Khóa luận Hoạt động kinh doanh ngoại hối tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - Thực trạng và một số giải pháp phòng ngừa rủi ro

Kinh doanh ngoại hối là một hoạt động đóng vai trò quan trọng đối với các Ngân hàng thương mại trong việc góp phần gia tăng nguồn thu cũng như hỗ trợ, thúc đẩy các nghiệp cụ khác phát triển. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp và nhạy cảm mà hoạt động kinh doanh ngoại hối cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho các Ngân hàng thương mại. Trong những năm qua, tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam, các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối đã từng bước được hình thành và phát triển, bước đẩu tạo nên những kết quả đáng khích lệ. Các giao dịch giao ngay, giao dịch kỳ hạn, giao dịch hoán đổi được triển khai đã giúp các Ngân hàng trong việc cân bằng trạng thái ngoại hối, giúp giảm thiểu rủi ro tỷ giá, giảm sức ép cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Giao dịch quyền chọn đã qua giai đoạn thực hiện thí điểm và đang được Ngân hàng Nhà Nước tiếp tục nghiên cứu để đưa ra những quy định pháp lý chung hướng dẫn các Ngân hàng thực hiện. Đồng thời với việc phát triển các nghiệp vụ kinh doanh, các Ngân hàng thương mại Việt Nam cũng đã có sự đầu tư đáng kể vào việc nâng cao công nghệ, đào tạo nhân lực, đổi mới phương thức tổ chức quản lý kinh doanh nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển.

pdf83 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 4278 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hoạt động kinh doanh ngoại hối tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - Thực trạng và một số giải pháp phòng ngừa rủi ro, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g ổn định trong thời gian dài, hầu như không có biến động lớn, thậm chí có lúc tỷ giá USD và JPY so với VND đứng yên hoặc giảm. Do đó, việc duy trì trạng thái ngoại tệ đoản đối với USD và JPY là bình thường. Thứ hai, đặc điểm của thị trường ngoại hối Việt Nam thời gian này là theo hướng một chiều, cầu về ngoại tệ luôn lớn hơn cung ngoại tệ, do vậy mà doanh số mua vào nhỏ hơn doanh số bán ra và điều này dẫn tới trạng thái 47 ngoại tệ của các ngân hàng thường ở trạng thái đoản. Thứ ba, lãi suất cho vay VND thường cao hơn nhiều so với lãi suất cho vay của USD, EUR và JPY (lãi suất thực của VND dương), vì thế các ngân hàng sẵn sàng bán ngoại tệ đổi lấy nội tệ và cho vay nội tệ để hưởng lãi suất cao, đến hạn hoàn trả ngoại tệ họ sẽ mua ngoại tệ vào và khoản lãi thu được từ cho vay VND luôn lớn hơn khoản thua lỗ do tỷ giá tăng (tức là VND mất giá) trong khi chính sách tỷ giá mà NHNN theo đuổi lại ổn định trong thời gian dài và vì thế trạng thái ngoại tệ các ngân hàng thường đoản. Từ cuối năm 2006 đến những tháng đầu quý I/2008, trạng thái ngoại tệ của các NHTM Việt Nam lại ở tình huống ngược lại, đó là nó luôn ở mức dư thừa. Nguyên nhân của tình trạng này là do: Thứ nhất là nguồn cung ngoại tệ cho các NHTM tăng nhanh là do thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian qua phát triển với tốc độ khá nóng. Điều đó khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài đổ xô vào thị trường Việt Nam. Họ chuyển USD vào Việt Nam và chuyển đổi ra VND để kinh doanh chứng khoán dẫn đến cung ngoại tệ tăng mạnh. Thứ hai là, ngoài nguồn vốn đầu tư gián tiếp thì nguồn vốn đầu tư trực tiếp FDI thực hiện trong năm 2007 cũng như trong quý I năm 2008 tăng cao. Trong quý I năm 2008, tính chung cả vốn cấp mới và tăng thêm, cả nước đã thu hút thêm đạt 5,436 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký, tăng 31% so với cùng kỳ năm 2007 đã làm tăng nguồn cung USD của các NHTM. Thứ ba, do Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) liên tục cắt giảm lãi suất đã làm cho USD giảm giá mạnh so với các tiền tệ như EUR, JPY… cũng làm cho dòng vốn đầu tư chuyển từ USD sang VND. Tất cả những lý do trên đã làm cho trạng thái ngoại tệ của các NHTM Việt Nam khi đó luôn ở trong tình trạng dư thừa. Trong khi đó, để tránh áp lực lạm phát, NHNN không mua số ngoại tệ dư thừa này đã khiến cho tỷ giá 48 USD/VND liên tục suy giảm. Và chính điều này lại làm tăng khả năng xảy ra rủi ro tỷ giá cho các NHTM. Cuối năm 2008 và bước sang năm 2009, thị trường ngoại hối diễn biến phức tạp khi cung ngoại tệ từ phía các NHTM không đáp ứng đủ so với cầu ngoại tệ. Sự căng thẳng ngoại tệ trên thị trường có thể lý giải bởi hai nguyên nhân cơ bản. Thứ nhất là do sự tháo lui của các dòng vốn đầu tư trực tiếp (năm 2008) ra khỏi Việt Nam đặc biệt trong các tháng 5, 6, 10, 11 đã tạo sức ép lên nguồn ngoại tệ đẩy tỷ giá lên cao. Nguyên nhân thứ hai và xuyên suốt những biến động tỷ giá chính là tâm lý găm giữ ngoại tệ trong doanh nghiệp và dân cư. Đặc biệt năm 2009, triển khai các gói hỗ trợ lãi suất, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đã chuyển từ vay ngoại tệ sang vay bằng nội tệ, thậm chí có những doanh nghiệp còn vay nội tệ để mua ngoại tệ trả nợ trước hạn. Chính những nguyên nhân này đã khiến cho thị trường ngoại tệ càng trở nên căng thẳng. Năm 2009, nhiều NHTM Việt Nam rơi vào tình trạng thiếu ngoại tệ để bán, thừa ngoại tệ để cho vay. Trong khi lãi huy động ngoại tệ vẫn phải trả nhưng lại không thu được lãi nhờ cho vay, nhiều ngân hàng càng lâm vào tình trạng mất cân đối về trạng thái, nguy cơ gặp rủi ro tỷ giá lớn. Đứng trước những khó khăn thách thức đó, năm 2009, NHNN đã phải tìm nhiều biện pháp để hỗ trợ các NHTM, góp phần ổn định thị trường ngoại hối. Cho đến nay, các NHTM Việt Nam đã dần ổn định và cân bằng được trạng thái ngoại tệ nhờ những biện pháp can thiệp mạnh của NHNN như hỗ trợ bằng cách bán ngoại tệ, tăng tỷ giá, giảm biên độ dao động tỷ giá, tăng lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Như vậy có thể thấy rằng, trong thời gian qua các NHTM Việt Nam luôn ở trong tình trạng mất cân đối về trạng thái ngoại tệ, nguy cơ gặp rủi ro tỷ giá là rất lớn. 49 2.1.2. Rủi ro do môi trường thông tin Ở Việt Nam, do việc ứng dụng công nghệ vào công tác dự báo còn hạn chế nên hoạt động kinh doanh đầu tư phụ thuộc rất lớn vào yếu tố tâm lý chủ quan, mà tâm lý này lại bị tác động rất mạnh mẽ từ những thông tin bên ngoài. Mặt khác, việc công khai minh bạch hoá các thông tin của nhiều NHTM Việt Nam còn hạn chế nên các đối tác và các nhà đầu tư, các khách hàng cá nhân, doanh nghiệp không nắm được những thông tin chính thức từ phía ngân hàng mà chủ yếu lại chỉ nhận được các thông tin không có