CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN ĐẦU TƯ VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỐN ĐẦU TƯ VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ TẠI BÌNH THUẬN.
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ TỈNH BÌNH THUẬN - THỜI KỲ 2005-2010
PHẦN MỞ ĐẦU
1/ Tính cấp thiết của đề tài:
Bình Thuận nằm vào vị trí hết sức thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội,
nằm trên trục giao lưu kinh tế của vùng Nam Trung bộ và Tây nguyên và là cửa
ngỏ phía Đông của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, là vùng động lực với tốc
độ tăng trưởng mạnh nhất của cả nước, gắn liền với một thị trường hết sức rộng
lớn và sôi động. Ngoài vị trí thuận lợi, Bình Thuận còn được thiên nhiên ưu đãi
rất giàu có tài nguyên tự nhiên, phong phú về tài nguyên du lịch
Tuy nhiên, Bình Thuận là một tỉnh duyên hải lại có nhiều huyện, xã vùng
cao vùng sâu, địa hình phức tạp, cơ sở vật chất còn quá nghèo nàn, lạc hậu, điểm
xuất phát kinh tế thấp.
Những năm qua, trong công cuộc đổi mới Bình Thuận luôn luôn quan tâm
đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội tạo tiền đề để hướng tới công
nghiệp hóa - hiện đại hóa, đầu tư và khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên
nhưng không làm cạn kiệt trữ lượng; đầu tư không chỉ tạo cơ sở vật chất phục vụ
cho phát triển kinh tế - xã hội mà còn là yếu tố để thu hút đầu tư trong tỉnh, ngoài
tỉnh và quốc tế. Đặc biệt, để chuẩn bị cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực, tỉnh Bình Thuận cũng đang ra sức đầu tư, khai thác mọi nguồn lực; đồng
thời, để kêu gọi đầu tư mà chủ yếu là các lĩnh vực dịch vụ - du lịch - giải trí, chế
biến nông sản - hải sản, chế biến lương thực - thực phẩm, sản xuất hàng tiêu
dùng, sản xuất - gia công sản phẩm cơ khí, điện tử, dệt - may, giày da, khai thác
và chế biến khoáng sản, đầu tư trồng trọt, chăn nuôi, xây dựng cơ sở hạ tầng, công
nghiệp và dịch vụ dầu khí.
Chính vì vậy, đầu tư luôn luôn là cần thiết. Hàng năm Ngân sách tỉnh đã
dành một khoản chi khá lớn (khoảng 30%) trong tổng chi ngân sách để chi cho
đầu tư; tăng thu ngân sách được tỉnh ưu tiên bổ sung cho chi đầu tư và thường là
mức chi năm sau cao hơn năm trước.
Song, điều đáng lo ngại là hiệu quả sử dụng đồng vốn đầu tư của nhà nước
chưa cao, thất thoát lãng phí đang ở mức báo động, chất lượng công trình kém, là
môi trường thuận lợi thoái hóa đội ngũ cán bộ quản lý
Xuất phát từ những yêu cầu mang tính cấp bách như trên, việc định hướng
và đề ra những giải pháp thiết thực để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của
tỉnh Bình Thuận từ nay đến năm 2010 là một việc làm có ý nghĩa quan trọng trong
quản lý đầu tư xây dựng cơ bản tại địa phương. Việc hình thành nghiên cứu nội
dung đề tài: “Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư tỉnh Bình
Thuận thời kỳ 2005-2010” dưới dạng một luận văn với mục đích hướng đến giải
quyết các yêu cầu bức xúc nêu trên.
2/ Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
* Mục đích nghiên cứu: đề tài hướng mục đích vào việc nghiên cứu đề xuất
các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nhà nước trong lĩnh vực
đầu tư xây dựng cơ bản tỉnh Bình Thuận. Với những giải pháp tổng hợp này sẽ
giúp cho công tác quản lý đầu tư đi vào nề nếp, góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong tương lai.
* Nhiệm vụ nghiên cứu: nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là nêu lên
những lý luận và thực tiễn về nội dung đầu tư, vốn đầu tư. Trên cơ sở lý luận, đi
sâu phân tích đánh giá hiện trạng đầu tư của tỉnh Bình Thuận từ trước năm 2004,
từ đó luận văn tập trung đề xuất một số giải pháp theo định hướng phát triển đầu
tư tỉnh Bình Thuận trong thời kỳ 2005-2010.
3/ Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
* Phạm vi nghiên cứu: Về không gian đề tài giới hạn nghiên cứu toàn cảnh
hoạt động đầu tư xây dựng của tỉnh Bình Thuận trong khoảng thời gian từ 2000-
2004 và những năm tiếp theo.
* Phạm vi không gian: đề tài được giới hạn trong phạm vi địa giới của tỉnh
Bình Thuận nhưng cũng gắn kết với tình hình đầu tư của cả nước để các giải pháp
đưa ra có tính gắn kết và bao quát hơn.
Luận văn không giải quyết hết các nội dung liên quan đến đầu tư và cũng
không có điều kiện đi vào các lĩnh vực chuyên sâu thuộc về kỹ thuật xây dựng,
đầu tư công trình không phải của nhà nước
4/ Phương pháp nghiên cứu:
Cơ sở phương pháp luận của quá trình nghiên cứu đề tài là dựa trên thế giới
quan của chủ nghĩa Mác-Lênin, để nhận thức xem xét tình hình một cách hiện
thực khách quan từ đó đưa ra những giải pháp có tính khả thi cao.
Ngoài ra, có các phương pháp được áp dụng như: Phương pháp khảo sát
hiện trạng tại địa bàn tỉnh Bình Thuận để thẩm tra, đánh giá tình hình và có giải
pháp phù hợp; phương pháp thu thập và xử lý thông tin để nắm thêm về tình hình
đầu tư chung của một số công trình mang tính quốc gia, tình hình đầu tư một số tổ
chức quốc tế thông qua các phương tiện như: sách, báo, tạp chí giúp cho việc
nhận định, phân tích tình hình và giải pháp có tính bao quát hơn; kết hợp với các
phương pháp khác như: thống kê, phân tích, so sánh
Trên cơ sở lý luận khoa học về đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, đối
chiếu với hoạt động đầu tư xây dựng tại tỉnh Bình Thuận để đề xuất một số giải
pháp thích hợp góp phần hoàn thiện công tác quản lý đầu tư xây dựng của tỉnh
Bình Thuận.
5/ Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
* Nêu được những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động đầu tư xây
dựng, những tiêu chuẩn và nguyên tắc sử dụng vốn đầu tư trong quản lý chi ngân
sách tỉnh.
* Đúc kết kinh nghiệm về hoạt động đầu tư xây dựng đối với một số nguồn
vốn thuộc các tổ chức quốc tế, qua đó đối chiếu với tình hình thực tiễn Việt Nam
để có biện pháp thích hợp.
* Đề xuất các giải pháp theo từng nhóm cụ thể để nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư tỉnh Bình Thuận thời kỳ 2005-2010.
6/ Hạn chế của đề tài:
Lĩnh vực hoạt động đầu tư rất rộng và phong phú mà luận văn chưa có điều
kiện đi sâu phân tích để xây dựng thành một đề tài toàn diện. Luận văn chỉ giới
hạn nghiên cứu chủ yếu thực tiễn về hoạt động đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn
ngân sách tỉnh Bình Thuận.
7/ Kết cấu nội dung:
Nội dung luận văn gồm có 3 phần chính, được kết cấu theo 3 chương như
sau:
Chương 1: Lý luận chung về vốn đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
Chương 2: Thực trạng vốn đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
tỉnh Bình Thuận - Thời kỳ 2001-2005
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư tỉnh
Bình Thuận - Thời kỳ 2006-2010
86 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2704 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư Bình Thuận thời kỳ 2005 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên quan đến nhiều tổ chức cá nhân nên nhà nước
cần phải phân định rõ bằng văn bản trách nhiệm từng tổ chức, từng cá nhân liên
quan đến việc cung cấp số liệu để xây dựng dự án, đến kết luận của các nhà tư
vấn, đến trách nhiệm của tổ chức thẩm định và người phê duyệt dự án. Đồng thời
nó cũng tránh tình trạng khi xem xét một loạt dự án không khả thi thì không thể
phân định được trách nhiệm thuộc về ai, cơ quan nào và mức độ xử lý đến đâu.
* Cải tiến công tác chọn thầu tư vấn và khảo sát thiết kế.
Để nâng cao chất lượng việc chọn tư vấn dự án đầu tư không nên tổ chức
đấu thầu để chọn giá rẻ như lâu nay vẫn làm. Vì công tác tư vấn là một lĩnh vực
đặc thù, giá trị của nó phụ thuộc vào “chất xám” và mức độ tin cậy của các thiết
bị chuyên dùng của tổ chức tư vấn. Mặt khác, giá trị thiết kế thường chiếm tỷ
trọng rất nhỏ so với toàn bộ giá trị của dự án nên dù chọn được giá rẻ hơn, xét
cho cùng cũng chẳng được lợi bao nhiêu. Việc cải tiến công tác chọn nhà thầu tư
vấn thực hiện theo hai hình thức:
- Dựa vào năng lực thực tế và kết quả tư vấn của các dự án tương tự mà
các tổ chức tư vấn làm tốt để chọn.
