LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhượng quyền thương mại xuất hiện từ thế kỉ 19 và không ngừng được mở
rộng, phát huy tính hiệu quả trong kinh doanh. Các khu vực kinh tế dịch vụ
đang chứng kiến hàng loạt các doanh nghiệp sử dụng phương thức này. Đối với
chủ thương hiệu, thông qua mô hình chuỗi liên kết tạo thành mạng lưới kinh
doanh- phân phối dày đặc, nhượng quyền thương mại mang lại siêu lợi nhuận
cho họ và cả sự tiện lợi cho người tiêu dùng.
Theo báo cáo hoạt động nhượng quyền thương mại năm 2006 của phòng
thương mại Mỹ 2006 (đăng trên website: www.amchamvietnam.com), cứ 12 phút lại
có một hệ thống nhượng quyền mới ra đời. Ở Mỹ 90% công ty kinh doanh theo
hình thức nhượng quyền thương mại tiếp tục hoạt động sau 10 năm trong khi
82% công ty độc lập phải đóng cửa và cũng chỉ có 5% công ty theo hợp đồng
thương hiệu thất bại trong năm đầu tiên so với 38% công ty độc lập. Ở Châu
Âu, tổng cộng có hơn 4.000 hệ thống nhượng quyền thương mại; với 167.500
cửa hàng nhượng quyền thương mại, doanh thu đạt khoảng 100 tỉ Euro, tạo ra
hơn 1.5 triệu việc làm. Tại Úc, tổng cửa hàng nhượng quyền thương mại
khoảng 54.000, đóng góp 12% vào GDP và tạo hàng trăm ngàn việc làm cho
người lao động. Điều đó cho thấy sự bùng nổ hình thức này trên thế giới là điều
tất yếu.
Tại Việt Nam, hình thức kinh doanh này ngày càng khẳng định vai trò của
mình. Việc Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO, mở
ra thêm nhiều cơ hội và cũng là thách thức cho các doanh nghiệp trong nước.
Nhượng quyền thương mại là một cách thức tốt giúp doanh nghiệp mở rộng
quảng bá và nâng cao uy tín thương hiệu, gia tăng doanh thu, tiết kiệm chi phí.
Tuy nhiên, kinh doanh theo hình thức này cũng hàm chứa nhiều thách thức.
Với mong muốn tìm ra giải pháp phát triển kinh doanh bằng hình thức nhượng
quyền cho các doanh nghiệp Việt Nam, tôi quyết định chọn đề tài “Giải pháp
phát triển kinh doanh bằng hình thức nhượng quyền mô hình hoạt động tại
các doanh nghiệp nhượng quyền Việt Nam” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản về hình thức
nhượng quyền mô hình hoạt động; phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của
các doanh nghiệp nhượng quyền Việt Nam tại thị trường nội địa và mở rộng ra
thị trường quốc tế; từ đó, đề xuất giải pháp phát triển kinh doanh bằng hình
thức nhượng quyền mô hình hoạt động đối với các doanh nghiệp nhượng quyền
Việt Nam
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là hình thức nhượng quyền mô hình
hoạt động tại các doanh nghiệp Việt Nam, nhượng quyền tại thị trường nội địa
và quốc tế.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu kết quả hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam đã
nhượng quyền tại thị trường nội địa và trên thế giới. Trong đó, tập trung đi sâu
vào nghiên cứu quy trình trước chuyển nhượng, trong chuyển nhượng và sau
chuyển nhượng của hình thức nhượng quyền mô hình hoạt động tại các doanh
nghiệp Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu dựa trên phương pháp khoa học:
+ Thu thập tài liệu, tổng hợp và phân tích
+ Phương pháp so sánh
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài
bao gồm 3 chương
Chương I: Cơ sở lý thuyết về nhượng quyền mô hình hoạt động
Chương II: Thực trạng hoạt động nhượng quyền mô hình hoạt động của
doanh nghiệp nhượng quyền Việt Nam tại thị trường nội địa và nước ngoài
Chương III: Đề xuất giải pháp nhằm phát triển kinh doanh bằng hình thức
nhượng quyền mô hình hoạt động tại các doanh nghiệp nhượng quyền Việt
Nam
85 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2835 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển kinh doanh bằng hình thức nhượng quyền mô hình hoạt động tại các doanh nghiệp nhượng quyền Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước 1: Tiếp xúc trực tiếp hoặc hẹn phỏng vấn với văn phòng
công ty Phở 24
Bước 2: Kí thỏa thuận giữ bí mật thông tin và điền vào hồ sơ đăng
kí mua mô hình nhượng quyền
Bước 3: Điền đầy đủ thông tin trong hồ sơ và nộp lại cho Phở 24,
chờ xem xét
58
Bước 4: Công ty Phở 24 tiến hành kiểm tra, xác minh các thông
tin về người mua
Bước 5: Công ty Phở 24 mời đối tác muốn mua mô hình chuyển
nhượng tới văn phòng, thảo luận chi tiết cách thức triển khai cửa hàng,
tập trung vào việc chọn địa điểm kinh doanh, thiết kế cửa hàng và kế
hoạch kinh doanh
Bước 6: Kí hợp đồng
Bước 7: Huấn luyện, đào tạo đội ngũ quản lí và nhân viên cửa
hàng
Bước 8: Khai trương cửa hàng
c) Sau quá trình chuyển nhƣợng
Phở 24 với chiến lược phát triển chậm mà chắc, triển khai thị trường tới
đâu bám rễ tới đó, nhằm đảo bảo những giá trị cốt lõi của mình luôn được đồng
bộ và nhất quán ở tất cả các cửa hàng nhượng quyền. Phở 24 được đánh giá là
doanh nghiệp nhượng quyền hệ thống thành công nhất từ trước tới giờ.
3.2. Hoạt động tại thị trƣờng nƣớc ngoài
Phở 24 không những thành công trong thị trường nội địa, mà còn trên thị
trường nước ngoài bởi chính sự khôn khéo trong cách thức điều hành, quản lí
của mình.
Để thu hút khách nước ngoài, Phở 24 chọn hình thức quảng bá bằng cách
liên kết trực tiếp với các công ty du lịch lữ hành như Saigontourist,
Viettravel,… và nhiều công ty du lịch khác. Chính sự quảng bá này đã thu hút
được sự chú ý của một số đối tác nhận quyền ở nước ngoài và nhà nhượng
quyền có nhiều cơ hội để lựa chọn, đánh giá đối tác của mình. Do vậy mà
những nhà nhận quyền của Phở 24 thường là những doanh nhân có tiềm lực về
tài chính, có trình độ kiến thức kinh doanh, có kinh nghiệm trong kinh
59
doanh…Chẳng hạn, chủ cửa hàng nhượng quyền Phở 24 ở Jakarta (Indonexia)
là một doanh nhân thành đạt, chủ cửa hàng Phở 24 ở Manila (Philippines) là
một nhân vật khá nổi tiếng trong giới kinh doanh, một cố vấn kinh tế và nắm
giữ quyền kinh doanh của một số thương hiệu nổi tiếng. Qua cách chọn lựa đối
tác nhận quyền này, ta thấy chủ thương hiệu Phở 24 rất thành công và có khả
năng phát triển chuỗi cửa hàng nhượng quyền thương mại ở các quốc gia khác.
Mức giá nhượng quyền thương hiệu ở nước ngoài là 12.000 USD, chưa
kể phí vận hành 3% trên tổng doanh thu của từng cửa hàng đã chuyển nhượng.