sự xác nhận của ngân hàng nên thường thiếu chính xác và không chỉ có đối tác chịu ảnh hưởng mà trong rất nhiều trường hợp chính bản thân các NHTM đó lại chịu rủi ro nhiều hơn. Bên cạnh đó, các NHTM Việt Nam cũng gặp phải những rủi ro do thiếu thông tin về đối tác hay thông tin để phục vụ công tác dự báo hoặc những rủi ro khi đối thủ cạnh tranh hoặc kẻ xấu cố ý tung ra những tin đồn thất thiệt. Năm 2009, khi nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, mức lạm phát cao, nhiều kẻ đầu cơ đã lợi dụng những biến động của thị trường tài chính để tung ra những tin đồn về việc VND mất giá. Hàng loạt những nguồn cung ngoại hối thường xuyên cho các NHTM như nguồn thu từ xuất khẩu của các doanh nghiệp, kiều hối của dân cư…đã bị găm lại các tài khoản tiền gửi. Điều này đã góp phần gây ra tình trạng khan hiếm ngoại tệ tại các NHTM, ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh ngoại hối khi các ngân hàng này thiếu ngoại tệ để bán, thừa ngoại tệ để cho vay. Tuy sự việc này giờ đây đã được phân tích làm rõ bởi những chuyên gia kinh tế nhưng đã để lại bài học về công tác quản trị rủi ro thông tin đối với các ngân hàng. Nhắc tới rủi ro do tin đồn thất thiệt trong hoạt động của ngân hàng, chắc hẳn không ai không biết đến trường hợp của ngân hàng ACB. Đây là trường hợp đầu tiên gặp phải sự cố tin đồn trong hoạt động của hệ thống ngân 50 hàng Việt Nam. Câu chuyện xảy ra khi vài ngày trước 14/10/2003, có một tin không chính thức là Tổng giám đốc Ngân hàng Á Châu (ACB) đã tham lam công quỹ làm thụt két ngân hàng rồi bỏ trốn và sau đó bị bắt bỏ tù. Thậm chí một số khách hàng còn nhận được các cuộc điện thoại cho hay ngân hàng đã “phá sản”. Tâm lý lo ngại đã dấy lên trong một số khách hàng. Thông tin được “truyền tai” bỗng lan nhanh như một thứ “bệnh dịch”. Hậu quả là hàng loạt các khách hàng của ACB ùn ùn kéo đến rút tiền tại hội sở và một số chi nhánh của ACB tại TP. Hồ Chí Minh. Ngân hàng phải đối mặt với tình trạng thụt két nghiêm trọng khi lượng tiền rút ra khoảng 600 – 700 tỷ trong đó có khoảng 16 triệu USD được chi trả khách hàng là người dân. Hoạt động của ACB đã bị rối loạn trong mấy ngày trong đó có cả các hoạt động kinh doanh ngoại hối và các hoạt động tín dụng khác. Vụ việc chỉ kết thúc khi Tổng giám đốc ACB và thống đốc Ngân hàng Nhà nước trả lời trực tuyến với độc giả trên mạng VnExpress. NHNN đã phải phát hàng ngàn tờ thông báo phủ nhận tin đồn có kèm theo ảnh của lãnh đạo ACB tới tay của khách hàng chờ rút tiền. Thống đốc NHNN đã cam kết hỗ trợ đầy đủ mọi yêu cầu về VND, ngoại tệ và vàng cho ACB để chi trả cho khách hàng. Vụ việc dần đã được giải quyết ổn thoả nhưng có một điều không thể phủ nhận rằng dù tin đồn đã được dập tắt nhưng ACB đã phải mất khá nhiều thời gian và công sức sau đó để ổn định lại hoạt động kinh doanh và lấy lại uy tín của mình. Sóng gió đã qua nhưng khó có thể chắc chắn rằng những sự cố như vậy có xảy ra nữa hay không. Sự việc này không chỉ để lại bài học kinh nghiệm cho ACB nói riêng mà còn là bài học cho toàn ngành ngân hàng nói chung trong công tác quản trị rủi ro thông tin. 2.1.3. Rủi ro đạo đức Loại rủi ro này có thể được gây ra từ phía các nhà quản lý ngân hàng hoặc từ phía các cán bộ làm công tác kinh doanh ngoại hối. Đối với các nhà 51 quản lý ngân hàng, rủi ro này xảy ra khi một số nhà quản lý ham lợi cá nhân mà cố tình vi phạm những quy định của ngân hàng. Hoặc rủi ro cũng có thể xảy ra khi tại nhiều NHTM Việt Nam, việc phân định chức năng hoạt động kinh doanh ngoại hối còn chưa rõ ràng thậm chí nghiệp vụ này lại được giao cho một phòng ban không chuyên khác hay một số cá nhân đảm nhiệm. Sẽ không có gì đáng bàn nếu như những cá nhân này thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên vấn đề sẽ đáng phải lưu tâm nếu như những người này vì hám lợi, tha hoá về đạo đức mà bắt tay với kẻ xấu để bòn rút tài sản của ngân hàng. Còn đối với các cán bộ trực tiếp hoạt động kinh doanh ngoại hối, rủi ro đạo đức xảy ra khi những cán bộ này làm việc thiếu ý thức trách nhiệm hoặc lợi dụng quyền hạn mà thực hiện những nghiệp vụ không được phép. Trường hợp ở chi nhánh ngân hàng Công thương Hải Phòng là một ví dụ. Từ năm 2003, người được giao quyền thực hiện nghiệp vụ mua bán ngoại tệ với ngân hàng Công thương Việt Nam và các tổ chức tín dụng khác là phó phòng tài trợ thương mại. Mặc dù biết là không được phép nhưng người này vẫn thực hiện giao dịch ngoại tệ với ít nhất ba ngân hàng nước ngoài trong đó có ngân hàng ABN Amro của Hà Lan và những thua lỗ lớn của chi nhánh này đều xuất phát từ những giao dịch với ngân hàng trên. Trong vụ việc này có dấu hiệu cho thấy có sự thông đồng móc ngoặc của một số cán bộ, nhân viên của hai ngân hàng này, có 4 hợp đồng ký kết mà không thanh toán, có 26 giao dịch có tỷ giá vượt ra ngoài biên độ (tỷ giá này không có thật trên thị trường ngoại tệ tại thời điểm giao dịch). Điều khó hiểu hơn nữa là trong tổng số 504 hợp đồng có 83 hợp đồng mới chỉ có ABN- AMBRO Hà Nội ký, còn ngân hàng Công thương Hải Phòng chưa ký nhưng vẫn chuyển tiền thanh toán cho nhau. Như vậy có thể thấy rằng, việc ký kết hợp đồng chỉ là hình thức, hoạt động mua bán là không có thật. Vụ việc này xảy ra đã rung lên hồi chuông cảnh báo về rủi ro đạo đức trong các ngân hàng đồng thời cũng cảnh báo về những bất cập trong khâu quản lý, tổ chức tại mỗi ngân 52 hàng bởi nếu làm tốt công tác quản lý, giám sát thường xuyên thì vụ việc trên đã không thể xảy ra trong suốt hai năm mà Hội sở chính vẫn không hề hay biết. Hay như vụ thụt két 50.000 USD của ngân hàng Vietcombank, chi nhánh Đà Nẵng xảy ra vào tháng 2/2009 cũng xuất phát từ vấn đề đạo đức . Sự việc xảy ra khi một cán bộ ngân hàng lợi dụng công nghệ cao, dùng mã giao dịch viên của mình đột nhập vào tài khoản ngân hàng của khách hàng để tìm cách rút tiền. Tất nhiên là sự việc sau đó cũng đã bị phát giác nhưng nó đã để lại bài học về công tác quản trị rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng trong thời kì công nghệ hiện đại. Bên cạnh những nguyên nhân xuất phát từ phía bên trong, các ngân hàng cũng có thể gặp phải rủi ro đạo đức từ phía đối tác/ khách hàng khi ngân hàng không giám sát được đầy đủ, kích thích người này dùng không đúng mục đích như đã cam kết với ngân hàng. 2.1.4. Rủi ro do trình độ tác nghiệp. Thực tế ở Việt Nam, số lượng cán bộ kinh doanh ngoại hối có trình độ hiểu biết, tinh thông nghiệp vụ, có kinh nghiệm, giỏi ngoại ngữ còn khá khiêm tốn. Cũng chính vì vậy, tại các NHTM Việt Nam hiện