- Đối với các công trình đặc thù như thiết kế thi công các công trình xây
dựng, các công trình mỹ thuật, tượng đài,… tổ chức thi sáng tác, tùy theo quy mô
công trình để lựa chọn phương án thích hợp, có hội đồng chấm thi gồm các nhà
khoa học, các chuyên gia trong lĩnh vực đó để lựa chọn tác phẩm có giá trị nhất.
Làm điều này sẽ tạo cơ hội chọn được nhiều công trình có chất lượng cao.
Công tác khảo sát địa chất công trình và địa chất thủy văn cũng là một lĩnh
vực đặc thù mang tính chuyên sâu. Mục đích của công tác này là xác định các tài
liệu về nguồn nước, lưu lượng, trữ lượng và chất lượng nước ngầm, nước mạch ở
từng khu vực; xác định các số liệu về địa chất và các số liệu khác có liên quan
đến việc tính toán, xử lý nền móng công trình. Nếu các số liệu này tính toán thiếu
chính xác và cung cấp cho các nhà tư vấn, tất yếu sẽ dẫn đến những kết luận sai
lệch và gây rất nhiều lãng phí cho việc xử lý nền móng sau này.
Vì vậy để nâng cao chất lượng công tác khảo sát thiết kế có thể chọn thầu
khảo sát thiết kế bằng cách kết hợp cả hai hình thức giống như chọn thầu tư vấn
nói trên hoặc đấu thầu nhằm tìm ra những tổ chức có nhiều chuyên gia giỏi, có
kinh nghiệm, có hệ thống máy móc thiết bị kiểm nghiệm hiện đại tin cậy, làm cơ
sở cho việc xác định và cung cấp những số liệu về khảo sát thiết kế tốt nhất, phục
vụ tốt cho công tác tư vấn thiết kế.
-65-
* Cải tiến công tác giám sát công trình.
- Phải lựa chọn nhà tư vấn giám sát có đủ điều kiện và năng lực thực hiện.
Mỗi cán bộ giám sát chỉ nhận giám sát một số công trình nhất định. Hiện nay cán
bộ giám sát ít, trong khi công trình nhiều, thậm chí các công trình nằm rải rác ở
các huyện, xã, vùng sâu, vùng xa. Phải thường xuyên có mặt thực tế tại hiện
trường.
- Phải đảm bảo cho tư vấn giám sát có vị trí độc lập, khách quan khi làm tư
vấn và chịu trách nhiệm hoàn toàn trước pháp luật về kết quả giám sát của mình.
- Phải tạo điều kiện cần thiết cho nhà tư vấn giám sát có quyền nhất định
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ như: đình chỉ thi công hoặc buột phá dỡ làm
lại do công trình không đạt yêu cầu thiết kế, chất lượng không đảm bảo…
- Phải tổ chức giám định chất lượng công trình theo quy định: chất lượng
vật tư đưa vào công trình, chất lượng khối lượng che khuất (nền móng, đường
ống…), kết cấu chịu lực…
- Ngoài trách nhiệm giám sát của tư vấn, cần tổ chức công khai và động
viên sự tham gia giám sát của quần chúng nhân dân (giám sát cộng đồng). Đây là
lực lượng giám sát thật sự vô tư, khách quan. Để phát huy tinh thần làm chủ của
nhân dân một cách tích cực, thì nhà nước phải có chính sách khen thưởng, động
viện kịp thời khi quần chúng phát hiện tiêu cực trong đầu tư.
- Không để tình trạng khép kín trong đầu tư đối với họat động tư vấn: dự
án của ngành này phải sử dụng tư vấn của ngành khác; các tổ chức tư vấn thiết
kế, nhà thầu xây dựng, tư vấn giám sát của một dự án không được thuộc cùng
một ngành, tiến tới độc lập toàn bộ.
3.2.3. Cải tiến công tác quản lý dự án trong quá trình thực hiện dự án:
a) Đấu thầu:
* Cơ quan nhà nước thường xuyên kiểm tra, thanh tra công tác đấu thầu;
phải chủ động trong kiểm tra nhằm ngăn chận kịp thời những hành vi vi phạm
pháp luật, đưa nhanh hoạt động này đi vào nề nếp.
Tăng cường tính công khai hóa, minh bạch trong công tác đấu thầu. Cơ
quan quản lý nhà nước cấp trên phải tăng cường chỉ đạo các cấp có thẩm quyền
trực thuộc lựa chọn hình thức đấu thầu, thẩm định và phê duyệt kết quả đấu thầu
đảm bảo theo quy định.
-66-
* Áp dụng rộng rải quy chế về đấu thầu mua sắm máy móc thiết bị vật tư.
Mức đầu tư thiết bị, vật tư thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng mức đầu tư. Do
ít am hiểu về công nghệ kỹ thuật của chủ đầu tư hoặc ban quản lý dự án nên việc
mua sắm trang thiết bị của dự án thường được mua với giá cao hoặc đã qua sử
dụng. Vì vậy, thực hiện rộng rải quy chế đấu thầu nhằm nâng cao tính cạnh tranh
và chuyên môn hóa công tác cung ứng thiết bị vật tư với chất lượng đảm bảo và
giá cả hợp lý góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
* Hoàn thiện công tác đấu thầu, thực hiện đúng đắn hình thức đấu thầu
khoán gọn.
Công tác chuẩn bị phải đi trước một bước và đủ điều kiện mới tổ chức đấu
thầu. Chỉ nên áp dụng hai hình thức: đấu thầu và chỉ định thầu, bỏ bớt đấu thầu
hình thức. Thống nhất phương thức phân chia gói thầu tư khi quyết định đầu tư
nhằm tránh hiện tượng phân chia nhỏ gói thầu để trốn thủ tục, nâng trách nhiệm
của người quyết định đầu tư.
Khuyến khích hình thức đấu thầu khoán gọn và thực hiện hợp đồng chỉ
định còn một hình thức đó là hợp đồng trọn gói theo giá khoán gọn thay cho
nhiều phương thức thực hiện hợp đồng như hiện nay. Một số tỉnh như: An Giang,
Kiên Giang, Sóc Trăng… áp dụng mạnh hình thức khoán trọn gói cho các nhà
thầu nghĩa là khi xong khối lượng hạng mục công trình thì các nhà thầu được
thanh toán một số tiền đã thỏa thuận trước. Với hình thức này thì các nhà thầu
phải lo toan tính toán vì không được thanh toán khoản chênh lệch vốn do trượt
giá. Tránh trường hợp chủ đầu tư và nhà thầu cố tình tạo ra phát sinh hoặc quy
trách nhiệm cho tổ chức thiết kế tính toán không chính xác.
Để thực hiện được hình thức đấu thầu khoán gọn, cơ quan quản lý cấp trên
chủ dự án phải quản lý chặt chẽ dự toán trên cơ sở định mức kinh tế-kỹ thuật, đây
là căn cứ quan trọng để lập dự toán một cách chính xác. Giá khoán gọn chính là
giá dự toán dùng để quyết toán, áp dụng hình thức này vào hoạt động đầu tư xây
dựng là một giải pháp tích cực để chống lãng phí, thất thoát vốn.
Nâng cao trách nhiệm của các chủ đầu tư từ khâu lập kế hoạch đấu thầu, tổ
chức công tác đấu thầu, giám sát quá trình triển khai dự án của các nhà thầu và có
chế độ xử phạt khi nhà thầu vi phạm, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
đầu tư.
-67-
b) Kiện toàn công tác tổ chức quản lý dự án
- Phải triển khai kịp thời, đồng bộ các chính sách chế độ quản lý trong đầu
tư đến các chủ đầu tư, các nhà đầu tư. Hạn chế tình trạng như hiện nay, Luật Xây
dựng đã có, một số Thông tư, Nghị định Trung ương đã ban hành nhưng đến nay
địa phương chưa có Quyết định áp dụng cụ thể, từ đó có những việc phát sinh đã
không giải quyết được làm chậm tiến độ dự án.
- Trong đầu tư, tính kịp thời là một trong những yếu tố quyết định hiệu quả
đầu tư, một quyết định chậm trễ có thể làm mất cơ hội đem lại hiệu quả đầu tư,
thậm chí mất cơ hội đầu tư. Vì vậy phải cải cách hành chính trong quản lý đầu tư,
đó là: cải cách thể chế, kiện toàn bộ máy quản lý, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ… tại địa phương, tại các cơ quan tham gia quản lý đầu tư.