Hình thức nhượng quyền của Phở 24 là nhượng quyền hệ thống, theo đó, bên
được nhượng quyền được sử dụng thương hiệu Phở 24 và được bên nhượng
quyền hướng dẫn, đào tạo chi tiết cách thức tổ chức, điều hành và quản lý cửa
hàng phở theo đúng quy trình chuẩn.
Kết quả là vào tháng 7/2009, Phở 24 hiện có những cửa hàng ở Jakarta
(Indonesia), Manila (Philippines), Seoul (Hàn Quốc), Phnom Penh
(Campuchia), Sydney (Úc)... Tháng 8/2009 mở cửa hàng nhượng quyền thứ 6
tại Jakarta Indonesia. Tháng 10/2009 khai trương cửa hàng đầu tiên tại Hong
Kong, và cửa hàng nhượng quyền thứ 2 tại Seoul Korea đi vào hoạt động. Nhật
Bản, và Mỹ được kỳ vọng là những điểm đến tiếp theo của Phở 24 vào năm
2010 (nguồn: theo mục Giới thiệu hoạt động của Phở 24, đăng tại website
www.pho24.com.vn)
60
Chƣơng III: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN KINH
DOANH BẰNG HÌNH THỨC NHƢỢNG QUYỀN MÔ HÌNH
HOẠT ĐỘNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP NHƢỢNG QUYỀN
VIỆT NAM
1. Triển vọng và thách thức của việc phát triển nhƣợng quyền
hệ thống của doanh nghiệp nhƣợng quyền Việt Nam tại thị trƣờng
nội địa và trên trƣờng quốc tế
1.1. Triển vọng
Mô hình nhượng quyền hệ thống là một công cụ hiệu quả cho các công
ty muốn khuếch trương tên tuổi của mình. Nếu được phát triển và thực hiện
một cách đúng đắn, nhượng quyền hệ thống sẽ mang lại lợi thế đáng kể cho
mọi người tham gia. Lợi ích của phương thức hoạt động này không chỉ có đối
với bên nhượng quyền, bên nhận quyền mà còn cả đối với người tiêu dùng và
nền kinh tế. Đối với người tiêu dùng, các hệ thống chuyển nhượng khuyến
khích việc đa dạng hóa và phục vụ các phân đoạn thị trường, đưa ra cho người
tiêu dùng những lựa chọn tin tưởng và thuận tiện trong hoạt động mua bán,
nâng cao chất lượng đồng nhất các sản phẩm và dịch vụ của hệ thống. Đối với
nền kinh tế, hoạt động nhượng quyền hệ thống thuận lợi sẽ nâng cao tính cạnh
tranh, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, làm giảm rủi ro và tính không ổn
định cho người tiêu dùng, thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ và kĩ năng
kinh doanh, thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển. Chính vì những lợi tích
thiết thực đó, nhượng quyền hệ thống đã phát triển rộng khắp.
Những nhân tố môi trường kinh doanh có tác động đến sự phát triển của
thương mại là rất nhiều. Chúng xuất phát từ tâm lí người tiêu dùng, từ các điều
61
kiện kinh tế, sự phát triển của kĩ thuật và hoạt động của Chính phủ. Tùy theo
điều kiện cụ thể của từng quốc gia mà lĩnh vực ưa chuộng của nhượng quyền
hệ thống là khác nhau; và đã có rất nhiều ngành nghề mà ở đó, nhượng quyền
hệ thống có cơ hội để tồn tại và phát triển, đó là những hoạt động cần sự
chuyên nghiệp lớn trong chu trình phân phối.
Đánh giá về thị trường nhượng quyền hệ thống của các doanh nghiệp
nhượng quyền Việt Nam, ông Terry Ghani, giám đốc TGA- Malaysia, chuyên
gia hàng đầu trong lĩnh vực marketing tại Malaysia cho rằng: Việt Nam là một
thị trường tiềm ẩn, chưa được khai phá; các doanh nghiệp nhượng quyền Việt
Nam có rất nhiều cơ hội để thành công trong lĩnh vực này, không chỉ trong thị
trường nội địa, mà còn có thể vươn ra thế giới.
Với những ưu thế như chính trị ổn định, tỉ lệ người biết chữ cao, thị
trường trẻ với khoảng 70% dân số dưới 30 tuổi, sức mua ngày càng tăng, doanh
nghiệp nhượng quyền Việt nam đang có nhiều lợi thế để thực hiện các hoạt
động nhượng quyền hệ thống ngay trên sân nhà.
Nhượng quyền hệ thống đã có lịch sử hàng trăm năm ở Mỹ, châu Âu và
40 năm ở châu Á. Ở Việt Nam, nhượng quyền hệ thống mới chỉ xuất hiện hơn
chục năm trở lại đây, tới thời điểm này, mới chỉ doanh nghiệp trong nước thực
hiện nhượng quyền hệ thống được coi là thành công, là café Trung nguyên, Phở
24 và bánh ngọt Kinh đô, nhưng nhiều nhà kinh doanh cho rằng đây đang là
một xu hướng và chắc chắn sẽ bùng nổ trong vài năm tới.
1.2. Thách thức
Điều khoản pháp lí chƣa rõ ràng gây nhiều khó khăn cho các doanh
nghiệp khi tiến hành nhượng quyền. Thậm chí một số điều khoản ở các luật,
nghị định còn chồng chéo lên nhau, gây ra lúng túng cho các doanh nghiệp khi
áp dụng. (Chi tiết tại mục 2.1)
62
Nguồn nhân lực có kiến thức nhượng quyền thương mại còn khan hiếm
chủ yếu là do doanh nghiệp tự đào tạo và nhân viên tự học. Không chỉ nhận
thức về nhượng quyền hệ thống, về marketing, marketing quốc tế , các doanh
nghiệp cũng nên xem xét tới vấn đề pháp lí ở các quốc gia muốn chuyển
nhượng tới. Sau thời điểm Việt Nam gia nhập WTO với sự xâm nhập mạnh mẽ
của hàng loạt tập đoàn bán lẻ và đồ ăn nhanh bằng phương pháp nhượng quyền
thương mại, họ có thể thành lập nên mạng lưới kinh doanh dày đặc cạnh tranh
với cường độ khốc liệt và có khả năng sẽ chiếm lĩnh cả thị trường bán lẻ. Điều
này đòi hỏi đội ngũ quản lí ở các doanh nghiệp nhượng quyền Việt Nam phải
sớm vạch ra chiến lược lâu dài. Đội ngũ quản lí tại các doanh nghiệp nhượng
quyền Việt Nam đa phần tự học hỏi do đó những thất bại sai lầm là không thể
tránh khỏi. Trong khi đó đội ngũ quản lý chuyên viên các doanh nghiệp nước
ngoài đều được đào tạo một cách bài bản, với chương trình tập huấn cập nhật.