nay vẫn còn tình trạng cán bộ kinh doanh ngoại hối chưa qua đào tạo chính quy nghiệp vụ, kỹ năng nghiệp vụ và kinh nghiệm còn hạn chế được sử dụng vào những vị trí quan trọng trong kinh doanh ngoại hối. Hơn nữa, hoạt động kinh doanh ngoại hối là một hoạt động còn khá mới mẻ ở Việt Nam nên số lượng người có hiểu biết về nghiệp vụ, pháp luật và quy trình giao dịch cũng không nhiều. Vì vậy, rủi ro do việc chưa thành thạo hoặc kỹ thuật nghiệp vụ không tốt, không nắm rõ các quy định của pháp luật là điều thường thấy trong hệ thống các NHTM Việt Nam. 53 2.1.5. Rủi ro do vận hành Nhìn chung, hạ tầng cơ sở kỹ thuật công nghệ tại các NHTM Việt Nam tuy đã được cải thiện đáng kể song vẫn còn khá lạc hậu so với thế giới. Ở hầu hết các ngân hàng, tốc độ đường truyền còn chậm nên không xây dựng được cơ sở dữ liệu tập trung, không thể quản lý trực tuyến thống nhất luồng tiền và trạng thái ngoại hối của toàn bộ hệ thống, vì vậy ở hầu hết các NHTM Việt Nam chủ yếu quản lý hoạt động kinh doanh ngoại hối của mình bằng các báo cáo. Mà thực tế, quá trình quản lý bằng báo cáo tốn kém cả về mặt thời gian và chi phí nhưng lại bị phụ thuộc vào nhận định chủ quan của người trực tiếp kiểm tra. Điều này có thể gây ra rủi ro cho ngân hàng khi quá trình kiểm tra, soát xét của con người có thể có sự nhầm lẫn, thiếu chính xác. Hơn nữa việc không thể quản lý trực tuyến thống nhất luồng tiền và trạng thái ngoại hối của toàn bộ hệ thống có thể dẫn đến tình trạng mất cân đối về trạng thái ngoại tệ cũng có thể khiến cho các ngân hàng gặp phải rủi ro khi tỷ giá biến động mạnh. 2.1.6. Rủi ro do quản lý Đây là rủi ro xuất phát từ quá trình quản lý con người, quản lý hoạt động kinh doanh ngoại hối. Thực tế, ở các NHTM Việt Nam, mô hình quản lý trong kinh doanh ngoại hối là phi tập trung, tức là rủi ro được quản lý ở từng chi nhánh. Vì thế rủi ro trong kinh doanh này dễ xuất phát từ khâu quản lý giữa hội sở và chi nhánh, giữa cấp trên và cấp dưới trong điều kiện việc kiểm tra giám sát không thường xuyên. Năm 2009, hiện tượng nhiều đại lý, bàn thu đổi ngoại tệ đã bị rút giấy phép hoạt động đã để lại cho các Ngân hàng bài học về công tác quản lý hoạt động kinh doanh. Việc lỏng lẻo trong công tác kiểm tra giám sát của các ngân hàng đã tạo điều kiện để các chi nhánh này hoạt động kinh doanh cả những nghiệp vụ không được cho phép kinh doanh. Điều đặc biệt là công tác kiểm 54 tra giám sát chỉ được thực hiện sát sao khi có sự căng thẳng ngoại tệ trên thị trường ngoại hối và nhiều NHTM có trạng thái ngoại tệ âm. Trở lại với vụ thua lỗ của chi nhánh ngân hàng Công thương Hải Phòng bị phát hiện năm 2006, ta có thể thấy rõ hơn những bất cập trong khâu quản lý. Thực tế, theo quy định của Thống đốc NHNN và Tổng Giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam thì chi nhánh ngân hàng Công thương tại các tỉnh, thành phố chỉ được phép mua ngoại tệ và bán lại cho khách hàng trong nước, ngoài ra không được phép thực hiện các giao dịch khác. Tuy nhiên, bất chấp những quy định đó, tư năm 2003 đến năm 2006, chi nhánh ngân hàng Công thương Hải Phòng đã kinh doanh ngoại tệ trái phép dưới hình thức mua bán chuyển đổi giữa đồng USD với một số ngoại tệ mạnh. Nếu như làm tốt khâu quản lý trên toàn bộ hệ thống ngân hàng thì Hội sở Ngân hàng Công thương Việt Nam không thể không biết được hoạt động của chi nhánh Hải Phòng và những hợp đồng mua bán không có thật đó chắc chắn sẽ bị phát hiện sớm chứ không thể tiến hành suôn sẻ trong suốt hai năm trời. 2.2. Đánh giá thực trạng áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngoại hối tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam Từ thực trạng các rủi ro thường gặp trong hoạt động kinh doanh ngoại hối, các NHTM Việt Nam cần đúc rút kinh nghiệm và đưa ra các biện pháp để phòng ngừa rủi ro khi triển khai hoạt động này. Trên thực tế thì một số biện pháp phòng ngừa rủi ro cũng đã được áp dụng tại các NHTM Việt Nam, bao gồm các biện pháp về kỹ thuật nghiệp vụ, các biện pháp về đào tạo con người, các biện pháp về công nghệ. - Đối với các biện pháp về kỹ thuật nghiệp vụ: Với các công cụ quản trị rủi ro, các NHTM Việt Nam ngày càng linh hoạt hơn trong việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động 55 kinh doanh ngoại hối. Tuy nhiên phổ biến nhất hiện nay vẫn là biện pháp quản lý rủi ro bằng hạn mức. Cách quản lý này một phần đã giúp các ngân hàng phòng tránh được rủi ro do biến động tỷ giá. Tuy nhiên, công tác quản lý rủi ro bằng hạn mức này thực tế lại tỏ ra chưa thực sự có hiệu quả vì các NHTM chủ yếu mới xây dựng hạn mức cho từng nhân viên kinh doanh và toàn bộ ngân hàng còn hạn mức với các kỳ hạn thì chưa phổ biến trong khi đó thực tế cho thấy rằng trạng thái ngoại hối kỳ hạn vẫn có thể tồn tại rất nhiều rủi ro. Với các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro, việc áp dụng các công cụ này cũng còn khá hạn chế. Cũng có thể hiểu nguyên nhân của vấn đề này là do các ngân hàng chủ yếu là cung cấp dịch vụ cho khách hàng còn kinh doanh cho bản thân mình thì ít. Trong khi đó, phần lớn khách hàng của các Ngân hàng chưa quen sử dụng các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro nên các nghiệp vụ này cũng chưa thực sự phát triển mạnh. - Đối với các biện pháp đào tạo nguồn nhân lực: Tại nhiều NHTM Việt Nam hiện nay, các khoá học để nâng cao trình độ, kỹ năng cho các cán bộ làm công tác kinh doanh ngoại hối đã được quan tâm tổ chức. Các khoá học có khi còn được tổ chức với sự tham gia của các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực này thậm chí còn có cả các chuyên gia của một số ngân hàng nước ngoài có uy tín trên thế giới. Tuy nhiên, xét một các toàn diện thì công tác đào tạo cán bộ làm công tác kinh doanh ngoại hối tại các NHTM chưa được quan tâm thường xuyên. Các biện pháp về con người chưa chú trọng nhiều tới việc làm thế nào để giảm thiểu rủi ro đạo đức trong khi đây là loại rủi ro đang ngày một gia tăng. - Đối với các biện pháp về công nghệ: 56 Để phục vụ tốt hơn cho hoạt động kinh doanh ngoại hối, trong những năm qua các NHTM đã cố gắng nâng cấp công nghệ tạo điều kiện cho các giao dịch kinh doanh ngoại hối diễn ra nhanh chóng và hiệu quả. Tuy nhiên, xét về tầm quan trọng của công nghệ đối với hoạt động kinh doanh này của các ngân hàng thì có thể nhận thấy rằng các biện pháp về công nghệ vẫn chưa thực sự được đầu tư đúng mức. Điều này được thể hiện rõ nhất ở việc các giao dịch chủ yếu được thể hiện bằng văn bản, các công cụ, phần mềm dự báo rủi ro chưa đáp ứng đủ, thông tin thiếu cập nhật, thiếu chính xác… Qua những đánh giá về thực trạng hoạt động KDNH và công tác phòng ngừa rủi ro trong hoạt động này tại các NHTM Việt Nam có thể thấy rằng trong những năm qua, các NHTM Việt Nam cũng đã nỗ lực rất nhiều trong việc thúc đẩy phát triển các nghiệp vụ đồng thời nâng cao công tác quản trị rủi ro trong hoạt động này. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan mà công tác phòng ngừa rủi ro trong KDNH tại các NHTM Việt Nam trong thời gian qua còn nhiều hạn chế. Do đó, trong thời gian tới, các NHTM Việt Nam cần phải nỗ lực hơn nữa để cải thiện và nâng cao công tác phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh này. Tóm tắt chƣơng II: Thông qua việc phân tích thực trạng hoạt động KDNH đồng thời với việc phân tích một số rủi ro thường gặp trong KDNH, tác giả đã đưa ra những đánh giá về thành tựu và hạn chế trong việc triển khai hoạt động KDNH cũng như việc phòng ngừa rủi ro trong KDNH tại các NHTM Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, trong chương này, tác giả cũng đưa ra những nhận định về cơ hội và thách thức trong hoạt động KDNH của các NHTM Việt Nam trong môi trường đầy tính cạnh tranh hiện nay. Đây chính là cơ sở cho những giải pháp và kiến nghị sẽ được trình bày ở chương III. 57 CHƢƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM 1. Định hƣớng phát triển hoạt động kinh doanh ngoại hối của các Ngân hàng thƣơng mại Việt Nam trong thời gian tới. Theo cam kết khi gia nhập WTO, kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2011, Việt Nam phải có nghĩa vụ đối xử như nhau đối với các NHTM Việt Nam và các ngân hàng nước ngoài. Sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường là điều có thể nhìn thấy được. Vì thế, các NHTM Việt Nam cần xác định cho mình một lối đi riêng để thích ứng với môi trường cạnh tranh mới. Theo đó hoạt động kinh doanh ngoại hối của các NHTM nói riêng cũng cần phải có những định hướng cụ thể để phát triển vững chắc, tránh những rủi ro mới phát sinh do hội nhập. Theo định hướng phát triển từ nay cho tới năm 2020, Việt Nam chú trọng phát triển dịch vụ ngoại hối trong các tầng lớp dân cư. Cụ thể là, Việt Nam tập trung tối đa các nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng để đáp ứng tốt nhất các nhu cầu chi tiêu ngoại tệ hợp lý của các doanh nghiệp và cá nhân, đồng thời kiểm soát một cách có hiệu quả chu chuyển ngoại tệ trong nền kinh tế góp phần giảm bớt tình trạng đôla hoá. Bảo đảm quyền sở hữu, mua bán và sử dụng ngoại tệ của các doanh nghiệp và cá nhân theo quy định của pháp luật. Mặt khác Việt Nam sẽ tiếp tục tạo điều kiện khuyến khích tối đa luồng tiền kiều hối chuyển về nước. Đa dạng hoá các hình thức huy động kiều hối chuyển về như qua ngân hàng, qua tài khoản của các tổ chức, cá nhân; đẩy mạnh quan hệ hợp tác với nước ngoài, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng như chuyển nhanh, chuyển trả trực tiếp, giảm phí chuyển tiền, đơn giản hoá 58 các thủ tục nhận tiền, mạng lưới chi trả phát triển rộng khắp. Song song với quá trình tăng cường các tiện ích trong quản lý ngoại hối, cần hạn chế tiến tới xoá bỏ tín dụng ngoại tệ, trước mắt là tín dụng ngoại tệ ngắn hạn. Về mặt dài hạn, để chống tình trạng đôla hoá, cần thực hiện chính sách kiều hối cho phép người thụ hưởng nhận bằng ngoại tệ nhưng chỉ được rút ra bằng tiền đồng đi kèm chính sách tỷ giá hợp lý khuyến khích người thụ hưởng bán ngoại tệ cho hệ thống ngân hàng thông qua chế độ tỷ giá linh hoạt. Bên cạnh đó chính sách tiết kiệm ngoại tệ cũng phải thống nhất chỉ cho phép người gửi tiết kiệm ngoại tệ tại ngân hàng, số ngoại tệ trên tài khoản được phép chi tiêu ở nước ngoài hoặc thực hiện các nghiệp vụ của ngân hàng để bảo toàn vốn nhưng khi rút ra để chi tiêu trong nước chỉ thực hiện bằng tiền đồng với tỷ giá hợp lý, khuyến khích khách hàng bán cho ngân hàng. 2. Các giải pháp phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngoại hối đối với các NHTM Việt Nam. 2.1. Hoàn thiện công cụ quản lý rủi ro bằng hạn mức Để giảm thiểu rủi ro và tăng hiệu quả kinh doanh ngoại hối thì việc các NHTM thực hiện các biện pháp phân bổ hạn mức giao dịch là rất cần thiết. Biện pháp phân bổ hạn mức giao dịch chủ yếu dựa trên kinh nghiệm, trình độ, năng lực kinh doanh khác nhau của từng cán bộ kinh doanh ngoại hối. Tuy nhiên trong thời gian qua việc phân bổ các hạn mức này tại các NHTM Việt Nam còn nhiều hạn chế. Do vậy trong thời gian tới, các NHTM cần phải nhanh chóng hoàn thiện hơn công cụ quản lý hữu hiệu này. Trước mắt, các NHTM vẫn phải tiếp tục xây dựng hạn mức chung cho cả phòng kinh doanh, trên cơ sở đó phân bổ hạn mức chung cho từng cán bộ kinh doanh cụ thể. Nguyên tắc phân bổ hạn mức chung cho từng cán bộ chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thâm niên và năng lực kinh doanh trên thị 59 trường ngoại hối của họ. Theo đó, những nhà kinh doanh chuyên nghiệp, thâm niên, đã gặt hái được nhiều thành công phải trở thành những nhân viên kinh doanh chính, được giao hạn mức nhiều hơn những người mới thực hiện nghiệp vụ. Hơn nữa, các NHTM cũng phải có những quy định hạn mức theo các đồng tiền kinh doanh. Điều này là vô cùng cần thiết vì các ngoại tệ trên thị trường có các mức độ biến động khác nhau do đó xác suất xảy ra rủi ro đối với từng ngoại tệ cũng không giống nhau. Những đồng tiền ít biến động hơn thì hạn mức có thể cao hơn còn những đồng tiền biến động mạnh hơn thì xây dựng hạn mức thấp hơn. Trong thời gian qua, các NHTM Việt Nam cũng đã phần nào xây dựng được các loại hạn mức cho từng cán bộ giao dịch, từng bàn giao dịch và cho toàn ngân hàng. Tuy nhiên nếu ngân hàng có nhiều giao dịch, đặc biệt là các giao dịch kỳ hạn, hoán đổi mà vì lý do nào đó không được tính ngay vào trạng thái ngoại hối thì trạng thái ngoại hối đó sẽ không chính xác. Vì vậy, đối với các NHTM Việt Nam, việc xây dựng hạn mức cho từng loại nghiệp vụ cụ thể, ví dụ hạn mức giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi là việc làm cần thiết. Trong đó, để quản lý rủi ro tỷ giá tốt hơn, các nhà kinh doanh kỳ hạn còn phải duy trì hạn mức cho từng kỳ hạn cụ thể theo quy tắc kỳ hạn càng dài thì hạn mức càng thấp. Các hạn mức quan trọng mà các NHTM cần phải xây dựng là: - Hạn mức giao dịch trong ngày: cho phép kiểm soát tổng giá trị giao dịch trong ngày ứng với một giao dịch viên, từ đó hạn chế việc giao dịch viên này thực hiện nghiệp vụ quá mạo hiểm có thể gặp rủi ro thua lỗ lớn. - Hạn mức trạng thái qua đêm: không