- Phải triệt để tuân thủ trình tự xây dựng cơ bản từ công tác kế hoạch hóa,
công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch ngành, quy hoạch
chi tiết về xây dựng đô thị và nông thôn, công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị thực
hiện dự án. Vì thực hiện đúng trình tự này là điều kiện tiên quyết đảm bảo nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
- Nâng cao chất lượng xây dựng, thẩm định phê duyệt dự án của các cấp có
thẩm quyền quyết định đầu tư. Quy định rõ cá nhân làm chủ đầu tư phải chịu
trách nhiệm một cách toàn diện về chất lượng thực hiện dự án và nhà thầu phải
chấp hành đầy đủ nội dung như cam kết hợp đồng đã ký. Đến nay Luật Xây dựng
đã có, thì các văn bản dưới luật cần sớm triển khai và đồng bộ về công tác lập,
thẩm định dự án đầu tư, phê duyệt dự án của cấp có thẩm quyền để nâng cao trách
nhiệm cá nhân của cấp quyết định đầu tư.
- Quán triệt phương châm đầu tư có trọng điểm và dứt điểm. Theo đó, mặc
cho dự án đầu tư được thực hiện bằng nguồn vốn nào cũng phải được cân đối đủ
vốn để hoàn thành theo đúng tiến độ được phê duyệt nhằm khuyến khích các nhà
thầu đẩy nhanh tiến độ thi công mà không bị ràng buộc bởi kế hoạch hàng năm
như hiện nay mà phụ thuộc vào dự toán đã được xây dựng theo kế hoạch ngắn
hạn, dài hạn. Kiên quyết không bố trí vốn dàn trải.
c) Chấn chỉnh và tăng cường kỷ luật quyết toán công trình hoàn thành.
Khi dự án hoàn thành, trong vòng sáu tháng phải quyết toán để đánh giá tài
sản và bàn giao tài sản cho người sử dụng. Trong thực tế rất nhiều dự án của các
ngành từ trung ương đến địa phương chưa thực hiện tốt quy định này. Hiện nay,
-68-
nhiều dự án đầu tư đã thực hiện xong và đưa vào sử dụng từ lâu nhưng vẫn chưa
quyết toán. Việc chấn chỉnh và tăng cường kỷ luật quyết toán công trình là cần
thiết và được coi như một giải pháp quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư. Hướng chấn chỉnh và tăng cường kỷ luật quyết toán khi dự án
đầu tư đưa vào khai thác cần được tập trung vào các nội dung sau đây:
- Cần phân định rõ trách nhiệm của các cơ quan chủ quản đầu tư đối với
công tác tổ chức, chỉ đạo kiểm tra, kiểm soát công tác lập báo cáo quyết toán vốn
đầu tư các dự án hoàn thành cả về nội dung và thời gian.
- Nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư trong công tác lập và báo cáo quyết
toán một cách khoa học, kịp thời, chính xác, tổ chức thẩm tra báo cáo quyết toán
trước khi phê duyệt đối với những dự án thuộc thẩm quyền của mình. Gắn trách
nhiệm cá nhân trong công tác quyết toán vốn đầu tư và có chế độ khen chê rõ
ràng. Riêng đối với dự án nhóm A, với tư cách là cơ quan chủ quản đầu tư của
chủ đầu tư có trách nhiệm xem xét, nhận xét và đề nghị cơ quan được Thủ tướng
Chính Phủ ủy quyền thẩm tra phê duyệt.
- Tổ chức thường xuyên công tác thẩm tra, thanh tra việc chấp hành trình tự
XDCB nói chung, công tác quyết toán vốn đầu tư khi dự án hoàn thành giai đoạn
thực hiện đưa vào khai khai thác nói riêng. Đối với công tác này cần có kỷ luật
nghiêm minh và kịp thời khi có sự vi phạm chế độ.
* Cải cách thủ tục hành chính nhằm đảm bảo thanh toán và cho vay vốn
đầu tư của dự án nhanh chóng kịp thời. Hiện nay công tác thanh toán và cho vay
vốn đầu tư còn chậm gây nên tình trạng vốn đầu tư thừa thiếu giả tạo. Điều này
làm cho việc thực hiện tiến độ nhiều dự án chậm trễ và cũng là nguyên nhân ảnh
hưởng tới nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Đơn giản hóa thủ tục hành chính trong
khâu thanh toán vốn đầu tư và quy định rõ trách nhiệm của người đề nghị thanh
toán và người thanh toán. Kiên quyết xử lý hiện tượng còn tồn tại như hiện nay:
- Cơ quan chủ quản phê duyệt thiết kế kỹ thuật – tổng dự toán và dự toán
còn chậm.
- Bên A không làm hoặc làm thủ tục nghiệm thu thanh toán cho bên B
chậm.
- Việc bố trí kế hoạch không khớp với tiến độ dự án được duyệt, kể cả
những dự án chuyển tiếp, vốn kế hoạch thường xác định thấp hơn giá trị khối
lượng đã thực hiện, thậm chí chưa đủ điều kiện ghi vào kế hoạch.
-69-
- Thủ tục để thanh toán và cho vay vốn đầu tư quá nhiều như: kế hoạch đấu
thầu, kết quả trúng thầu được cấp có thẩm quyền duyệt,…. Các hồ sơ này phải gởi
nhiều nơi, nhưng số lượng bản gốc thì hạn chế vì vậy lại phải công chứng hồ sơ
theo yêu cầu của các cơ quan cấp phát thanh toán vốn. Khắc phục tồn tại còn phổ
biến trong tất cả các Bộ, ngành, các địa phương từ trung ương đến địa phương cần
quy định rõ chế độ trách nhiệm từng khâu, từng mắc xích và có chế độ xử lý vi
phạm cụ thể đối với từng cấp, từng cá nhân có liên quan. Đồng thời cần tinh giản
giấy tờ và thủ tục hành chính.
- Cơ quan quản lý cấp phát thanh toán vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà
nước phải cân đối kế hoạch chi trả kịp thời và công khai, minh bạch. Tình trạng
thu ngân sách không đảm bảo chi thường xuyên trong năm, mà thường dồn vào
những tháng cuối năm đã gây thiệt hại cho nhà thầu, trường hợp nhà thầu không
đủ mạnh về tài chính thì công trình lại bị kéo dài… và đây cũng là cơ hội cho một
số cán bộ cấp phát gây nhũng nhiễu cho khách hàng. Trường hợp ngân sách
không tự cân đối được thì phải có kế hoạch huy động vốn, vay ngân hàng.
Trên đây là nhóm giải pháp tài chính nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
đầu tư. Để phát huy cao độ và triệt để tác dụng của các nhóm giải pháp này cần
thực hiện các nhóm giải pháp hỗ trợ sau.
3.2.4. Nâng cao chất lượng bộ máy nhà nước trong quản lý đầu tư:
Bộ máy quản lý nhà nước trong quản lý đầu tư xây dựng phải được củng cố
nhanh, tăng cường kịp thời để có một đội ngũ tinh thông nghiệp vụ chuyên môn
và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Đặc biệt, kiến thức phải rộng ở các lĩnh vực
hỗ trợ chuyên môn như: môi trường sinh thái, khí hậu thổ nhưỡng, kinh tế xã hội,
phong tục tập quán,… thì sản phẩm đầu tư mới phát huy hiệu quả.
* Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng.
- Đổi mới chương trình đào tạo lại. Chương trình đào tạo phân ra nhiều lĩnh
vực chuyên môn khác nhau để công chức nào đang công tác thuộc lĩnh vực
chuyên môn nào thì được đào tạo lại theo lĩnh vực chuyên môn đó. Tập hợp được
vướng mắc trong thực tế, hàng loạt vấn đề mới được đặt ra, được giải quyết và
được kiểm nghiệm qua thực tế. Dành thời gian tổ chức xuống cơ sở tìm hiểu thực
tế về lĩnh vực mình đang phụ trách, như vậy công chức thực sự mới đủ năng lực
để nâng cao hiệu suất công tác họ đang đảm nhận trong lĩnh vực đầu tư góp phần
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
-70-
- Đào tạo lại cán bộ quản lý dự án đầu tư. Có thể nói công tác quản lý đấu
thầu dự án hiện nay còn nhiều bất cập. Nguyên nhân là vì từ trước tới nay chưa có
trường, lớp chính quy nào đào tạo cán bộ quản lý dự án. Cũng như nhiều hoạt
động khác công tác quản lý dự án đầu tư cần được coi là một nghề và vì vậy cần
phải có những cán bộ chuyên nghiệp, do đó cần phải đào tạo cán bộ chuyên
nghiệp thuộc lĩnh vực này. Những cán bộ tốt nghiệp một trường đại học nào đó về
lĩnh vực liên quan đến đầu tư như: xây dựng, giao thông, thủy lợi, tài chính…
muốn trở thành một cán bộ chuyên nghiệp làm nghề quản lý dự án đầu tư xây
dựng cần phải được đào tạo qua một trường quản lý dự án. Chuyên ngành đào tạo,
chương trình đào tạo, thời gian đào tạo và phương thức thi tuyển phải được quy
định rõ ràng.