Đây là một điểm hạn chế của nền giáo dục Việt Nam cũng như của các doanh
nghiệp trong công tác đào tạo. Như tại quốc gia Australia, từ năm 1999 chính
phủ nước này đã cho ra đời chương trình giáo dục chính quy về nhượng quyền
thương mại thiết kế đặc biệt cho các chủ thương hiệu các nhà quản lý trung và
cao cấp nhân viên làm việc trong các hệ thống franchise của nước Úc. Chương
trình này đã thu hút sự tham gia của hơn 20% trên tổng số các hệ thống nhượng
quyền thương mại tại Úc. Bằng cấp chứng chỉ của các chương trình này được
cung cấp bởi Trung tâm nghiên cứu về nhượng quyền thương mại của Đại học
New South Wales một trong những trường đại học nổi tiếng và uy tín nhất
nước Úc. Tương tự tại Mỹ và nhiều quốc gia khác nhượng quyền thương mại
thật sự trở thành một môn học phổ biến hơn. Hiệp hội nhượng quyền Quốc tế
còn có hẳn chương trình đào tạo cao học về quản trị nhượng quyền thương mại
(MBA in franchise management) phối hợp tổ chức tại trường Đại học Nova
Southern University của Mỹ.
63
Nguy cơ bị mất cắp bí quyết kinh doanh trong quá trình hoạt động cũng
là một thách thức đặt ra đối với một nhà quản lý thương hiệu. Bên nhận quyền
sẽ được chủ thương hiệu đào tạo phương thức hoạt động cung cấp những
phương công thức chế biến đặc biệt mang đặc trưng thương hiệu. Đặc điểm này
khiến cho kinh doanh nhượng quyền hệ thống khó có thể diễn ra ở những nơi
có hệ thống pháp lý chưa đủ mạnh như là ở Việt Nam
Vấn đề xúc tiến nhƣợng quyền hệ thống hiện vẫn còn nhiều hạn chế,
mặc dù những năm gần đây đã có nhiều nỗ lực nhưng thực sự vẫn chưa tạo
được một thị trường chuyển nhượng sôi động tại Việt Nam.
2. Đề xuất các nhóm hệ thống giải pháp
Từ những thách thức mà thị trường nhượng quyền mô hình mà các
doanh nghiệp nhượng quyền Việt Nam có thể gặp phải, tôi xin đề xuất một số
giải pháp nhằm khắc phục tình trạng trên như sau:
2.1 Đề xuất giải pháp hoàn thiện khung pháp lí về nhƣợng quyền hệ
thống tại Việt Nam
Pháp luật Việt Nam điều chỉnh các hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại nói
chung, vì thế, các phân tích và đề xuất dƣới đây về nhƣợng quyền thƣơng mại, cũng đƣợc
coi nhƣ nhƣợng quyền hệ thống.
Vấn đề xây dựng một khung pháp lý rõ ràng để điều chỉnh hoạt động
nhượng quyền thương mại là hoàn toàn cần thiết. Cũng như tất cả các phương
thức kinh doanh khác đang hiện hữu trong nền kinh tế, nhượng quyền thương
mại cũng có thể phát sinh những tác động tiêu cực tới môi trường kinh doanh
nếu như nó được phát triển một cách tự do, thiếu kiểm soát và nhất là thiếu sự
giám sát, quản lý từ phía Nhà nước. Chính vì vậy, cần nhanh chóng xây dựng
một số chế định pháp lý liên quan đến phương thức kinh doanh này và đưa vào
thành một chương trong luật thương mại sửa đổi. Đây sẽ là khuôn khổ pháp lý
64
để điều chỉnh và quy định các hoạt động cụ thể trong phương thức nhượng
quyền kinh doanh tại Việt Nam trong thời gian tới.
Các giải pháp kiến nghị :
Một là, sửa đổi điều 9 Luật cạnh tranh 2004 theo hướng chỉ cấm các thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại khoản 8 điều; còn các thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh còn lại (cụ thể là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh từ khoản 1 đến
khoản 7 điều chỉ bị cấm khi thị phần kết hợp của các bên trong thỏa thuận theo
chiều ngang, nếu là thỏa thuận theo chiều dọc thì thị phần của mỗi bên, trên thị
trường liên quan từ 30% trở lên. Nhưng chúng vẫn có thể được miễn trừ theo
quy định tại khoản 1 điều 10. Đồng thời cũng phải sửa đổi khoản 1 điều 10
Luật cạnh tranh 2004 theo hướng bổ sung thêm hai điều kiện để được miễn trừ
là phải (i) không áp đặt cho các doanh nghiệp có liên quan các hạn chế không
cần thiết để đạt được mục tiêu, và (ii) không tạo cho các doanh nghiệp này khả
năng loại trừ cạnh tranh đáng kể đối với các sản phẩm liên quan.
Hai là, khi xem xét ràng buộc bán kèm trong nhượng quyền thương mại,
cơ quan có thẩm quyền về cạnh tranh cần phân tích khái niệm “không liên quan
trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng” và khái niệm “phù hợp với hệ thống kinh
doanh do bên nhượng quyền quy định” trên cơ sở bối cảnh của hoạt động
nhượng quyền thương mại, đặc biệt cần tính đến yếu tố: (i) tồn tại hay không
tồn tại các biện pháp khác vẫn đạt được mục đích là nhằm bảo vệ bản sắc, uy
tín và chất lượng của hệ thống nhượng quyền thương mại nhưng lại ít có ảnh
hưởng tiêu cực hơn đến cạnh tranh; và (ii) ràng buộc bán kèm đó có ảnh hưởng
thực sự ngăn cản đối thủ cạnh tranh gia nhập thị trường, loại bỏ đối thủ cạnh
tranh hay vẫn có thể cho phép các đối thủ cạnh tranh tham gia trong thị trường
sản phẩm được bán kèm. Đặc biệt, nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng
nhượng quyền thương mại, bên nhượng quyền có những quy định mới sửa đổi
hợp đồng nhượng quyền thương mại mẫu đã đăng ký mà bên nhận quyền
65
không thể lường trước được, thì hành vi đó phải được xem xét kết hợp dưới cả
góc độ pháp luật cạnh tranh (có cấu thành hành vi ràng buộc bán kèm khi bên
nhận quyền đã bị trói buộc vào hoạt động nhượng quyền thương mại hay
không) và pháp luật về nhượng quyền thương mại (có vi phạm quy định về
nghĩa vụ cung cấp thông tin trong hợp đồng nhượng quyền thương mại hay
không).
Ba là, xúc tiến thương mại: nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp
Việt nam về hoạt động nhƣợng quyền kinh doanh thông qua các tổ chức hiệp
hội, các hội thảo, báo cáo chuyên đề góp phần nâng cao nhận thức về hoạt động
này cho các doanh nghiệp Việt Nam. Trong các trường đại học kinh tế, quản trị
kinh doanh, thương mại cũng cần có đầu tư thích đáng cho hoạt động này để
góp phần thúc đẩy hoạt động nhượng quyền kinh doanh của các doanh nghiệp
Việt Nam.
Phát triển các tổ chức tƣ vấn nhƣợng quyền kinh doanh: Cùng với sự
phát triển kinh tế, nhiều tổ chức tư vấn nhượng quyền kinh doanh cần được
phát triển để hỗ trợ cho doanh nghiệp nhượng quyền kinh doanh trong nước và
nước ngoài. Các đơn vị tư vấn cần có kiến thức chắc chắn về thị trường mục
tiêu thông qua các môi trường kinh tế, chính trị, pháp luật, cạnh tranh và văn
hóa. Ngoài ra còn cần phải hiểu được nhu cầu thị hiếu, nhu cầu sản phẩm của
thị trường mục tiêu, nhận rõ đối tác tiềm năng để tư vấn cho đơn vị nhượng
quyền.