kiểm soát tổng giá trị giao dịch trong ngày của mỗi giao dịch viên nhưng hạn chế trạng thái ngoại tệ qua đêm (vào thời điểm cuối ngày) của giao dịch viên đó. Điều này nhằm hạn chế các rủi ro tỷ giá trong giao dịch giao ngay. 60 - Hạn mức đối với các trạng thái kỳ hạn: cho phép kiểm soát trạng thái của một loại ngoại tệ nào đó mà nhân viên kinh doanh ngoại hối được phép thực hiện giao dịch mua bán đối với một kỳ hạn nhất định. Việc xây dựng hạn mức cho các trạng thái kỳ hạn là vô cùng cần thiết. Vì NHTM có thể chịu thiệt hại lớn nếu như trong tương lai, tỷ giá của một loại ngoại tệ nào đó biến động mạnh và nhân viên kinh doanh ngoại hối để trạng thái ngoại hối quá cao đối với ngoại tệ đó. - Hạn mức đối với khách hàng: nhằm tránh những rủi ro đối tác không thực hiện hoặc không thể thực hiện nghĩa vụ. Các NHTM có thể đánh giá năng lực tài chính, uy tín, các mối quan hệ của đối tác hay khách hàng từ đó quy định hạn mức giao dịch tối đa thực hiện với đối tác hay khách hàng đó. 2.2. Đa dạng hoá các loại ngoại tệ trong kinh doanh và đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh. Hiện nay, các NHTM Việt Nam chủ yếu kinh doanh một số loại ngoại tệ mạnh như USD, CHF, HKD, AUD, CAD, EUR,… nhưng giao dịch bằng USD vẫn chiếm một tỷ trọng lớn bởi USD vẫn là đồng ngoại tệ mạnh, được chấp nhận thanh toán phổ biến nhất tại tất cả các thị trường trong nước cũng như quốc tế. Song trên thực tế, thời gian qua những biến động về kinh tế, chính trị đã làm cho đồng USD liên tục mất giá so với EUR và JPY. Do đó, các NHTM cũng nên tính đến việc kinh doanh các đồng tiền này nhiều hơn. Việc đa dạng hoá các loại ngoại tệ kinh doanh này có ý nghĩa trong việc phân tán rủi ro. Nếu chỉ tập trung vào đồng USD thì khi tỷ giá VND/USD biến động theo hướng bất lợi sẽ dẫn đến những khoản lỗ trong kinh doanh ngoại hối mà không có nguồn để bù đắp. Tất nhiên rằng việc đa dạng hoá các loại ngoại tệ cũng cần phải tính đến nhu cầu của khách hàng để từ đó có chiến lược kinh doanh cho phù hợp. 61 Bên cạnh việc đa dạng hoá các loại ngoại tệ, các ngân hàng cũng cần phải đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối. Hiện nay trên thị trường ngoại hối, các NHTM chủ yếu thực hiện các nghiệp vụ giao ngay, kỳ hạn và hoán đổi còn nghiệp vụ quyền chọn, theo quyết định của NHNN, mới dừng giai đoạn thí điểm từ tháng 3/2009; nghiệp vụ tương lai chưa thực hiện được do tính phức tạp và hạn chế về nguồn lực, công nghệ. Vì vậy trong thời gian tới, cùng với nỗ lực hoàn thiện các công cụ pháp lý của NHNN, các NHTM cũng cần có những biện pháp nhằm đẩy mạnh việc ứng dụng các công cụ này. Một mặt cũng là để phát triển hoạt động kinh doanh ngoại hối tại các NHTM, mặt khác cũng là đẩy mạnh việc phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngoại hối tại chính các ngân hàng này. 2.3. Đổi mới công tác quản lý và tổ chức hoạt động kinh doanh ngoại hối. Trong số các rủi ro có yếu tố con người, rủi ro đạo đức tại các NHTM Việt Nam chiếm tỷ trong khá cao. Như đã phân tích ở phần trước, một phần nguyên nhân dẫn tới rủi ro này là những yếu kém về mặt đạo đức của một số cán bộ, nhân viên trong ngân hàng, mặt khác nó cũng là hậu quả của công tác quản lý, tổ chức chưa rõ ràng minh bạch nên nhiều người đã lợi dụng kẽ hở đó để tư lợi cá nhân. Vì vậy để tác động và làm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng nói chung và giảm thiểu rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh ngoại hối nói riêng thì ở từng đơn vị ngân hàng, công tác quản lý, tổ chức hoạt động phải được hoàn thiện hơn nữa. Giải pháp cho vấn đề này là các NHTM có hoạt động kinh doanh ngoại hối thì phải có phòng ban chịu trách nhiệm riêng về hoạt động này và độc lập về nhân lực với các phòng ban khác. Đặc biệt đối với các ngân hàng có các phòng, chi nhánh được phép hoạt động kinh doanh ngoại hối thì càng cần phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ tránh tình trạng hoạt động vượt giới hạn cho phép, gây ra trạng thái mở quá lớn khiến ngân hàng 62 dễ gặp rủi ro tỷ giá. Đối với công tác quản lý con người, các cán bộ kinh doanh được giao hạn mức giao dịch cụ thể và phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng về lãi lỗ trong hoạt động của mình và bảo đảm rằng hoạt động của mình luôn nằm trong giới hạn quản lý rủi ro cho phép hay có thể kiểm soát được. 2.4. Nhóm giải pháp về công nghệ. Việc ứng dụng các công nghệ hiện đại vào hoạt động kinh doanh ngoại hối đã giúp các ngân hàng không những tiết kiệm được thời gian, chi phí quản lý mà còn giúp giảm thiểu được những rủi ro do biến động tỷ giá, rủi ro do quản lý, tổ chức. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, việc ứng dụng công nghệ vào hoạt động kinh doanh ngoại hối tại các NHTM lại chưa được quan tâm đầu tư đúng mực. Vì vậy trước hết, các ngân hàng cần phải tăng ngân sách cho việc ứng dụng các công nghệ vào hoạt động kinh doanh này. Việc đảm bảo các yếu tố: tốc độ và tính liên tục, hiệu quả của hoạt động kinh doanh ngoại hối đòi hỏi các ngân hàng cần phải nâng cấp hệ thống máy tính và máy chủ hội sở chính và các chi nhánh, nâng cấp tốc độ đường truyền để thông tin được truyền tải nhanh chóng, quản lý thống nhất khách hàng và trạng thái ngoại hối, cập nhật thường xuyên các hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ mạng, truyền thông và các thiết bị chuyên dụng bảo mật, các giải pháp an ninh mạng để thông tin không bị rò rỉ cho kẻ xấu lợi dụng. Mặt khác, như những phân tích trên, một phần nguyên nhân dẫn tới rủi ro đối với các NHTM trong hoạt động kinh doanh ngoại hối là do trình độ ứng dụng công nghệ chưa cao, các hợp đồng giao dịch chủ yếu là trên giấy tờ nên thường phát sinh những sai sót vô ý hoặc cố ý. Do đó các ngân hàng phải nhanh chóng đa dạng hoá nhưng đồng thời cũng phải đảm bảo an toàn cho các loại phương tiện giao dịch ứng dụng công nghệ như fax, telex, mạng vi tính…Như vậy hiệu quả kinh doanh ngoại hối mới được đảm bảo tốt hơn và giảm thiểu được rủi ro do 63 các giao dịch bằng giấy tờ, rủi ro do trục trặc trong việc vận hành các phương tiện đó. Bên cạnh đó, các NHTM Việt Nam cần phải nghiên cứu ứng dụng công nghệ trong việc hoàn thiện hệ thống các kênh thông tin như cài đặt các màn hình tin REUTER tại hội sở, các chi nhánh có khối lượng giao dịch lớn,... Biện pháp này sẽ giúp các NHTM cập nhật những thông tin nhanh nhất phục vụ cho những dự đoán chính xác về thị trường đồng thời cũng nhằm công khai các thông tin trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của ngân hàng mình để các đối tác nắm được qua đó cũng tránh được những rủi ro do thông tin không chính xác gây ra. Cùng với việc đầu tư các trang thiết bị hệ thống, phần mềm công nghệ hiện đại, đồng bộ thì việc đào tạo cán bộ kỹ thuật cũng phải được quan tâm đúng mực và thường xuyên. 