo Nguyễn Văn Định - Tiến sĩ, chủ nhiệm Bộ môn Kinh
tế bảo hiểm - trường Đại học Kinh tế Quốc dân và các cán bộ
nhân viên Trung tâm thư viện - trường Đại học Kinh tế Quốc dân
đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Bảo hiểm - trường Đại học Kinh tế Quốc dân
; NXB Thống kê - Hà Nội - 2000 -
2. Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm - trường Đại học
Kinh tế Quốc dân; NXB Giáo dục - 1998
3. Giáo trình Thống kê bảo hiểm trường Đại học Kinh tế
Quốc dân; NXB Thống kê - Hà Nội 1996 -
4. Sách Hỏi - Đáp về BHXH; NXB Lao động - xã hội - 1999
5. Hệ thống các văn bản pháp quy về BHXH - BHXH Việt
Nam.
6. Tạp chí BHXH - số 1, 4 năm 1999 và các số năm 2000
88
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
I. Khái quát chung về BHXH và quỹ BHXH. ......................................... 3
1.1. Sự cần thiết khách quan của BHXH................................................. 3
1.2. Quá trình phát triển của BHXH. ...................................................... 5
1.3. Bản chất của BHXH ...................................................................... 16
1.4. Chức năng và tính chất của BHXH ..Error! Bookmark not defined.
1.5. Quỹ BHXH.................................................................................... 16
II. Thực trạng công tac thu nộp quỹ BHXH Việt Nam trong thời
gian qua................................................................................................... 34
2.1. Quy định về thu nộp quỹ BHXH Việt Nam ................................... 51
2.2. Tình hình thu nộp quỹ BHXH Việt Nam hiện nay. ........................ 60
2.3. Bài học kinh nghiệm rút ra từ hoạt động BHXH trong và ngoài
nước. .................................................................................................... 72
III. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp quỹ BHXH.. 72
3.1. Tăng cường công tác quản lý thu nộp BHXH. ............................... 76
3.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm xã hội......................... 77
3.3. Công tác thông tin tuyên truyền về BHXH. ................................... 78
3.4. Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ hiện đại hoá hoạt động ngành
BHXH. ................................................................................................. 79
3.5. Mở rộng đối tượng tham gia và phạm vi BHXH. ........................... 80
3.6. Nâng cao hiệu quả đầu tư nguồn quỹ nhàn rỗi. .............................. 81
3.7. Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý...................... 82
3.8. Hợp tác trong nước và quốc tế về BHXH ...................................... 83
Kết luận 85
Tài liệu tham khảo 34
89
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vấn đề thu nộp quỹ bảo hiểm xã hội trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay.pdf