2.2 Nhóm giải pháp cho các doanh nghiệp nhƣợng quyền Việt Nam
Để phát triển một hệ thống cửa hàng nhượng quyền mô hình có thể nói
là khá phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố hơn so với các mô hình
kinh doanh khác. Điều quan trọng của phương thức kinh doanh này nằm ở 5
nhân tố được xem là chìa khóa của sự thành công:
66
Bản sắc thƣơng hiệu: là giá trị cốt lõi và đặc trưng của thương hiệu, là
dấu ấn tồn tại trong tâm trí khách hàng một cách sâu đậm nhất và tạo nên khác
biệt so với các thương hiệu khác. Có thể nói, giá trị lớn nhất của hợp đồng
nhượng quyền nằm ở việc chuyển tải bản sắc này đến người nhận quyền như là
một lợi thế cạnh tranh ưu việt giúp họ xây dựng công việc kinh doanh một cách
nhanh chóng nhất. Nhưng những thương hiệu nhượng quyền rất khó bảo vệ giá
trị này vì nó phụ thuộc vào người nhận quyền có giữ được tính toàn vẹn của
hình ảnh thương hiệu ở mức nhất định hay không. Hệ thống nhượng quyền
càng lớn, họ càng dễ mất quyền kiểm soát nếu bản sắc thương hiệu không được
củng cố và bảo vệ.
Bảo vệ bí mật kinh doanh: Một bí mật kinh doanh được định nghĩa
chung như là một dạng thông tin mà các thông tin này có thể tạo ra cho người
nắm giữ chúng một lợi thế cạnh tranh nhất định, do vậy thông tin này sẽ được
giữ bí mật và người khác sẽ không biết gì về thông tin này và bí mật kinh
doanh chính là đối tượng của những nỗ lực thiết thực nhằm duy trì tính bí mật
của nó trong bất kì hoàn cảnh nào
Mọi hợp đồng nhượng quyền đều bao gồm nhiều điều khoản nhằm bảo
vệ các quyền sở hữu trí tuệ, các sáng chế, bí quyết kinh doanh. Tuy nhiên, có
nhiều hợp đồng lại thất bại do không chỉ ra được một cách thức đúng đắn nhằm
bảo vệ một thứ được coi là tài sản quý giá nhất đối với mọi doanh nghiệp – đó
chính là các bí mật kinh doanh. Xét trong bối cảnh của lĩnh vực nhượng quyền,
thật rất cần thiết cho cả bên nhượng quyền và bên nhận quyền hiểu thế nào là
một bí mật kinh doanh, tại sao việc bảo vệ bí mật kinh doanh lại trở nên quan
trọng, sự bảo vệ đó có thể thất bại ra sao và những nỗ lực cần thiết để giúp đảm
bảo việc bảo vệ những bí mật kinh doanh trong ngành kinh doanh này nhằm
duy trì lợi thế cạnh tranh của hệ thống nhượng quyền.
67
Nhấn mạnh tầm quan trọng của bí mật kinh doanh đối với một hệ thống
chuyển nhượng cũng như nguy cơ bị thất bại khi một người có liên quan đến
nhượng quyền đã không có những biện pháp đề phòng hợp lí nhằm bảo vệ bí
mật, một điều mà cả bên nhượng quyền và bên nhận quyền cần lưu ý đó là họ
nên có những hành động nhằm bảo vệ những bí mật thương mại trong hệ thống
nhượng quyền, nên quy định chi tiết và rõ ràng trong hợp đồng nhượng quyền.
Khi công nghệ và tài sản tri thức trở nên quan trọng trong thế giới chúng
ta, các bên nhượng quyền cần phải nhìn lại hợp đồng nhượng quyền của họ, và
bên nhận quyền cần phải xem xét lại cách thức quản lí công việc kinh doanh
của họ nhằm cam đoan rằng họ đang bảo vệ những bí mật kinh doanh trong hệ
thống nhượng quyền.
Vị trí kinh doanh: là yếu tố cực kì quan trọng trong việc nhượng quyền
hệ thống, đặc biệt ở các lĩnh vực thời trang, ăn uống và giải trí. Phở 24 rất kén
chọn trong việc đặt vị trí và chỉ nằm ở những con đường có đông khách nước
ngòai. Đối với các cửa hàng kinh doanh nhượng quyền như vậy thì địa điểm là
đòi hỏi khó khăn nhất trong việc lựa chọn người được nhượng quyền. Nếu bạn
có địa điểm tốt nghĩa là bạn đã có 50% cơ hội thành công.
Nỗ lực tiếp thị: những thương hiệu nhượng quyền phần lớn có ngân sách
tiếp thị giành riêng cho mình. Nhiều mô hình nhượng quyền đòi hỏi những qui
luật tiếp thị khá đặc biêt và có sự kết hợp giữa người nhượng quyền và người
nhận quyền. Tùy thuộc vào loại hình kinh doanh được chọn, doanh nghiệp
nhượng quyền có thể lựa chọn phương thức tiếp thị và quảng cáo phù hợp nhất.
Chiến lược dài hạn: thông thường việc nhượng quyền sẽ giúp doanh nghiệp
nhượng quyền rút ngắn được thời gian chuẩn bị những cơ sở ban đầu, nhưng
không có nghĩa là doanh nghiệp nhượng quyền không phải xây dựng một chiến
lược dài hạn. Một đại lý nhượng quyền cũng cần khoảng 2 đến 3 năm trước khi
68
thấy được lợi nhuận, và nếu bạn không có kế hoạch đầy đủ thì bạn sẽ bị nuốt
chửng trước khi có cơ hội thành công.
Quản lý con ngƣời: khả năng quản lý con người rất cần thiết trong công
cuộc kinh doanh, và càng quan trọng hơn trong lĩnh vực nhượng quyền đòi hỏi
sự hợp tác và tin cậy lẫn nhau của các thành viên tham gia. Vấn đề quản lý con
người sẽ đem lại nội lực cho thương hiệu của doanh nghiệp nhượng quyền
trước khi doanh nghiệp bắt đầu phát triển nó thành một hệ thống.
Năm nhân tố trên sẽ là nền tảng giúp doanh nghiệp nhượng quyền phát
triển một cách vững chắc, là nền móng giúp doanh nghiệp mở rộng hệ thống
kinh doanh của mình theo hình thức nhượng quyền mô hình.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế toàn cầu đòi hỏi các doanh nghiệp phải
nắm vững và sử dụng linh hoạt các phương thức thâm nhập thị trường thế giới.
Các doanh nghiệp Việt nam không chỉ dừng lại xuất khẩu sản phẩm, đầu tư ra
nước ngoài, mà còn có thể thực hiện nhượng quyền kinh doanh đối với sản
phẩm trong điều kiện cho phép. Xuất phát từ tình hình thực tế nhượng quyền
kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam thời gian qua, trên cơ sở nghiên cứu
những yếu tố ảnh hưởng và xuất phát từ khả năng vươn lên của doanh nghiệp
Việt Nam, xin được đề xuất một số giải pháp phát triển kinh doanh bằng hình
thức nhượng quyền mô hình hoạt động cho các doanh nghiệp nhượng quyền
Việt Nam như sau:
Các giải pháp kiến nghị:
Định vị, quảng bá, phát triển thƣơng hiệu: thương hiệu là tài sản quý
giá nhất mà người nhượng quyền cho phép các đại lý của mình sử dụng, giúp
họ kinh doanh và phát triển mà không phải trải qua giai đoạn xây dựng lợi thế
cạnh tranh. Nhưng vấn đề chỉ mới mang tính một chiều, nếu phần lớn các đại lý
chưa quan tâm nhiều đến việc cùng hợp tác phát triển thương hiệu nhượng
69
quyền và người nhượng quyền cũng chỉ tập trung vào việc mở rộng qui mô cho
mình. Vì vậy các doanh nghiệp nhượng quyền cần tiếp tục định vị đúng đắn
thương hiệu trên thị trường cùng với quảng bá phát triển ra thị trường trong
nước và thế giới (với những phương tiện phù hợp với ngân sách của doanh
nghiệp). Đây là nền tảng để phát triển nhượng quyền kinh doanh ra nước ngoài.