2.5. Nhóm giải pháp về con người Tại các NHTM Việt Nam, rủi ro do yếu tố con người ngày một gia tăng vì vậy các giải pháp giảm thiểu rủi ro do con người mang lại phải được hết sức chú ý. Thực tế cho thấy, tại các NHTM Việt Nam, số cán bộ kinh doanh ngoại hối được đào tạo cơ bản còn hết sức khiêm tốn, một phần còn lại được chuyển từ các bộ phận khác sang như kế toán, thanh toán quốc tế, nguồn vốn hay tín dụng. Điều này làm gia tăng rủi ro đạo đức như đã nói ở trên, đồng thời cũng làm gia tăng thêm rủi ro do trình độ tác nghiệp. Đặc biệt trong thời gian tới khi các ngân hàng nước ngoài được tự do hoạt động, cạnh tranh trên thị trường Việt Nam, với tiềm lực tài chính lớn và kinh nghiệm lâu năm trong hoạt động kinh doanh ngoại hối, kinh nghiệm trong việc đào tạo nhân lực, dự báo nhóm ngân hàng này sẽ thu hút mạnh chất xám Việt Nam. Vì vậy, các 64 NHTM phải sớm xây dựng cho mình một quy trình đào tạo cán bộ kinh doanh ngoại hối hợp lý để đảm bảo bộ phận này có đủ năng lực và trình độ đương đầu với công việc được giao. Theo đó, các khoá đào tạo về nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối phải được tổ chức thường xuyên, cập nhật những thông tin mới nhất và cần chú trọng tới khâu thực hành và công tác đào tạo phải được áp dụng cho cả nhân viên mới và nhân viên cũ, từ cấp quản lý đến cấp nhân viên. Bên cạnh đó, việc tiếp tục cử một số cán bộ chủ chốt, có năng lực và đạo đức tốt đi tham gia các khoá đào tạo kinh doanh ngoại hối ở nước ngoài để họ có một tầm nhìn bao quát, nắm được nghiệp vụ kinh doanh, học hỏi kinh nghiệm và có định hướng thị trường là một việc làm rất cần thiết. Để bổ sung thêm lớp cán bộ kinh doanh trẻ, năng động, các NHTM có thể thực hiện các mô hình liên kết đào tạo với các trường đại học có giảng dạy về nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối để tạo điều kiện cho sinh viên đi thực tập tại ngân hàng, tuyển dụng những sinh viên có triển vọng. Bên cạnh đó, vấn đề đào tạo trình độ ngoại ngữ cũng phải được quan tâm đúng mức để có thể linh hoạt hơn trong các giao dịch ngoại hối. 3. Các kiến nghị. 3.1. Kiến nghị đối với Chính phủ và các Bộ ngành liên quan - Chính phủ và các Bộ ngành liên quan cần phối hợp triển khai hướng dẫn các doanh nghiệp các kiến thức về kinh doanh ngoại hối và các biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá giúp các doanh nghiệp nhận thức được vấn đề rủi ro tỷ giá và chủ động các biện pháp bảo hiểm và giảm thiểu rủi ro bằng các công cụ phái sinh. Thực tế, các NHTM Việt Nam đã triển khai các sản phẩm phái sinh đều gặp khó khăn là sự thiếu mặn mà của các doanh nghiệp. Đó là do sự thiếu am hiểu về sản phẩm phái sinh do còn quá mới mẻ đối với họ, mặt khác chính sách bảo hộ ngầm tỷ giá USD/VND của Nhà nước đã tạo cho doanh nghiệp tâm lý ỷ lại, bị động trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá. 65 Trong thời gian tới, khi chính sách tỷ giá của NHNN tiến tới cơ chế linh hoạt và theo sát tín hiệu thị trường, các doanh nghiệp sẽ bắt đầu cảm nhận được rủi ro tỷ giá ngày một lớn Đây chính là lúc chính phủ và các bộ ngành liên quan cần tiến hành tăng cường trang bị kiến thức phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho các doanh nghiệp bằng các biện pháp như có chính sách khuyến khích doanh nghiệp sử dụng các sản phẩm phái sinh, tổ chức các buổi hội thảo giới thiệu các sản phẩm phái sinh,.. - Cùng với đó, cần rà soát lại thường xuyên các văn bản pháp luật, phát hiện những vướng mắc và bất cập để kịp thời điều chỉnh tạo điều kiện cho hoạt động KDNH phát triển hiệu quả, góp phần thúc đẩy các hoạt động kinh tế khác. 3.2. Kiến nghị đối với NHNN - Hoàn thiện chính sách tỷ giá Thời gian qua, nhất là trong năm 2009, diễn biến cung cầu trên thị trường ngoại hối vô cùng phức tạp, tỷ giá biến động liên tục. Trong năm 2009, NHNN đã phải 2 lần điều chỉnh biên độ giao dịch từ 3% lên 5% theo quyết định 622/QĐ-NHNN vào tháng 3/2009 và giảm từ 5% xuống còn 3% theo quyết định số 2666/2009/QĐ-NHNN vào tháng 11/2009, tăng tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng lên 17941 VND/USD. Cũng năm 2009, trước tình trạng khan hiếm ngoại tệ để giao dịch của các NHTM, NHNN đã phải hỗ trợ bán ngoại tệ để các NHTM cân đối trạng thái ngoại tệ và làm giảm tình trạng căng thẳng trên thị trường ngoại tệ. Từ đầu năm 2010 đến nay, tỷ giá trên thị trường có dấu hiệu tăng trở lại, thị trường liên ngân hàng thường xuyên giao dịch ở mức giá trần cho phép, NHNN lại có sự điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng va duy trì cho đến nay ở mức 18544 VND/USD, đồng thời quy định tăng lãi suất tiền 66 gửi đối với USD lên 1%/năm. Có thể thấy những nỗ lực của NHNN trong việc thực hiện một chính sách tỷ giá theo sát cung cầu thị trường, tuy nhiên những giải pháp mà NHNN đưa ra lại chưa thể hiện được tính chủ động, phần lớn là những giải pháp được đưa ra trong tình thế bắt buộc. Do đó về lâu dài NHNN cần phải có những giải pháp đồng bộ để quản lý thị trường ngoại hối, cần tập trung vào công cụ lãi suất để điều tiết thị trường ngoại hối thay vì quá tập trung vào các quy định về tỷ giá như trước đây. Cùng với đó, NHNN cần chủ động cập nhật những thông tin liên quan đến các đồng tiền chủ yếu trong rổ đồng tiền có vị trí quan trọng trong cơ cấu xuất nhập khẩu, dự trữ ngoại hối, đầu tư và vay trả nợ nước ngoài của Việt Nam kết hợp với những yếu tố thị trường trong và ngoài nước. - Nâng cao vai trò của NHNN trên TTNH Với vai trò là Ngân hàng Trung ương tham gia vào thị trường tiền tệ, NHNN vừa tham gia với tư cách là thành viên trên thị trường ngoại hối, vừa với tư cách là người quản lý điều hành thị trường. Để thực hiện vai trò này, NHNN phải là người mua bán cuối cùng trên thị trường. Song để làm được điều đó một cách hiệu quả thì không phải đơn giản và phụ thuộc nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất là tiềm lực tài chính của NHNN. Trong thời gian qua, NHNN tỏ ra khá linh hoạt trong việc điều tiết TTNH với một loạt các giải pháp đã thực hiện như bán hỗ trợ ngoại tệ, nâng tỷ giá giao dịch bình quân trên TTLNH, điều chỉnh biên độ tỷ giá…đã tạo ra những hiệu ứng tích cực làm giảm tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, khơi