- Phải kịp thời tập huấn các chính sách, chế độ quản lý đầu tư; tổ chức tham
quan học tập kinh nghiệm các đơn vị điển hình; giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
cán bộ quản lý.
- Cán bộ quản lý phải tự chịu hoàn toàn trách nhiệm về những vấn đề do
mình tham mưu trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Việc tham mưu không đúng
gây ra thiệt cho xã hội thì phải bị xử lý nghiêm minh.
* Đào tạo cán bộ tư vấn, thiết kế kỹ thuật và kỹ sư xây dựng.
Đào tạo lại cán bộ tư vấn, thiết kế kỹ thuật và kỹ sư xây dựng theo hướng
chuyên nghiệp hóa.
- Đối với việc đào tạo lại cán bộ tư vấn, chỉ nên chọn những người đã tốt
nghiệp đại học theo chuyên ngành gì thì được làm tư vấn theo đúng lĩnh vực đó.
Nhưng muốn trở thành tư vấn thì còn phải được đào tạo lại qua trường, lớp từ 1
đến 2 năm liên tục. Nhà tư vấn không phải chỉ hiểu sâu về chuyên môn lĩnh vực
mình đã được đào tạo mà còn phải hiểu biết khá rộng và chắc kiến thức của một
số lĩnh vực như: xã hội học, pháp luật, địa lý kinh tế và một số lĩnh vực khác có
liên quan; phải qua thời gian thực tập nghề, chỉ được hành nghề tư vấn đúng theo
chuyên môn được đào tạo.
-71-
Trước mắt, trong đội ngũ tư vấn đang hành nghề tại các công ty tư vấn nên
lựa chọn những kỹ sư có khả năng tiếp tục đào tạo để trở thành những tư vấn thật
sự có năng lực. Có như vậy mới từng bước nâng cao được năng lực đội ngũ tư vấn
nước ta và tạo điều kiện cho họ tiếp cận và hòa nhập với đội ngũ tư vấn thế giới.
- Đối với việc đào tạo lại kiến trúc sư. Ở Việt Nam cũng cần có luật hành
nghề kiến trúc sư. Theo đó các kiến trúc sư phải được thi tuyển, đào tạo lại theo
nội dung thích hợp và khi thi tốt nghiệp được cấp chứng chỉ hành nghề kiến trúc
sư. Chỉ những kiến trúc sư nào có chứng chỉ hành nghề mới được giao sáng tác,
thiết kế cấp công trình quy định theo chứng chỉ. Còn các kiến trúc sư chưa được
cấp chứng chỉ thì chỉ được làm công việc can họa mà không được làm các công
việc sáng tác. Rõ ràng nếu một kiến trúc sư chưa được cấp chứng chỉ hành nghề
một cách nghiêm túc, đồng nghĩa với việc hiểu sâu sắc lịch sử dân tộc, phong tục
tập quán và bản sắc văn hóa dân tộc thì làm sao có thể thiết kế những công trình
có giá trị sống mãi với thời gian.
- Đối với việc đào tạo lại đội ngũ kỹ sư, trước hết cần phân định rõ chức
danh cụ thể của kỹ sư: kỹ sư tính toán kết cấu, kỹ sư giám định nhà nước về chất
lượng công trình và kỹ sư giám sát thi công. Trong mỗi loại kỹ sư cũng cần phân
biệt lại các cấp bậc cụ thể. Những người tốt nghiệp chương trình đào tạo lại được
cấp giấy phép hành nghề theo đúng loại hình chuyên môn và cấp bậc kỹ sư đào
tạo.
Thực hiện việc đào tạo lại cán bộ như vậy, chắc chắn năng lực của cán bộ
trong lĩnh vực đầu tư xây dựng được nâng cao và sẽ góp phần quan trọng vào việc
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
* Đào tạo và đào tạo lại cán bộ chủ đầu tư.
- Rà soát lại năng lực của chủ đầu tư theo quy định của nhà nước về điều
kiện và năng lực hoạt động của chủ đầu tư. Những chủ đầu tư nào không đủ điều
kiện thì phải tổ chức sắp xếp lại hoặc tiếp tục đào tạo bổ sung. Kiên quyết không
để tồn tại các chủ đầu tư thiếu hoặc yếu kém năng lực.
- Thường xuyên tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho chủ đầu tư về năng lực kỹ
thuật chuyên môn và năng lực quản lý điều hành dự án. Phổ biến kịp thời các
chính sách, chế độ quản lý trong đầu tư.
-72-
- Chú trọng đào tạo và đào tạo lại nghiệp vụ chuyên môn cho lực lượng
giám sát của chủ đầu tư. Tăng cường về chất lượng lẫn số lượng giám sát của ch
đầu tư phù hợp với số dự án được giao.
- Mạnh dạn giải thể các Ban QLDA không chuyên trách vì các ban này
kiêm nhiệm nên không đủ trình độ chuyên môn trong quản lý đầu tư. Củng cố,
hoàn thiện các Ban QLDA địa phương (Ban QLDA huyện, thành phố) hoặc Ban
QLDA ngành (Sở Giáo dục đào tạo, Sở Văn hóa thông tin, Sở Thể dục thể
thao…) hoạt động chuyên trách.
- Xác định rõ trách nhiệm giữa Chủ đầu tư và Ban QLDA. Chủ đầu tư phải
có năng lực nhất định để quyết định những vấn đề do Ban QLDA tham mưu và
phải chịu trách nhiệm liên đới .
3.3. NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP
Để đảm bảo cho các giải pháp trên nhanh chóng phát huy tác dụng trong
quá trình hoạt động đầu tư xây dựng cần phải quan tâm đến việc thực hiện các
điều kiện sau:
3.3 .1. Hoàn chỉnh hệ thống pháp lý trong lĩnh vực đầu tư xây dựng:
Nhà nước có mạnh, có hiệu lực mới kiểm sóat và định hướng cho sự phát
triển nền kinh tế đất nước, mới khuyến khích được mọi thành phần kinh tế, tầng
lớp dân cư trong nước, kiều bào nước ngoài, các nhà đầu tư mạnh dạn bỏ vốn vào
đầu tư, nhằm mang lại lợi ích cho doanh nghiệp họ, cá nhân họ và từ đó chính là
mang lại lợi ích cho đất nước.
Như trên đã phân tích, hệ thống văn bản pháp luật trong lĩnh vực đầu tư xây
dựng ở nước ta hiện nay vừa chồng chéo lại vừa trống thiếu, thậm chí có những
nội dung mâu thuẫn nhau làm cho việc quản lý trong lĩnh vực đầu tư xây dựng rất
khó khăn. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư.
Mới đây Luật Xây dựng ra đời, nên hệ thống hóa theo luật chưa hoàn chỉnh
mà đang trong quá trình hình thành và phát triển.
Để đảm bảo áp dụng có kết quả các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vốn
đầu tư cần phải khẩn trương bổ sung, sửa đổi và ban hành đồng bộ hệ thống pháp
luật để điều chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực đầu tư.
-73-
Việc bổ sung sửa đổi hệ thống văn bản trước hết nên tập trung vào công
tác quy hoạch, công tác kế hoạch hóa đầu tư, phân cấp quản lý đô thị, xây dựng và
ban hành hệ thống định mức tiêu chuẩn trong đầu tư xây dựng, hoàn thiện các mô
hình giao thầu hợp lý (ngoài phương thức đấu thầu thay cho chỉ định thầu như
hiện nay, còn cần bổ sung phương thức khoán gọn), ban hành quy định về sự lựa
chọn cũng như phân định quyền hạn của chủ đầu tư, ban quản lý dự án, các quy
định về điều kiện hành nghề của các nhà tư vấn, kiến trúc sư… Các giải pháp đề
xuất sẽ khó thực hiện nếu các vấn đề trên không được bổ sung sửa đổi thông qua
các văn bản pháp luật.
3.3.2. Hoàn thiện và phát triển thị trường vốn và lao động:
Hoàn thiện và phát triển thị trường vốn sẽ tạo điều kiện cho việc khơi thông
các nguồn và kênh dẫn vốn. Theo đó nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước được
huy động vào lĩnh vực đầu tư phát triển. Hoàn thiện và mở rộng thị trường vốn
làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường vốn. Do đó một khối vốn đầu tư sử dụng
phải được tính toán cân nhắc kỷ lưỡng. Bằng cách đó hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
được nâng cao.
Hiện nay các thị trường vốn ở nước ta đang được dần dần phát triển và
hoàn thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu. Đặc biệt đã xuất hiện thị trường
chứng khoán và những kết quả ban đầu của nó đã cho thấy sự ra đời của nó rất
cần thiết. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng chất lượng và quy mô hoạt động của sở
giao dịch chứng khoán đã mở nhưng chưa đạt như mong muốn. Các cơ quan có
trách nhiệm cần nghiên cứu nâng cao chất lượng hoạt động của sở giao dịch hiện
có và mở thêm các sở giao dịch chứng khoán ở các thành phố có điều kiện.