Hoạch định và thực hiện tốt chiến lƣợc marketing quốc tế: thực tế cho
thấy rằng, để nhượng quyền kinh doanh được tốt, các doanh nghiệp nhượng
quyền cần phải có chiến lược marketing và tổ chức thực hiện kiên quyết, bài
bản để hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả và đưa sản phẩm thâm nhập sâu rộng
ở thị trường trong nước và kế đến là thị trường thế giới. Trong đó, các doanh
nghiệp cần quan tâm tham dự những sự kiện quốc tế lớn về nhượng quyền ở
Việt Nam và trên thế giới để quảng bá giới thiệu hình ảnh của doanh nghiệp
cũng như học hỏi kinh nghiệp và hoạt động nhượng quyền của các công ty nổi
tiếng trên thế giới.
Chuẩn hóa sản phẩm và dịch vụ kết hợp với linh hoạt trong khuôn
khổ: Đối với doanh nghiệp đã nhượng quyền kinh doanh cần chú ý là tiêu
chuẩn hoá sản phẩm và dịch vụ là hai yếu tố quan trọng để phát triển nhượng
quyền kinh doanh. Tuy vậy, có thể điều chỉnh nhất định (nhưng không ảnh
hưởng đến hình ảnh chung) do môi trường thị trường thay đổi. Ngoài ra, khâu
kiểm soát cẩn thận và liên tục về hoạt động của bên nhận quyền là vô cùng
quan trọng. Bởi nếu không có thể dẫn đến mất uy tín thương hiệu.
Thành công nhƣợng quyền hệ thống ngay trên sân nhà: để thành công
nhượng quyền hệ thống trên thị trường nội địa, các doanh nghiệp nhượng
quyền Việt Nam nên học hỏi kinh nghiệm của các doanh nghiệp nước ngoài đã
thành công trong cùng lĩnh vực, như McDonald’s, KFC, Hilton. Bên cạnh đó,
những quy định pháp lý của nước sở tại thường là rất kỹ, doanh nghiệp Việt
Nam còn chưa hiểu về vấn đề này nên gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, để phát
triển và thành công ngay trên sân nhà, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải
70
đầu tư nghiên cứu thị trường, phân khúc thị trường, định vị sản phẩm, hoạch
định và thực hiện chiến lược sản phẩm, thương hiệu; chiến lược giá, chiến lược
phân phối và chiến lược xúc tiến sản phẩm.
Doanh nghiệp cần lựa chọn và xây dựng mô hình nhƣợng quyền ra
nƣớc ngoài một cách phù hợp: các doanh nghiệp nhượng quyền cần có đội
ngũ quản lý hoạt động nhượng quyền chuyên nghiệp, xây dựng kế hoạch phát
triển nhượng quyền, chọn mô hình nhượng quyền gắn liền với những hoạt động
hỗ trợ bên được nhượng quyền trong thời gian của hợp đồng nhượng quyền có
hiệu lực. Đây là những hoạt động có tính chiến lược trong việc phát triển hoạt
động nhượng quyền ra nước ngoài.
71
KẾT LUẬN
Nhượng quyền hệ thống đã thực sự có chỗ đứng quan trọng trong nền kinh
tế thế giới. Từ thế kỷ 19, thế kỷ 20 và thế kỷ 21 đã, đang và sẽ còn chứng kiến
sự lớn mạnh không ngừng của hình thức này này. Tính ưu việt của hình thức
nhượng quyền hệ thống sẽ còn được áp dụng ở nhiều lĩnh vực, nhiều công ty,
nhiều khu vực và nhiều quốc gia trên thế giới.
Hơn bao giờ hết, thời điểm hiện nay là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp
nhượng quyền của Việt nam, không chỉ mở rộng quy mô hệ thống mà còn tăng
cường quảng bá tên tuổi trên thị trường nội địa và thị trường nước ngoài.
Trong bài nghiên cứu, tác giả đã hệ thống hóa những vấn đề lí luận cơ bản
về nhượng quyền hệ thống, đánh giá thực trạng hoạt động nhượng quyền hệ
thống tại thị trường nội địa và khu vực nước ngoài của các doanh nghiệp
nhượng quyền Việt Nam thông qua phân tích một số doanh nghiệp làm nhượng
quyền điển hình, để từ đó, đề xuất một số giải pháp phát triển kinh doanh bằng
hình thức nhượng quyền hệ thống cho các doanh nghiệp nhượng quyền Việt
Nam. Các nhóm giải pháp phải được phối hợp đồng bộ từ Chính phủ, hiệp hội,
và các doanh nghiệp nhượng quyền Việt nam. Từ phía chính phủ, giải pháp hữu
hiệu nhất là tạo môi trường và hành lang pháp lí cho mô hình nhượng quyền hệ
thống phát triển bằng hàng loạt các chính sách vĩ mô như ban hành các quy
định pháp lí, đồng thời có định hướng và chiến lược cụ thể cho các doanh
nghiệp. Từ phía các doanh nghiệp nhượng quyền, cần thiết phải nâng cao nội
lực doanh nghiệp như trang bị những kĩ năng, kiến thức bài bản về quản trị
kinh doanh, học hỏi kinh nghiệm từ các mô hình thành công, xây dựng một mô
hình nhượng quyền hệ thống mới cho riêng mình trên cơ sở kế thừa và phát huy
72
những cái sẵn có, phát triển hệ thống không chỉ thị trường nội địa mà còn vươn
ra thế giới.
Phụ lục 1: LUẬT THƢƠNG MẠI
Mục 8
NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI
Điều 284. Nhƣợng quyền thƣơng mại
Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng
quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán
hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:
1. Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách
thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn
hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh,
biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;
2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận
quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.
Điều 285. Hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại
Hợp đồng nhượng quyền thương mại phải được lập thành văn bản hoặc
bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.
Điều 286. Quyền của thƣơng nhân nhƣợng quyền
Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thương nhân nhượng quyền có các
quyền sau đây:
1. Nhận tiền nhượng quyền;
2. Tổ chức quảng cáo cho hệ thống nhượng quyền thương mại và mạng
lưới nhượng quyền thương mại;
3. Kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất hoạt động của bên nhận quyền nhằm
bảo đảm sự thống nhất của hệ thống nhượng quyền thương mại và sự ổn định
về chất lượng hàng hoá, dịch vụ.
Điều 287. Nghĩa vụ của thƣơng nhân nhƣợng quyền
Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thương nhân nhượng quyền có các
nghĩa vụ sau đây:
1. Cung cấp tài liệu hướng dẫn về hệ thống nhượng quyền thương mại
cho bên nhận quyền;
73
2. Đào tạo ban đầu và cung cấp trợ giúp kỹ thuật thường xuyên cho
thương nhân nhận quyền để điều hành hoạt động theo đúng hệ thống nhượng
quyền thương mại;
3. Thiết kế và sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ bằng chi phí
của thương nhân nhận quyền;
4. Bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với đối tượng được ghi trong hợp
đồng nhượng quyền;
5. Đối xử bình đẳng với các thương nhân nhận quyền trong hệ thống
nhượng quyền thương mại.