thông nguồn cung ứng ngoại tệ cho các NHTM. Trong thời gian tới, NHNN với vai trò là người điều tiết thị trường cần phải nâng cao hơn nữa vai trò của mình bằng việc tăng cường dự trữ ngoại tệ, chủ động và phối hợp nhịp nhàng các công cụ điều tiết thị trường để 67 tạo đà cho TTNH phát triển ổn định. - Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Để hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, tác giả xin kiến nghị các giải pháp sau: Thứ nhất, NHNN phải thực hiện tốt vai trò là người mua bán cuối cùng trên thị trường ngoại hối. Bằng những động thái khéo léo, NHNN có thể đem lại những tác động tích cực cho thị trường ngoại hối khiến cho thị trường này diễn ra ổn định, nhịp nhàng. Nếu NHNN không can thiệp hoặc can thiệp chậm với quy mô không thích hợp sẽ làm phát sinh tâm lý rụt rè, chờ đợi của các NHTM, khiến thị trường ngoại hối rơi vào tình trạng trầm lắng, kích thích đầu cơ và gây áp lực lên tỷ giá. Thứ hai, NHNN cần thiết lập một thị trường ngoại tệ liên ngân hàng có sự tham gia của các công ty môi giới. Đây là một yếu tố rất quan trọng thúc đẩy thị trường phát triển, là một bộ phận rất quan trọng tại các thị trường ngoại hối tiên tiến nhưng ở Việt Nam hiện nay chưa có điều kiện phát triển. Thứ ba, cần mở rộng số lượng thành viên tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và tăng cường chất lượng tham gia của các thành viên. Hiện nay các thành viên tham gia tích cực trên thị trường không nhiều và chủ yếu diễn ra tình trạng người chuyên đi bán, người chuyên đi mua, làm giảm tính đặc thù của thị trường ngoại hối và kiềm chế sự phát triển của thị trường này. - Đối với nghiệp vụ quyền chọn: cần nhanh chóng rút kinh nghiệm và đưa ra những quy định pháp lý cụ thể để các ngân hàng có cơ sở dựa vào đó mà triển khai nghiệp vụ này trong hoạt động kinh doanh. Tóm tắt chƣơng III Trên đây là một số giải pháp và kiến nghị được tác giả đề xuất nhằm góp phần làm giảm thiểu rủi ro, tăng hiệu quả trong hoạt động kinh doanh 68 ngoại hối tại các NHTM Việt Nam. Những giải pháp này xuất phát từ thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại hối và hoạt động quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối tại các NHTM Việt Nam đã được phân tích trong chương II. Bên cạnh đó tác giả cũng xin đưa ra một số ý kiến đóng góp cho công tác quản lý điều hành của NHNN và các Bộ, ngành cơ quan chủ quản để góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại hối trên thị trường Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn, sôi động và hiệu quả hơn. 69 KẾT LUẬN Kinh doanh ngoại hối là một hoạt động đóng vai trò quan trọng đối với các Ngân hàng thương mại trong việc góp phần gia tăng nguồn thu cũng như hỗ trợ, thúc đẩy các nghiệp cụ khác phát triển. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp và nhạy cảm mà hoạt động kinh doanh ngoại hối cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho các Ngân hàng thương mại. Trong những năm qua, tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam, các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối đã từng bước được hình thành và phát triển, bước đẩu tạo nên những kết quả đáng khích lệ. Các giao dịch giao ngay, giao dịch kỳ hạn, giao dịch hoán đổi được triển khai đã giúp các Ngân hàng trong việc cân bằng trạng thái ngoại hối, giúp giảm thiểu rủi ro tỷ giá, giảm sức ép cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Giao dịch quyền chọn đã qua giai đoạn thực hiện thí điểm và đang được Ngân hàng Nhà Nước tiếp tục nghiên cứu để đưa ra những quy định pháp lý chung hướng dẫn các Ngân hàng thực hiện. Đồng thời với việc phát triển các nghiệp vụ kinh doanh, các Ngân hàng thương mại Việt Nam cũng đã có sự đầu tư đáng kể vào việc nâng cao công nghệ, đào tạo nhân lực, đổi mới phương thức tổ chức quản lý kinh doanh nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển. Bên cạnh kết quả đã đạt được, hoạt động kinh doanh ngoại hối tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam cũng còn tồn tại nhiều hạn chế khi các Ngân hàng chưa có sự đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, công nghệ ứng dụng tại nhiều Ngân hàng chưa đáp ứng yêu cầu quản lý kinh doanh, công tác quản trị rủi ro còn nhiều yếu kém. Nhóm giải pháp mà tác giả đưa ra trong khóa luận chỉ là một số trong rất nhiều các giải pháp nhằm phát triển hoạt động kinh doanh ngoại hối tại các 70 Ngân hàng thương mại Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả cũng xin đưa ra một số kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà Nước và Chính phủ để góp phần hoàn thiện chức năng quản lý của các cơ quan này và tạo điều kiện tốt hơn cho hoạt động kinh doanh ngoại hối của các Ngân hàng thương mại phát triển. 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Phần Tiếng Việt 1. Chính phủ (17/08/1998), Nghị định 63/1998/NĐ-CP về quản lý ngoại hối 2. Chính phủ (17/01/2001), Nghị định 05/2001/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 63/1998/NĐ-CP 3. Chính phủ (18/10/2005), Nghị định 131/2005/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 63/1998/NĐ-CP 4. Phan Thị Thu Hà (2007), Ngân hàng thương mại, NXB Đại học Kinh Tế Quốc Dân 5. Nguyễn Minh Kiều (1998), Thị trường ngoại hối: Kỹ thuật kinh doanh và phòng ngừa rủi ro, NXB Tài chính 6. Nguyễn Văn Tiến (2002), Thị trường ngoại hối Việt Nam trong tiến trình hội nhập, NXB Thống kê 7. Nguyễn Văn Tiến (2005), Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở, NXB Thống kê 8. Ủy ban thường vụ quốc hội (13/12/2005), Pháp lệnh ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11 9. Tạp chí ngân hàng số 6 (3/2010) 10. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ số 7 (1/4/1010) 11. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ số 15 (1/8/2010) 12. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ số 3+4 (1/2/2010) 13. Tạp chí khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 2 (31). 2009 14. Các trang web: Ngân hàng nhà nước: 72 NH TMCP Sài Gòn: NH TMCP Kỹ thương Việt nam: https://www.techcombank.com.vn/, NH TMCP Ngoại thương Việt nam: NH TMCP Á Châu: NH TMCP Xuất Nhập khẩu: Trang web: Phần Tiếng Anh 1. Allayannis, Goerge, James Weston. (2001), “The Use of Foreign Currency Derivatives and Firm Market Value”, Reviews of Financial Studies 14 2. Marshall (2000), A.P. “Foreign Exchange Risk Management in UK, USA, and Asia Pacific Multinational Companies”, Journal of Multinational Management, page 185-211. 