Thị trường lao động cũng vậy, là nơi tạo điều kiện cho cung lao động và
cầu lao động gặp nhau. Theo đó nhiều lực lượng lao động được sử dụng để phát
triển kinh tế xã hội. Mặt khác qua thị trường lao động, tính cạnh tranh trong các
lực lượng lao động được tăng cao, bao gồm sự cạnh tranh giữa người hữu nghiệp
và người thất nghiệp.
Điều này không chỉ tác động làm cho người thất nghiệp phải học tập, rèn
luyện tay nghề để chờ cơ hội làm việc mà còn đánh tan sự thờ ơ của những người
đang chờ việc. Vì nếu họ không tích cực tham gia vào quá trình đào tạo và tự đào
tạo để nâng cao kiến thức chuyên môn và tay nghề thì sẽ bị đào thải. Đó là những
-74-
điều kiện giúp cho việc lựa chọn đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực vào hoạt
động đầu tư, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
3.3.3. Đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước:
Cổ phần hóa nhằm cải cách, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước làm cho
lĩnh vực này hoạt động ngày càng hiệu quả hơn.
Thực tế ở nước ta cũng như ở nhiều nước khác đã chỉ ra rằng, khi chủ sở
hữu vốn và chủ sử dụng vốn là một thì vốn được sử dụng có hiệu quả hơn các
trường hợp chủ sở hữu vốn tách biệt với chủ sử dụng vốn. Trong thành phần kinh
tế nhà nước, người chủ sở hữu vốn rất chung chung, là “nhà nước” nhưng người
sử dụng vốn lại rất cụ thể là “giám đốc” doanh nghiệp nhà nước hoặc là chủ đầu
tư hoặc là trưởng ban quản lý dự án đầu tư thuộc vốn nhà nước.
Trong điều kiện đó, nếu công cụ quản lý nhà nước chưa đủ mạnh để kết
hợp “3 lợi ích” và hệ thống hóa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích toàn xã
hội thì những chủ sử dụng vốn rất dễ có cơ hội biến tài sản của nhà nước thành tài
sản cá nhân và đó là nguyên nhân quan trọng gây nên lãng phí thất thoát vốn.
Vì vậy các nước đang phát triển và nhất là các nước chuyển từ nền kinh tế
chỉ huy sang nền kinh tế hỗn hợp (như Séc, Sloven, Hungari…) đã thực hiện việc
tư nhân hóa và tái tư nhân hóa các cơ sở kinh tế rất sâu rộng (ngược với chính
sách quốc hữu hóa trước kia họ đã làm). Ở Việt Nam, mặc dù từ bỏ mô hình kinh
tế chỉ huy nhưng đang xây dựng một nền kinh tế đa thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng XHCN, nên
chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một chính sách đúng đắn tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp được cổ phần hóa hoạt động có hiệu quả hơn. Vì
chủ sở hữu vốn lúc này không chỉ còn là nhà nước nữa mà là một tập thể hội đồng
quản trị đại diện cho lợi ích của nhà nước và của các cổ đông. Vì lợi ích kinh tế
của mình, việc sử dụng vốn được quản lý giám sát cụ thể nên hiệu quả hơn.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được tiến hành ở nước ta mấy năm
nay và đã thu được kết quả quan trọng. Tuy nhiên, do có những quan niệm nhận
thức khác nhau, chưa thống nhất, làm cho tốc độ cổ phần hóa khi nhanh khi chậm,
không theo đúng lộ trình. Vì vậy, đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa các doanh
-75-
nghiệp nhà nước cũng là tiền đề, là điều kiện áp dụng có kết quả các giải pháp
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
3.3.4. Đẩy mạnh quá trình cải cách hành chính nhà nước:
Cải cách hành chính nhằm sắp xếp, tinh giản bộ máy, chống quan liêu cửa
quyền, nâng cao hiệu lực hoạt động của bộ máy hành chính. Cải cách hành chính
do đó tạo cho nền kinh tế xã hội năng động, thông thoáng, hoạt động có hiệu quả.
Riêng ở lĩnh vực đầu tư xây dựng, cải cách hành chính sẽ giảm rất nhiều sự trì trệ
trong khâu lập và phê duyệt dự án, giải phóng mặt bằng, cấp phát thanh toán,
quyết toán, cho vay đầu tư… nhờ đó mà giảm cửa quyền, phiền hà, chống lãng
phí thất thoát đầu tư đồng thời nhanh chóng đưa công trình vào khai thác sử dụng
nên nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Hiện nay, trong nhiều đơn vị thí điểm
về cải cách hành chính, thực hiện một cửa một dấu chống phiền hà nên được quần
chúng ủng hộ.
Tuy nhiên, cải cách hành chính không chỉ giảm bớt nhân viên, bớt bộ phận
này, thêm bộ phận kia mà còn thay đổi lề lối làm việc để đạt kết quả cuối cùng là
hiệu lực bộ máy hành chính và hiệu suất làm việc của cán bộ hành chính. Điều
này phụ thuộc nhiều vào phẩm chất và năng lực nhân viên hành chính có ngang
tầm với vị trí công việc được đảm nhiệm không. Vì vậy, cải cách hành chính còn
phải thường xuyên tổ chức đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ công chức thích ứng với thời đại kinh tế tri thức, kinh tế hội nhập. Nếu không
thực hiện tốt cải cách hành chính thì không thể nào thu hút đầu tư, cũng như
không thể nào quản lý tốt và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được.
3.3.5. Tăng cường đầu tư cho đào tạo và đào tạo lại cán bộ:
Đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư vào tư bản con người, điều này có ý
nghĩa rất quan trọng trong thời kỳ phát triển khoa học công nghệ và trong giai
đoạn chuyển biến từ nền kinh tế vật chất sang nền kinh tế tri thức. Con người vừa
là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển: con người xây dựng cơ chế chính
sách, con người thực thi chính sách, con người tổng kết kiểm tra thực hiện chính
sách,… chất lượng của quy trình này tốt sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội phát
triển; kinh tế xã hội phát triển thì đời sống con người sẽ được nâng cao. Chính vì
vậy cần phải chú trọng đầu tư cho giáo dục, xem đây là một quốc sách hàng đầu
nhằm đáp ứng cho yêu cầu phát triển trước mắt cũng như sự phát triển lâu dài.
-76-
Phải có chính sách tạo điều kiện cho đội ngũ trí thức phát triển, phát huy trí
tuệ, tích cực đóng góp vào sự nghiệp chung của tỉnh. Đẩy mạnh công tác giáo dục
đào tạo, chú ý đào tạo phát triển nhân tài đối với lớp trẻ kế cận, thường xuyên tổ
chức đào tạo lại hoặc đào tạo bổ sung kiến thức đối với cán bộ công chức đang
công tác.
Việc tổ chức đào tạo, đào tạo lại phải được đa dạng hóa dưới nhiều hình
thức như: tập huấn, hội thảo chuyên đề, lớp nghiệp vụ ngắn hạn, dài hạn… để mọi
người đều có điều kiện tham gia.
Có chính sách hỗ trợ học tập trong nước và ngoài nước, đặc biệt là đối với
cán bộ chủ chốt trong lĩnh vực quản lý đầu tư xây dựng.
Kết luận, Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là một trong những yếu tố
quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội tỉnh Bình Thuận
– thời kỳ 2006-2010. Việc tổ chức thực hiện tốt 4 nhóm giải pháp cơ bản trên sẽ
phát huy tác dụng tích cực và hạn chế tiêu cực trong quản lý đầu tư xây dựng, tạo
sự hấp dẫn trong khai thác các nguồn lực cho đầu tư và tạo được hệ thống cơ sở
hạ tầng hiện đại, vững chắc đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp hóa-hiện đại hóa
của tỉnh nhà nói riêng, của cả nước nói chung.
PHẦN KẾT LUẬN
-77-
Cùng với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới, cũng như các
nước trong khu vực, Việt Nam đang nỗ lực vươn lên hòa chung vào tiến trình phát
triển. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IIIV, thứ IX đã nhấn mạnh:
Đường lối kinh tế của Đảng ta là đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đưa
nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất,
xây dựng một nền kinh tế mở hướng ra bên ngoài…
Để phấn đấu đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp thì việc tập
trung xây dựng nền tảng cho nó trở thành yêu cầu cấp thiết và là nhiệm vụ trọng
tâm trong thời kỳ Chiến lược 10 năm (2001-2010), đó chính là: Xây dựng tiềm
lực kinh tế và cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại
hóa. Trong đó bao gồm: kết cấu hạ tầng kinh tế, kết cấu hạ tầng xã hội, phát triển
công nghiệp tư liệu sản xuất quan trọng, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp
quốc phòng, nền nông nghiệp hàng hóa lớn, các dịch vụ cơ bản và tiềm lực khoa
học công nghệ.