Điều 288. Quyền của thƣơng nhân nhận quyền
Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thương nhân nhận quyền có các
quyền sau đây:
1. Yêu cầu thương nhân nhượng quyền cung cấp đầy đủ trợ giúp kỹ thuật
có liên quan đến hệ thống nhượng quyền thương mại;
2. Yêu cầu thương nhân nhượng quyền đối xử bình đẳng với các thương
nhân nhận quyền khác trong hệ thống nhượng quyền thương mại.
Điều 289. Nghĩa vụ của thƣơng nhân nhận quyền
Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thương nhân nhận quyền có các nghĩa
vụ sau đây:
1. Trả tiền nhượng quyền và các khoản thanh toán khác theo hợp đồng
nhượng quyền thương mại;
2. Đầu tư đủ cơ sở vật chất, nguồn tài chính và nhân lực để tiếp nhận các
quyền và bí quyết kinh doanh mà bên nhượng quyền chuyển giao;
3. Chấp nhận sự kiểm soát, giám sát và hướng dẫn của bên nhượng
quyền; tuân thủ các yêu cầu về thiết kế, sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng
dịch vụ của thương nhân nhượng quyền;
4. Giữ bí mật về bí quyết kinh doanh đã được nhượng quyền, kể cả sau
khi hợp đồng nhượng quyền thương mại kết thúc hoặc chấm dứt;
5. Ngừng sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, khẩu hiệu kinh
doanh, biểu tượng kinh doanh và các quyền sở hữu trí tuệ khác (nếu có) hoặc
hệ thống của bên nhượng quyền khi kết thúc hoặc chấm dứt hợp đồng nhượng
quyền thương mại;
6. Điều hành hoạt động phù hợp với hệ thống nhượng quyền thương mại;
7. Không được nhượng quyền lại trong trường hợp không có sự chấp
thuận của bên nhượng quyền.
74
Điều 290. Nhƣợng quyền lại cho bên thứ ba
1. Bên nhận quyền có quyền nhượng quyền lại cho bên thứ ba (gọi là bên
nhận lại quyền) nếu được sự chấp thuận của bên nhượng quyền.
2. Bên nhận lại quyền có các quyền và nghĩa vụ của bên nhận quyền quy
định tại Điều 288 và Điều 289 của Luật này.
Điều 291. Đăng ký nhƣợng quyền thƣơng mại
1. Trước khi nhượng quyền thương mại, bên dự kiến nhượng quyền phải
đăng ký với Bộ Thương mại.
2. Chính phủ quy định chi tiết điều kiện kinh doanh theo phương thức
nhượng quyền thương mại và trình tự, thủ tục đăng ký nhượng quyền thương mại.
Luật này đã đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005.
Phụ lục 2: Vụ kiện cáo giữa Phở 24 và Phở 5 sao về vấn đề đăng kí bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ đối với hệ thống chuyển nhượng
Năm 2003, khi gây dựng thương hiệu Phở 24 tại TPHCM, Công ty phở 24
đã đăng ký bảo hộ độc quyền thương hiệu này tại Cục Sở hữu trí tuệ. Thương
hiệu này cũng được đăng ký độc quyền tại nhiều nước trên thế giới như: Anh,
Mỹ, Canada và các nước tham gia thỏa ước Madrid.
Cuối năm 2006, Công ty Phở 24 cũng đăng ký và được Cục bản quyền cấp
giấy chứng nhận bản quyền tác giả đối với bản vẽ thiết kế chi tiết mô hình cửa
hàng Phở 24.
Trong hồ sơ cấp giấy chứng nhận có kèm theo hình ảnh chi tiết về cách bài
trí, thiết kế biển hiệu và nội thất trong các tiệm phở. Trong đó, có hai loại mô
hình bố trí cơ bản dành cho hai loại không gian rộng và không gian hẹp. Toàn
bộ 52 tiệm trong hệ thống Phở 24 đều chung một cách bố trí sắp xếp và thiết kế
như nhau.
Bà Vũ Đoan Thùy, phòng kinh doanh Công ty Phở 24 cho biết: Từ khi
thành lập, chúng tôi đã mời một công ty tư vấn thiết kế vừa thể hiện đặc trưng
của phở truyền thống Việt Nam, vừa tạo cho khách cảm giác dễ chịu, ăn ngon
75
miệng trong không gian đó. Đây là nét đặc trưng của Phở 24 để khách đến đây,
ngoài việc thưởng thức phở còn được ngắm nhìn anh đầu bếp luôn tay chế biến
bên nồi nước phở nghi ngút khói.
Toàn bộ bàn ghế và các trang thiết bị bên trong đều một tông màu chủ đạo
là màu đen, tường và các họa tiết trang trí khác màu xanh cốm nhạt. Không
gian kiến trúc ấy cũng thể hiện đúng như câu slogan “Sự kết hợp tinh tế”, trong
đó thể hiện rõ sự kết hợp giữa phở truyền thống Việt Nam với cách bài trí hiện
đại xen lẫn cổ kính.
Giống ... nhƣ anh em sinh đôi? Năm 2006, trên thị trường bỗng xuất hiện
Phở 5 sao, với cách bài trí nội thất và đến màu sơn tường và tông màu chủ đạo
của bàn ghế, quầy rượu, đèn trang trí đến cách ăn mặc của ông đầu đếp trong
các tiệm phở rất giống trong hệ thống Phở 24...
Ngay cả cách trang trí bảng hiệu quảng cáo bên ngoài các tiệm phở cũng
dùng tông màu chủ đạo là màu xanh cốm pha màu xanh lá rất giống với Phở
24. Trừ logo, cách thiết kế, sắp đặt, bài trí của Phở 5 sao giống Phở 24 đến khó
phân biệt. Nếu không nhìn vào logo trên bảng hiệu, khách hàng có thể nhầm
tưởng đây chính là Phở 24 hoặc nếu không cũng phán đoán đây là “hai anh em
con chú con bác”.
Tuy nhiên giá cả Phở 5 sao thì khá bình dân (16.000 đồng/tô, trong khi Phở
24 có giá 26.000 đồng). Hiện nay hệ thống Phở 5 sao đã có năm tiệm tại
TPHCM, tất cả đều có không gian kiến trúc “hao hao” giống không gian kiến
trúc của Phở 24.
“Trong hệ thống cửa hàng Phở 24, bao giờ cũng có lót dưới mỗi tô phở một
tấm giấy hình chữ nhật màu xanh cốm tạo nét riêng và cảm giác sạch sẽ, lịch sự
cũng bị “nhái”. Tuy nó không cầu kỳ, chúng tôi cũng chưa đăng ký riêng, tuy
nhiên trước đó không có phở nào thực hiện, nhưng cũng ăn cắp vụng về rồi
thêm vài họa tiết là không thể chấp nhận được”. Bà Vũ Đoan Thùy, Phòng kinh
doanh và phát triển phở 24 bức xúc.
76
Có xâm phạm bản quyền?
Ông Lý Quí Trung, Tổng giám đốc hệ thống Phở 24 khẳng định: “Chúng tôi
muốn gây dựng Phở 24 thành thương hiệu phở trong nước và quốc tế. Tuy
không sử dụng logo của chúng tôi nhưng việc sử dụng cách sắp xếp thiết kế và
bố trí giống hệt như cách thiết kế không gian kiến trúc có thể làm cho khách
hàng nhầm lẫn.