3. Sam Y.Cross (1998), All about the Foreign Exchange market in the United States, Federal Reserve Bank of New York. 4. Trang web: www.dailyfx.com 5. Trang web: www.bloomberg.com 73 PHỤ LỤC QUY TRÌNH KINH DOANH NGOẠI HỐI TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 1. Niêm yết tỷ giá Bộ phận nguồn vốn là nơi lập Bảng niêm yết tỉ giá giao dịch hàng ngày áp dụng thống nhất cho toàn Ngân hàng. Tỷ giá niêm yết này được tính toán bằng các kỹ thuật sao cho vừa phù hợp với cung cầu thị trường vừa nằm trong biên độ giao động cho phép của ngân hàng nhà nước. Bảng niêm yết tỉ giá đầu ngày phải được lập và cập nhật vào hệ thống chương trình quản lý của Ngân hàng trên máy tính chậm nhất là đầu giờ làm việc của ngày làm việc. Tỷ giá cũng ngay lập tức phải chuyển đi các chi nhánh và phải nhập tỉ giá vào bảng điện tử của hội sở để các khách hàng có thể tham chiếu được ngay. Trong ngày làm việc, nếu có phát sinh biến động lớn về tỉ giá của một loại ngoại tệ niêm yết nào đó thì phải lập bảng niêm yết tỉ giá giao dịch mới và thực hiện công bố tỉ giá tương tự như việc công bố tỉ giá đầu ngày làm việc. Chi nhánh khi nhận được Bảng niêm yết tỉ giá giao dịch phải cập nhật ngay vào Bảng niêm yết tỉ giá giao dịch tại quầy giao dịch trực tiếp với khách hàng và thông báo ngay cho các bộ phận có liên quan thuộc đơn vị mình. Đối với giao dịch hối đoái giao ngay, kỳ hạn và hoán đổi, có thể thực hiện giao dịch theo tỉ giá niêm yết hoặc tỉ giá thương lượng giữa Ngân hàng với khách hàng hoặc đối tác nhưng phải đảm bảo tỉ giá giao dịch phù hợp với tỉ giá của thị trường tại thời điểm giao dịch và quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về giao dịch về giao ngay, kỳ hạn và hoán đổi. 74 2. Thực hiện giao dịch với đối tác hoặc khách hàng Việc thực hiện giao dịch với đối tác hoặc khách hàng do các chuyên viên giao dịch (gọi là các Dealer) thực hiện. Các phương tiện được dùng để thực hiện trong giao dịch là: điện thoại, fax. 3. Tạo dữ liệu giao dịch Sau khi hoàn tất việc thực hiện giao dịch với đối tác/ khách hàng, chuyên viên giao dịch phải nhập nội dung của giao dịch vào hệ thống quản lý giao dịch (trading system) và in ra “Phiếu giao dịch” ngay lập tức để chuyển sang cho Bộ phận kiểm soát rủi ro. 4. Kiểm soát giao dịch Ngay sau khi nhận được giao dịch từ hệ thống quản lý giao dịch hoặc “Phiếu giao dịch” do chuyên viên giao dịch chuyển sang, Bộ phận kiểm soát rủi ro phải thực hiện các bước sau: - Kiểm tra tỷ giá giao dịch có phải là tỷ giá công bố hoặc tỷ giá giao dịch của thị trường hay không; - Kiểm tra hạn mức của đối tác hoặc khách hàng; - Kiểm tra tiền cọc (nếu có); - Kiểm tra hạn mức giao dịch của Dealer. Trong trường hợp giao dịch không đảm bảo một trong các yêu cầu trên thì nhân viên kiểm soát rủi ro được quyền không duyệt, và phải tiến hành lập ngay biên bản vi phạm giao dịch, đồng thời báo cáo kịp thời cho cấp quản lý trực tiếp của bộ phận kiểm soát rủi ro để xử lý. Khi giao dịch đảm bảo các điều kiện nêu trên thì nhân viên kiểm soát rủi ro tiến hành duyệt giao dịch trên hệ thống giao dịch hoặc ký tên trên “phiếu giao dịch” và chuyển sang cho bộ phận hỗ trợ giao dịch (back office). 75 5. Xác nhận giao dịch Việc thực hiện xác nhận do nhân viên hỗ trợ giao dịch thực hiện: - Đối với giao dịch hối đoái giao ngay (spot) chỉ cần xác nhận lại với đối tác hoặc khách hàng bằng fax, văn bản hoặc điện xác nhận (swift); - Đối với giao dịch hối đoái kỳ hạn (forward), hoán đổi và quyền chọn thì ngân hàng và đối tác hoặc khách hàng phải ký kết hợp đồng chi tiết bằng văn bản hoặc điện xác nhận. - Đối với các giao dịch được xác nhận bằng hợp đồng: ngân hàng và đối tác/ khách hàng phải ký hợp đồng ngay khi thực hiện giao dịch và hợp đồng phải được gửi đi trong ngày giao dịch (căn cứ vào dấu của bưu điện). Với các giao dịch được xác nhận bằng fax: hợp đồng phải gửi đi ngay sau khi Dealer tạo dữ liệu giao dịch hoặc sau khi nhận được hợp đồng do đối tác/ khách hàng gửi đến. Tất cả giao dịch trong ngày phải được xác nhận hoàn tất trong ngày. Còn đối với các giao dịch được xác nhận bằng điện xác nhận: Xác nhận giao dịch phải gửi đi trong phiên kết nối vào hệ thống swift gần nhất. Tất cả các giao dịch trong ngày phải được xác nhận hoàn tất trong ngày. 6. Thanh toán giao dịch Việc thực hiện thanh toán giao dịch do nhân viên hỗ trợ giao dịch thực hiện. Giao dịch giao ngay: Việc thanh toán theo thỏa thuận cụ thể về thời điểm chuyển tiền đối với đối tác/ khách hàng nhưng phải thực hiện và kết thúc chậm nhất trong vòng 2 ngày làm việc tiếp theo sau ngày cam kết mua bán. 76 Giao dịch kỳ hạn: Ngày thanh toán là ngày làm việc cuối cùng của kỳ hạn giao dịch và được ghi rõ trong hợp đồng đã đuợc ký kết. Ngân hàng chỉ được phép chuyển tiền khi đến hạn thanh toán. Giao dịch hoán đổi: - Trường hợp giao dịch hoán đổi gồm hai giao dịch giao ngay thì việc thanh toán dựa trên ngưyên tắc đã quy định đối với giao dịch giao ngay. - Trường hợp giao dịch hoán đổi gồm một giao dịch giao ngay và một giao dịch kỳ hạn thì việc thanh toán dựa trên nguyên tắc đã quy định đối với giao dịch giao ngay và giao dịch kỳ hạn. - Trường hợp giao dịch hoán đổi gồm hai giao dịch kỳ hạn thì việc thanh toán dựa trên nguyên tắc đã quy định đối với giao dịch kỳ hạn 7. Thanh toán bù trừ Thanh toán bù trừ là việc chỉ thanh toán phần chênh lệch giữa các giao dịch mua và các giao dịch bán có cùng cặp tiền tệ hoặc của một loại tiền tệ của nhiều cặp tiền tệ khác nhau, cùng ngày giá trị thanh toán giữa ngân hàng với đối tác/ khách hàng. Để thực hiện thanh toán bù trừ, ngân hàng và đối tác/ khách hàng giao dịch phải có thỏa thuận thanh toán bù trừ bằng văn bản riêng. 8. Theo dõi thanh toán đi và thanh toán đến Việc theo dõi thực hiện các khoản tiền thanh toán đi và thanh toán đến do nhân viên hỗ trợ giao dịch thực hiện. - Theo dõi thực hiện các khoản tiền thanh toán đến: bao gồm theo dõi tất cả các khoản tiền thanh toán đến trong ngày căn cứ vào các hợp đồng giao dịch đã thực hiện với đối tác hoặc khách hàng; đối chiếu nội dung nhận tiền, số tiền thực nhận với nội dung, số tiền trên hợp đồng giao dịch. 77 - Theo dõi thực hiện các khoản tiền thanh toán đi: bao gồm theo dõi tất cả các khoản tiền phải thanh toán đi trong ngày căn cứ vào các hợp đồng giao dịch đã được thực hiện với đối tác/ khách hàng; đối chiếu nội dung chuyển tiền, số tiền thực chuyển trên chứng từ thanh toán đi với nội dung, số tiền trên hợp đồng giao dịch.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf5311_7772.pdf
Luận văn liên quan