Quán triệt được đường lối trên Đảng và Nhà nước ta đã tích cực chú trọng
đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và từng
bước hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng: giao thông, điện lực, thông tin, thủy
lợi… trong đó năng lượng phải đi trước một bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế xã hội, đảm bảo an toàn năng lượng quốc gia; Cung cấp đủ nước sạch cho đô
thị, khu công nghiệp và cho trên 90% dân cư nông thôn; Giải quyết cơ bản vấn đề
thoát nước và xử lý chất thải đô thị.
Thực hiện đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng, hoạt động đầu tư
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và xây dựng kết cấu hạ tầng của tỉnh Bình Thuận
cũng ngày càng được quan tâm rất lớn thể hiện qua tỷ trọng chi trong tổng chi
ngân sách, mức chi năm sau luôn cao hơn năm trước, phần tăng thu ngân sách
hàng năm luôn ưu tiên bổ sung chi cho đầu tư, nhiều công trình đã hoàn thành và
phát huy tác dụng…
Từ cơ sở lý luận, và thực tiễn phát triển hoạt động đầu tư tỉnh Bình Thuận,
luận văn đã đề xuất các giải pháp chiến lược theo nhóm giải pháp thích hợp, mong
được kịp thời góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư một cách
hợp lý và khoa học.
-78-
Với khả năng và thời gian có hạn, tác giả đã tiếp cận và thực hiện phân tích
khối lượng thông tin rất lớn thuộc nhiều lĩnh vực. Do đó luận văn sẽ khó tránh
khỏi những sai sót, tác giả với tất cả những cố gắng và nhiệt tình mong muốn góp
một phần nhỏ vào việc thúc đẩy hoạt động đầu tư xây dựng của tỉnh Bỉnh Thuận
ngày càng tốt hơn.
Kính mong được Quý Thầy Cô, các nhà nghiên cứu và các bạn học viên
góp ý để bản luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành bày tỏ sự biết ơn đối với PGS.TS Nguyễn Thị Diễm Châu,
người đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này./.
Phụ lục 1
SƠ ĐỒ MỐI QUAN HỆ VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA DÀN TRẢI , KÉO DÀI,
KÉM HIỆU QUẢ, THẤT THOÁT, LÃNG PHÍ VÀ TỔN THẤT
VỐN NHÀ NƯỚC ĐẦU TƯ CHO XDCB
-79-
(GS.TSKH Nguyễn Ngọc Trân)
1.Quản lý vĩ mô vốn và ngân sách nhà nước
2.Chất lượng qui hoạch
3.Cơ chế xin cho + qui hoạch kém → qui hoạch
sai mục tiêu
4.Cập rập, hoàn thành vào giờ chót
5.Xuống cấp do thiếu dự trù vốn để bảo trì
1.Khi đưa công trình vào sử dụng điều kiện
KT-XH khác với luận chứng kinh tế kỹ thuật
2.Tính năng kỹ thuật các thiết bị lỗi thời
1.Qui trình, thủ tục nặng nề 1.Giá đất và GPMB tăng
nhưng nhiều khe hở 2.Thất thoát vật tư, thiết bị
2.Không đủ vốn thực hiện 3.Giá thiết bị so với tính
3.Giải ngân chậm năng kỹ thuật trở nên lạc hậu
4.Tổng dự toán công trình tăng
1.Qui trình qui hoạch-kế hoạch-dự án khép
kín
2.Chất lượng khảo sát, thiết kế
3.Tư vấn thiết kế (khi có tiêu cực)
4.Thẩm định, trình phê duyệt
1.QH, kế hoạch không tính đến hiệu quả 5.Cơ chế đấu thầu bị lợi dụng
tư duy bao cấp nặng 6.Thi công (mua vật tư / giá /chủng loại /
tiêu cực)
2.Cơ chế xin – cho → công trình ngoài 7.Giám sát thi công hình thức / thông đồng
qui hoạch, kế hoạch 8.Nghiệm thu hình thức / tiêu cực
3.Bất cập giữa khả năng ngân sách nhà 9.Giải ngân chậm, có tiêu cực
nước và số lượng công trình 10.Thanh quyết toán chậm, tiêu cực
4.Giao cho các địa phương chỉ tiêu tốc 11.Năng lực chủ đầu tư và ban quản lý dự
án
Tổn thất nguồn
ố
E. Lãng phí vốn nhà nước
trong xây dựng cơ bản
C. Kém hiệu
Chất lượng và
tuổi thọ công
trình gim
B.Kéo
A. Dàn trải
D. Thất thoát
vốn xây dựng
công trình
-80-
độ phát triển dẫn đến phát triển theo 12.Ngân sách nhà nước phải trả lãi phần
giải ngân
chiều rộng chậm ODA, trái phiếu và công trái chính
phủ
Qua sơ đồ trên, GS.TSKH Nguyễn Ngọc Trân đã đề xuất một số kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong xây dựng cơ bản như sau:
• Cần quản lý vĩ mô tốt hơn việc sử dụng nguồn vốn nhà nước đầu tư cho xây
dựng cơ bản vì sự phát triển có chất lượng và bền vững; sử dụng vốn đúng
trọng tâm trọng điểm hơn, có lộ trình thực hiện theo thứ tự ưu tiên. Cần quy
định việc đánh giá hiệu quả của mỗi dự án đầu tư xây dựng cơ bản là khâu
cuối cùng của việc thực hiện dự án đó.
• Sử dụng tối ưu nguồn vốn ngân sách nhà nước còn có nghĩa cần và biết huy
động các nguồn vốn khác, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn ODA, vốn của
các thành phần kinh tế khác vào các công trình kết cấu hạ tầng thích hợp bằng
các chính sách và hình thức thích hợp.
• Cần làm rõ trách nhiệm và quyền hạn của tập thể và cá nhân trong công tác
quy hoạch, thẩm định và quyết định phê duyệt dự án công trình. Phân cấp
nhiều hơn cho địa phương là đúng, nhưng kèm theo là kỷ cương, tinh thần
liên kết, phối hợp, tránh nếp tư duy sản xuất nhỏ, cá thể. Khen thưởng và kỷ
luật nghiêm minh.
• Cần đổi mới những cơ chế quản lý làm phát sinh tư tưởng cục bộ trong quy
hoạch, khiến các địa phương - cho dù không có cơ sở - vẫn xin trung ương cơ
chế chính sách “đặc thù” cho mình, thay vì khuyến khích các địa phương liên
kết, hợp tác với nhau để phát huy thế mạnh của vùng và để cùng phát triển.
Chính các cơ chế này là nhân tố nội sinh của sự dàn trải trong đầu tư xây
dựng cơ bản.
• Trước mắt, mọi dự án phải đưa ra đấu thầu công khai và ngay từ khâu lựa
chọn công ty tư vấn khảo sát thiết kế lập dự án; hạn chế tối đa sự khép kín
trong cùng một bộ ngành chủ quản. Mọi công trình đều phải được nghiệm thu
từng giai đoạn và nghiệm thu cuối cùng với đầy đủ trách nhiệm của các bên,
và mọi sai phạm phải bị chế tài nghiêm minh theo pháp luật.
• Chính phủ cần chỉ đạo Bộ Kế hoạch - Đầu tư và Bộ Tài chính thực hiện đúng
Luật ngân sách, cụ thể là hai dòng ngân sách đầu tư xây dựng cơ bản và chi
thường xuyên cần được quản lý thống nhất, quy định rõ bộ nào chịu trách
nhiệm cuối cùng trước Chính phủ và trước Quốc hội về hiệu quả sử dụng vốn
nhà nước chi cho xây dựng cơ bản./.
Phụ lục 2
Tỷ lệ lãng phí và thất thoát vốn nhà nước chi cho XDCB
-81-
1. Công trình khối nhà ở trên biển BK4 của Vietsovpetro có giá trị 17 triệu USD,
nhưng số tiền mà những kẻ tham nhũng chia chác, lại quả cho nhau đã lên tới 6-7
triệu USD. Tỷ lệ thất thoát đã vượt xa cái ngưỡng 30% (phát biểu của Thủ tướng
thường trực Nguyễn Tấn Dũng tại hội nghị toàn ngành Kế hoạch và Đầu tư-Hà
Nội 25/6/2005).
2. Thất thoát hàng trăm tỉ đồng ở 9 cảng cá: Cà Mau (Cà Mau), Trần Đề (Sóc
Trăng), Tắc Câu (Kiên Giang), Côn Đảo, Cát Lở (Bà Rịa-Vũng Tàu), Phan Thiết
(Bình Thuận), Thuận Phước (Đà Nẵng), Sông Gianh (Quảng Bình), Thuận An
(Thừa Thiên-Huế).
Trong đó, Cảng cá Cát Lở có dự toán và quyết toán được duyệt là 218,655
tỉ đồng, còn Hội đồng định giá lại xác định giá trị thực chỉ có 72,654 tỉ đồng. Như
vậy thấp hơn giá trị quyết toán 146,001 tỉ đồng. Điều đó có nghĩa tỷ lệ thất thoát
khoảng 66% (Kết quả thanh tra của Chính Phủ năm 2004).