Ngoài ra, bản thiết kế không gian kiến trúc này đã được đăng ký bản quyền,
do đó việc sử dụng nó cũng là xâm phạm bản quyền. Vì vậy chúng tôi sẽ khiếu
nại lên Cục bản quyền để bảo vệ bản quyền đối với không gian kiến trúc trong
hệ thống cửa hàng của mình”.
Bà Hoàng Thị Ánh Nga, Giám đốc DN tư nhân Kim Tài (sở hữu hệ thống
Phở 5 sao khẳng định): “Chúng tôi xây dựng thương hiệu riêng và cũng đã
đăng ký độc quyền thương hiệu Phở 5 sao tại Cục Sở hữu trí tuệ. Ngoài ra màu
sắc trang trí và biển hiệu cũng đậm hơn của Phở 24, phong cách phục vụ và
trang phục của nhân viên cũng khác (màu đỏ).
Việc bài trí nhà hàng thì có thể học hỏi từ nhiều nƣớc khác nhau hoặc
từ trong nƣớc. Cụ thể: Chúng tôi đã học hỏi từ không gian của phố cổ Hà
Nội. Điều này pháp luật cũng không cấm. Đây cũng thiết kế phong cách cổ
điển xen hiện đại tạo không khí ấm cúng, thân mật theo tiêu chí phở phong
cách Việt Nam của phở truyền thống có nguồn gốc từ Hà Nội và Nam Định.
Không gian kiến trúc có đƣợc bảo hộ?
Việc sắp đặt và thiết kế không gian kiến trúc thể hiện sự đầu tư về ý tưởng
sáng tạo của tác giả. Tuy nhiên, luật sở hữu trí tuệ chưa quy định cụ thể về bảo
hộ ý tưởng sáng tạo trong trường hợp này.
Việc sử dụng không gian kiến trúc giống nhau có thể bị coi là xâm phạm
bản quyền và cạnh tranh không lành mạnh hay không? Liệu không gian kiến
trúc có được coi là một đặc điểm độc quyền gắn liền với thương hiệu hay
77
không, hay bất kỳ ai cũng có thể sử dụng không gian kiến trúc do người khác
thiết kế?
Đây là vụ tranh chấp bản quyền khá thú vị và đặt ra vấn đề pháp lý
khá mới mẻ trong việc khai thác thƣơng hiệu trong thời kỳ hội nhập.
Phụ lục 3: Pháp luật cạnh tranh trong nhượng quyền thương mại của Mỹ và EU
1. Pháp luật cạnh tranh trong nhƣợng quyền thƣơng mại ở Mỹ
Một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật cạnh tranh của Mỹ: nếu
một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thỏa mãn hai điều kiện: (i) có các ảnh hưởng
nghiêm trọng đến cạnh tranh, và (ii) không có các tác dụng thúc đẩy cạnh tranh
để bù lại, tức không có sự biện minh hợp lý về tính hiệu quả của hành vi, thì
thỏa thuận đó mặc nhiên vi phạm pháp luật cạnh tranh mà không cần phải tiến
hành các phân tích toàn diện theo nguyên tắc lập luận hợp lý.
Trong án lệ Sylvania, tòa án tối cao Mỹ đã xem xét một quy định trong hợp
đồng nhượng quyền thương mại cấm bên nhận quyền bán sản phẩm của bên
nhượng quyền ngoài khu vực đã thống nhất trước có phải là một hạn chế
thương mại bất hợp lý vi phạm pháp luật cạnh tranh (Điều 1 Đạo luật Sherman)
hay không. Tòa án này cho rằng, những hạn chế cạnh tranh như vậy làm giảm
cạnh tranh đối với một thương hiệu nhất định của một loại sản phẩm (trong án
lệ này là cạnh tranh giữa các bên nhận quyền từ Sylvania – bên nhượng quyền),
nhưng trên thực tế có thể thúc đẩy cạnh tranh giữa các thương hiệu khác nhau
của cùng một loại sản phẩm (trong án lệ này là cạnh tranh giữa các bên nhượng
quyền với nhau, tức giữa Sylvania và các đối thủ của nó).
Cơ chế thị trường luôn tồn tại những khiếm khuyết như ảnh hưởng “ngư
ông đắc lợi”, tức một hay một số doanh nghiệp (như bên nhận quyền) phải mất
nhiều chi phí đầu tư ban đầu để cải tiến, sáng tạo, quảng cáo, thiết lập thị
trường, xây dựng thương hiệu…; trong khi một số doanh nghiệp (như bên
nhượng quyền, và/hoặc các đối thủ cạnh tranh của bên nhượng quyền) chỉ “ăn
78
theo”, không tốn các chi phí đầu tư ban đầu, có thể hưởng lợi từ sự đầu tư của
doanh nghiệp khác (bên nhượng quyền). Điều này khiến cho các doanh nghiệp
đầu tư ban đầu (bên nhượng quyền) phải chia xẻ lợi nhuận và dẫn đến không có
động lực để tiến hành đầu tư tiên phong ban đầu. Vì vậy, trong hoạt động
nhượng quyền thương mại, bên nhượng quyền chỉ có thể an tâm nhượng quyền
khi các bên nhận quyền chấp nhận những hạn chế nhất định (như hạn chế nhất
định về lãnh thổ, về khách hàng, không bán các sản phẩm cùng loại của các đối
thủ cạnh tranh của bên nhượng quyền…), và ngược lại bên nhận quyền chỉ có
thể thực sự quyết tâm đầu tư, mua quyền thương mại khi có được sự bảo đảm
về việc độc quyền phân phối, bán sản phẩm trong một địa bàn địa lý nhất định
từ phía bên nhượng quyền. Với những hạn chế về cạnh tranh như vậy, bên nhận
quyền mới có thể tạo chỗ đứng cho mình trên thị trường, hay bên nhượng
quyền mới có thể duy trì và phát triển hoạt động nhượng quyền thương mại của
mình, qua đó góp phần thúc đẩy cạnh tranh giữa các bên nhượng quyền của
một loại sản phẩm. Điều này khiến giá trị khuyến khích cạnh tranh về tổng thể
lớn hơn ảnh hưởng hạn chế cạnh tranh giữa các bên nhận quyền của một
thương hiệu nhất định.
Như vậy, tòa án tối cao Mỹ, qua án lệ Sylvania, đã khẳng định các hạn chế
cạnh tranh trong trong hợp đồng nhượng quyền thương mại không liên quan
đến giá sản phẩm phải được xem xét trên cơ sở nguyên tắc lập luận hợp lý.
Chính vì vậy, các hạn chế cạnh tranh như giới hạn về khu vực địa lý, nghĩa vụ
không cạnh tranh hay quyền độc quyền kinh doanh trong phạm vi địa lý nhất
định của bên nhận quyền… được xem là không vi phạm pháp luật cạnh tranh.
Tuy nhiên, nhiều vụ kiện tụng cạnh tranh gần đây liên quan đến nhượng quyền
thương mại thường liên quan đến các ràng buộc (áp đặt) của bên nhượng quyền
đối với bên nhận quyền trong việc mua nguyên vật liệu đầu vào, hay các vật
dụng khác cho hoạt động kinh doanh của bên nhận quyền. Vậy đâu là giới hạn
79
cho những ràng buộc bán kèm như vậy trong mối tương quan giữa hợp đồng
nhượng quyền thương mại và pháp luật cạnh tranh?