3. Theo báo cáo của Thanh tra Chính Phủ 2003 đã thanh tra 14 dự án và phát hiện
sai phạm 1.235 tỉ đồng, tỷ lệ thất thoát là 19,1% tổng số vốn. Riêng thành phố Hồ
Chí Minh có công trình bỏ 3,7 tỉ đồng mà bị tham ô 1,3 tỉ đồng, tương đương tỷ
lệ thất thoát trên 35%.
4. Đầu tư XDCB năm 2004 khoảng 57.000 tỉ đồng, có người cho rằng tỷ lệ thất
thoát 35%, người thì nói 10%... Nếu bình quân là 15% thì thất thoát cũng đã
7.000-8.000 tỉ đồng rồi. Đó là chưa kể các lãng phí khác như: hội họp, tiệc tùng,
chi phí hành chính… (phát biểu của đại biểu Quốc hội Lê Thanh Long-Bí thư
tỉnh ủy Long An).
5. “Trên 56 tỉ đồng… phơi nắng” đó là công trình thuỷ lợi 3/2, huyện Tịnh Biên,
tỉnh An Giang; có tổng vốn đầu tư trên 56,97 tỉ đồng bằng vốn ngân sách trung
ương và ngân sách tỉnh, công trình đã hoàn thành nhưng không sử dụng được.
6. Các nhà máy đường “âm thầm tháo chạy”, khu vui chơi giải trí bỏ hoang, Cảng
cá chết chìm, thiết bị y tế đắp chiếu, hợp đồng lòng vòng đến tận B “3 phẩy”, các
công trình phục vụ Sea Games tại Hà Nội… đã đạt kỷ lục về tỷ lệ thất thoát đầu
tư.
7. Thất thoát trong đầu tư XDCB của thành phố Hồ Chí Minh không thể là 5-7%
như các Sở chuyên ngành báo cáo mà có thể lên đến 30%. Đó là đánh giá của
Ô.Phan Phùng Sanh – Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kỷ thuật Xây dựng thành phố
Hồ Chí Minh có 50 năm kinh nghiệm trong nghề xây dựng (báo Tuổi trẻ
13/10/2004).
8. Bên cạnh công trình thất thoát 5-6% lại có cả công trình bị móc ruột tới 54%,
thậm chí đạt kỷ lục 100% - công trình Nhà hát Chèo chưa sử dụng đã phá đi xây
lại. Đó là đánh giá của Bà.Dương Thu Hương – Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch
và Ngân sách của Quốc hội (báo Tuổi trẻ 26/9/2004).
9. Báo cáo của Chính Phủ do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Võ Hồng Phúc trình
bày trước Quốc hội:
* Tình trạng thất thoát, lãng phí còn lớn, hiệu quả đầu tư chưa cao (năm
2002 kiểm tra 17 dự án phát hiện thất thoát 13,6%; năm 2003 kiểm tra 14 dự án
phát hiện thất thoát 19%; 6 tháng đầu năm 2004 kiểm tra phát hiện thất thoát 539
tỉ đồng)
-82-
* Sử dụng vốn tín dụng phát triển, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước
kém hiệu quả (1.551 dự án nợ quá hạn ở Quỹ Hỗ trợ phát triển, trong đó đặc biệt
là nợ kéo dài của các dự án thuộc “Chương trình đánh bắt xa bờ” và “Chương
trình mía đường” chiếm tới 40%.
* Tổng số nợ đọng XDCB: 11.000 tỉ đồng, trong đó các Bộ, ngành trung
ương nợ 3.500 tỉ đồng (chủ yếu Bộ Giao thông Vận tải và Bộ Nông nghiệp &
Phát triển nông thôn) và các địa phương là 7.4444 tỉ đồng.
* Số nợ đọng tính đến 31/12/2002 cần tiếp tục rà soát, xem xét biện pháp
xử lý: 4.977 tỉ đồng, trong đó trung ương là 2.000 tỉ đồng và địa phương là 2.977
tỉ đồng; năm 2003 số nợ này của trung ương là 869 tỉ đồng và địa phương là
3.735 tỉ đồng.
Phụ lục 3
CẢNH BÁO VỀ TĂNG TRƯỞNG
(Báo Thanh niên số 71, thứ bảy ngày 12/3/2005)
Năm 2005, Quốc hội đề ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8,5%. Đây là mục tiêu rất cao,
không những cao nhất tính từ năm 1997 đến nay, cao hơn 0,8% so với tốc độ tăng của năm
trước, mà còn rất cao khi xét đến các yếu tố tác động từ đầu vào đến đầu ra, nhất là yếu tố đầu
tư.
Đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định đến tốc độ tăng trưởng kinh tế, chẳng khác
gì “có bột mới gột nên hồ”. Để GDP tăng 8,5%, nếu suất đầu tư đạt bằng năm trước (4,7 lần),
thì lượng vốn đầu tư phát triển phải đạt xấp xỉ 40% GDP, cao hơn nhiều so với tỷ lệ 36,3% đã
đạt cao nhất trong năm 2004 và chỉ có Trung Quốc - một nước hằng năm có tới 60 tỷ USD đầu
tư nước ngoài và có tỷ lệ tiết kiệm nội địa rất cao - mới đạt được. Nếu lượng vốn đầu tư phát
triển so với GDP chỉ đạt 36,5% như mục tiêu đề ra, thì suất đầu tư phải giảm xuống chỉ còn 4,3
lần, cũng là mức thấp nhất tính từ năm 1998 đến nay. Như vậy, để đạt tốc độ tăng trưởng GDP
theo mục tiêu thì một mặt phải tăng lượng vốn đầu tư, mặt khác và quan trọng hơn là giảm suất
đầu tư, tăng mạnh hiệu quả đầu tư. Song từ tình hình những tháng đầu năm thì cần phải cảnh
báo về hiệu quả đầu tư chuyển biến chậm, biểu hiện trên nhiều mặt.
Tình trạng phân bổ vượt kế hoạch còn diễn ra ở nhiều địa phương. Đây là một trong
những nguyên nhân làm cho nợ đọng xây dựng cơ bản diễn ra trong thời gian qua lên đến hàng
chục nghìn tỷ đồng; kết quả làm cho kế hoạch vốn có thể tăng lên nhưng khối lượng thi công lại
tăng không tương ứng, số nợ này rồi cũng lại đến tay nhà nước phải trả, còn các đơn vị thi công
luôn luôn thiếu vốn hoạt động.
Tình trạng phân bổ vốn cho các dự án chưa đủ thủ tục đầu tư vẫn còn diễn ra ở nhiều bộ,
ngành, địa phương. Hiện có 13 dự án chưa có quyết định đầu tư, 154 dự án chưa có thiết kế kỹ
thuật tổng dự toán nhưng đã được ghi kế hoạch vốn.
-83-
Tình trạng dàn trải trong đầu tư xây dựng cơ bản đã bị phê phán nhiều nhưng việc khắc
phục vẫn chưa triệt để. Cả nước hiện còn 62 dự án nhóm B của các bộ, ngành, địa phương
nhưng bố trí kế hoạch vốn quá 4 năm; trên 60 dự án nhóm C bố trí kế hoạch vốn trên 2 năm…
Đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ bản năm 2005 sử dụng nguồn vốn trái phiếu
Chính Phủ cũng còn lắm vấn đề. Nguồn vốn này Chính phủ vay dân với lãi suất cao và tính lãi
ngay từ đầu vay, nhưng việc giải ngân còn rất chậm, chủ yếu là do khâu phê duyệt thiết kế dự
toán chưa xong, do việc giải phóng mặt bằng vẫn chậm; do các nhà thầu không có năng lực tài
chính nên khi vốn về thì bị ngân hàng khấu trừ…
Về tình trạng thất thoát trong đầu tư xây dựng đã được đã được nói rất nhiều, nhưng
việc khắc phục xem ra rất chậm. Mới nhất, điển hình nhất là vụ rút ruột công trình xây dựng
nhà tái định cư bởi nó là bằng chứng và cách làm thất thoát mà xưa nay các nhà đầu tư, nhà
thầu vẫn “đánh đố” là “bằng chứng đâu”?
Nếu không tìm cách nâng cao hiệu quả đầu tư, giảm suất đầu tư thì dù lượng vốn kế
hoạch có tăng thì tăng trưởng kinh tế cũng không tăng tương ứng./.
-84-
Phụ lục 4
ĐẦU TƯ NHIỀU - HIỆU QUẢ KÉM
Hệ số ICOR (số vốn cần thiết để tạo ra 1 đồng tăng trưởng thêm trong GDP) của Việt
nam hiện nay được các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước nhận định là đang ở mức
khá cao, có nghĩa hiệu quả đầu tư đang thấp.
(theo Thời báo Kinh tế Sài gòn số 45 ngày 3/11/2005)
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), hệ số ICOR đối với khu vực đầu tư của Nhà
nước là ở mức gần 7, khu vực tư nhân có thấp hơn. Còn theo các chuyên gia của Việt
Nam, hệ số này đang ở mức trên dưới 5 (hệ số ICOR ở mức 2-3 là trung bình và càng
thấp thì càng hiệu quả). Như vậy hiệu quả của nền kinh tế còn thấp vì để đạt được tăng
trưởng vẫn phải cần một lượng đầu tư nhiều hơn mức bình thường. Hay nói cách khác,
đóng góp vào tăng trường chủ yếu vẫn là yếu tố vốn chứ khoa học công nghệ hay cải
thiện năng suất chưa thật sự có vai trò quan trọng. Tuy nhiên, các chuyên gia của Viện
nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng để nhìn nhận thực chất hiệu
quả của nền kinh tế nói chung và hiệu quả của đầu tư hiện nay cần phải đánh giá ICOR
trong một chuỗi thời gian phát triển của nền kinh tế.
Đóng góp lớn nhưng tác động lan tỏa chưa tốt. Theo ông Võ Trí Thành,
Trưởng ban Nghiên cứu chính sách hội nhập kinh tế quốc tế thuộc CIEM, vào những
đầu thập niên 1990, ICOR của Việt nam chỉ ở mức 2-3. Đây là kết quả của quá trình cải
cách và mở cửa nền kinh tế được thực hiện từ những năm cuối thập niên 1980 và xuất
phát điểm lại thấp.
Từ nửa cuối thập niên 1990 đến nay, ICOR có xu hướng tăng dần theo đà gia
tăng đầu tư phát triển của toàn xã hội. Nhìn vào thực chất các luồng đầu tư này, có một
số vấn đề rất đáng quan tâm.
Trước hết, trên thực tế các dự án đầu tư lớn từ vốn ngân sách, ODA như phát
triển hệ thống thuỷ lợi, hệ thống giao thông quan trọng, hạ tầng viễn thông… và các dự
án đầu tư của các thành phần kinh tế đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng, giảm tỷ lệ đói
nghèo, thay đổi diện mạo đất nước… Tuy nhiên, tỷ trọng và phân bổ đầu tư còn nhiều
bất cập do tập trung quá nhiều vào các khu vực đô thị và trung tâm lớn cùng các vùng
phụ cận, lại chưa tạo ra sự thúc đẩy mang tính toàn vùng.
Ví dụ quốc lộ 55 được nâng cấp giúp các tỉnh và thành phố dọc tuyến đường này
phát triển nhanh, nhưng lại thiếu các tuyến giao thông tốt mang tính liên kết với các địa
phương khác trong khu vực để tạo hiệu ứng lan tỏa. Kết quả là các tỉnh khác cận kề bị
tụt hậu. Điều này cũng diễn ra trong khu vực đầu tư kinh doanh: sáu tỉnh thuộc hai vùng
kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía Nam chiếm tới 70% tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI); một số tỉnh nhờ vậy chỉ trong một thời gian ngắn đã vươn lên và lọt
-85-
vào câu lạc bộ các tỉnh có thu ngân sách một ngàn tỷ đồng trở lên, nhưng có tỉnh cận kề
đó đến giờ vẫn phải trông đợi bù chi ngân sách cân đối từ Trung ương.
Kế đến là nền kinh tế đang đi vào thị trường hoá với mức độ ngày càng sâu
nhưng hiện tổng đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước vẫn chiếm tới 53-55% tổng đầu tư
của toàn xã hội. Ông Thành cho rằng:”Đây là điều rất lạ lẫm với kinh tế thị trường vì
càng thị trường hoá thì đầu tư của tư nhân càng phát triển mới đúng”. Theo ông Thành,
nguyên nhân hoàn toàn không phải do khu vực tư nhân không có khả năng mà vì nhiều
lĩnh vực đầu tư hiện nay Nhà nước chưa cho khu vực tư nhân được tiếp cận, vẫn để
doanh nghiệp nhà nước ôm đồm; nhiều lĩnh vực, doanh nghiệp tư nhân còn ngại nhảy
vào vì cơ chế chính sách không rõ ràng, không hấp dẫn, như phát triển hạ tầng vùng sâu,
vùng xa, dịch vụ công cộng…
Bên cạnh đó, ông Thành cũng cảnh báo một hiện tượng đáng lo ngại diễn ra ở
nhiều nơi: Có những nhóm lợi ích khác nhau đang tìm mọi cách để chia chác “miếng
bánh ngân sách nhà nước”; họ lợi dụng quan điểm về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước để dành phần lớn các dự án phát triển cho doanh nghiệp nhà nước, từ đó có điều
kiện phục vụ cho lợi ích cá nhân. Đồng thời có địa phương vì muốn thoát nhanh khỏi
nghèo nàn đã tập trung đầu tư phát triển quá nhiều mà không tính toán đến hiệu quả thực
sự, từ đó rơi vào tình trạng nợ nần, nảy sinh nhiều bức xúc xã hội do không kiểm soát
được tham nhũng.
Đầu tư thiên lệch, nhiều cơ hội bị bỏ lỡ. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, trong giai đoạn 2001-2005, cơ cấu đầu tư toàn xã hội đã có những dịch chuyển tích
cực theo hướng tập trung cho các mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế xã hội, trong
đó đầu tư cho lĩnh vực kinh tế chiếm hơn 70% tổng mức đầu tư cả giai đoạn này. Tuy
nhiên, mức đầu tư cho giáo dục và khoa học công nghệ giai đoạn này chỉ chiếm chưa
đến 5%, một mức đầu tư rất khiêm tốn.
Theo các chuyên gia của CIEM, mức đầu tư không tương xứng này đã gây nên
hiện tượng mất cân đối trong phát triển mà điển hình là: năng lực quản lý (thể hiện ở
trình độ của lực lượng lao động, trình độ ứng dụng công nghệ và khả năng phát huy hiệu
quả của thiết bị ứng dụng…) đã không theo kịp tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Đây
là một nguyên nhân quan trọng khiến tiến trình cải cách nền kinh tế bị chậm lại, hay gặp
phải các khó khăn nảy sinh mới như thực tế đã và đang diễn ra.
Theo ông Võ Trí Thành, nếu nhìn tổng thể nền kinh tế, đấy chính là những chi
phí cơ hội phải trả trong các dự án được đầu tư mà thiếu sự tính toán mang tính thị
trường; có thể là do năng lực của địa phương yếu kém trong công tác nghiên cứu, khảo
sát, quản lý và giám sát quá trình đầu tư, cộng với các hiện tượng tham nhũng khiến các
dự án đã không được đầu tư và vận hành theo ý muốn. Biểu hiện rõ nhất là rất nhiều các
dự án thuộc nhóm B và C ở các địa phương đã đầu tư thiếu hiệu quả.
Mặt khác, hàng trăm dự án được đầu tư xong, phát huy hiệu quả nhưng không
được quan tâm bảo dưỡng, bảo trì hoặc nghiên cứu để nâng cấp giúp dự án bền vững
hơn, khiến cùng với thời gian, nhiều dự án nhanh chóng bị xuống cấp nghiêm trọng,
-86-
không phát huy hiệu quả được lâu dài. Hệ thống đê hiện nay đã không chịu nổi một số
trận bão, lụt thời gian gần đây là một minh chứng khá rõ ràng.
Chi phí cơ hội cao dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp còn thể hiện trong nhiều lĩnh vực
khác nhau của nền kinh tế mà nguyên nhân chủ yếu, theo phân tích của các chuyên gia
CIEM, do năng lực của bộ máy điều hành kém. Như kế hoạch huy động trái phiếu của
Chính phủ thời gian gần đây luôn đạt kết quả khá cao, nhưng công tác giải ngân nguồn
vốn này vào các dự án, công trình cụ thể luôn gặp khó khăn; thậm chí đã có lúc nguồn
vốn này bị đọng tới gần hai năm vì không có cơ chế giải ngân phù hợp cho dự án.
“Chi phí cơ hội trong những trường hợp này là rất lớn vì các công trình này bị
chậm đưa vào khai thác khiến nhiều dự án, lĩnh vực khác có liên quan bị phát sinh chi
phí, kém hiệu quả hoặc bị đình trệ. Đây cũng là một nguyên nhân khiến mức đầu tư làm
1 km đường ở Việt Nam có nơi cao gấp hàng chục lần nước ngoài” ông Thành nhận xét.
Ông cho rằng để đầu tư của xã hội có hiệu quả hơn, ngoài các biện pháp cần làm
như tính toán chặt chẽ nhu cầu đầu tư, giám sát và quản lý quá trình đầu tư, khuyến
khích nhiều hơn khu vực tư nhân tham gia vào đầu tư phát triển… thì Nhà nước cũng
cần tính đến việc phân luồng đầu tư theo hướng nên chú trọng đầu tư vào nghiên cứu
phát triển, giáo dục và dịch vụ khuyến nông trong điều kiện của Việt Nam hiện nay. Bởi
trên thực tế các luồng đầu tư vào đây luôn mang lại lợi suất cao nhất và có tác dụng lan
tỏa nhanh chóng./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 43911.pdf