Nhìn chung, một ràng buộc bán kèm xuất hiện khi bên bán sẽ bán một sản
phẩm chính với điều kiện bên mua đồng ý mua một sản phẩm khác hoặc ít nhất
đồng ý không mua sản phẩm được bán kèm từ một doanh nghiệp khác. Thỏa
thuận ràng buộc bán kèm vi phạm pháp luật cạnh tranh (Điều 1 Đạo luật
Sherman) nếu người bán có năng lực thị trƣờng mạnh trên thị trường sản phẩm
chính, và nếu thỏa thuận ràng buộc như vậy ảnh hưởng lớn đến hoạt động
thương mại trên thị trường sản phẩm đƣợc bán kèm. Do đó, để chứng minh một
thỏa thuận bán kèm vi phạm pháp luật cạnh tranh, nguyên đơn thông thường
phải chứng minh thỏa thuận bán kèm đó thỏa mãn 5 điều kiện: (i) sản phẩm
chính và sản phẩm được bán kèm là hai sản phẩm riêng biệt; (ii) bên bán đã
thực sự ép buộc bên mua đồng ý mua sản phẩm được bán kèm; (iii) bên bán có
năng lực thị trường đủ mạnh trên thị trường sản phẩm chính để ép buộc bên
mua phải đồng ý mua sản phẩm được bán kèm, và không có sự biện minh hợp
lý cho ràng buộc bán kèm đó; (iv) có các ảnh hưởng hạn chế cạnh tranh trên thị
trường sản phẩm được bán kèm; và (v) thỏa thuận đó có liên quan đáng kể đến
thương mại trên thị trường sản phẩm bán kèm.
Cũng chính bởi 5 điều kiện trên mà có những vụ việc tưởng như giống nhau
nhưng phán quyết của Tòa án lại hoàn toàn khác nhau:
Trong án lệ Siegel v Chicken Delight, Inc., Chicken Delight đã tiến hành
hoạt động nhượng quyền thương mại thiết lập các cửa hàng bán thức ăn mang
thương hiệu Chicken Delight cho các bên nhượng quyền, và không thu phí
nhượng quyền cũng như phí bản quyền. Tuy nhiên Chicken Delights yêu cầu
các bên nhận quyền phải mua các dụng cụ nấu ăn, bao bì đóng gói thức ăn và
một số vật liệu khác của Chicken Delight với giá cao hơn giá các sản phẩm
cùng loại mà các nhà cung cấp khác bán ra. Tòa án phúc thẩm liên bang cho
80
rằng điều khoản ràng buộc bán kèm trong hợp đồng nhượng quyền thương mại
của Chicken Delight là vi phạm pháp luật cạnh tranh.
Tuy nhiên, trong án lệ Kentucky Fried Chicken v Diversified Packing sau
đó, khi KFC (bên nhượng quyền) yêu cầu bên nhận quyền mua các thiết bị và
nguyên liệu từ KFC hay từ các nhà cung cấp khác được KFC chấp thuận bằng
văn bản nếu thỏa mãn những yêu cầu về chất lượng mà KFC công bố, và việc
chấp thuận như vậy không thể bị hủy bỏ một cách bất hợp lý, thì ràng buộc như
vậy lại được Tòa án phúc thẩm liên bang cho là không vi phạm pháp luật cạnh
tranh.
Trong án lệ Queen City Pizza, Inc v Domino’s Pizza, Inc, hợp đồng nhượng
quyền thương mại mẫu của DPI (bên nhượng quyền) quy định tất cả nguyên
liệu, đồ dùng và bao bì sử dụng tại các cửa hàng nhượng quyền thương mại
phải phù hợp với tiêu chuẩn của DPI, và tùy vào sự quyết định của DPI, bên
nhận quyền phải mua chúng từ DPI hay bên cung cấp được sự đồng ý của DPI.
Tòa án phúc thẩm liên bang dựa trên khái niệm thị trường sản phẩm liên quan –
thị trường các sản phẩm có thể thay thế được cho nhau một cách hợp lý dưới
góc độ của người tiêu dùng với cùng một mục đích sử dụng- đã cho rằng, thị
trường sản phẩm liên quan trong án lệ này không chỉ giới hạn đối với các sản
phẩm là các nguyên vật liệu, đồ dùng được sự đồng ý của DPI và được sử dụng
bởi các bên nhận quyền của DPI mà phải là thị trường các nguyên liệu, đồ dùng
được cung cấp từ các nguồn khác nhau và được sử dụng ở tất cả các cửa hàng
làm và bán pizza nói chung.
Tòa án cũng cho rằng những ràng buộc trong hợp đồng nhượng quyền
thương mại không thể giải quyết theo pháp luật cạnh tranh, mà chỉ có thể giải
quyết theo quy định của hợp đồng nhượng quyền thương mại và pháp luật về
hợp đồng. Điều này có nghĩa là Tòa án đã thừa nhận sức mạnh kinh tế phát sinh
từ thỏa thuận trong hợp đồng, như hợp đồng nhượng quyền thương mại, không
81
có liên quan gì đến sức mạnh thị trường, đến lợi ích của người tiêu dùng, hay
pháp luật cạnh tranh.
Tuy nhiên trong án lệ Subsolutions, Inc v Doctor’s Associates, Inc., tòa án
cho rằng lập luận về sự trói buộc của bên nhận quyền vào bên nhượng quyền có
thể được chấp nhận nếu nguyên đơn chứng minh được rằng bên nhận quyền,
với tư cách là một người hợp lý bình thường, không thể suy đoán một cách hợp
lý việc “khai thác” sau này của bên nhượng quyền sau khi bên nhận quyền đó
đã mua quyền thương mại, và họ không thể tự bảo vệ họ bằng việc có những
thỏa thuận đảm bảo từ bên nhượng quyền hay đối thủ của bên nhượng quyền.
Trong vụ việc này, quy định mới mà DAI (bên nhượng quyền) đưa ra buộc các
bên nhận quyền trang bị hệ thống chấp nhận thanh toán bằng thẻ, và phải mua
hệ thống này từ một doanh nghiệp duy nhất không phải là quy định có từ lúc
các bên nhận quyền giao kết hợp đồng nhượng quyền thương mại với DAI, tức
bên nhận quyền không thể lường trước được việc DAI bắt buộc bên nhận quyền
phải tuân thủ thêm hạn chế cạnh tranh như vậy. Do vậy, tòa án kết luận hành vi
đó của DAI thỏa mãn các điều kiện của một hành vi ràng buộc bán kèm, vi
phạm pháp luật cạnh tranh.
Như vậy, việc kết luận các ràng buộc bán kèm trong hợp đồng nhượng
quyền thương mại có vi phạm pháp luật cạnh tranh hay không phụ thuộc rất
nhiều vào thời điểm xác định thị trường liên quan, đó là trước khi giao kết hợp
đồng nhượng quyền thương mại hay sau khi giao kết hợp đồng nhượng quyền
thương mại, nhằm khẳng định sức mạnh thị trường của bên nhượng đối với bên
nhận quyền, cũng như việc khẳng định bên nhượng quyền có lạm dụng sức
mạnh thị trường trên thị trường liên quan hay không để ép bên nhận quyền phải
mua nguyên vật liệu, dụng cụ từ các bên cung cấp được chỉ định trong khi bên
nhận quyền có thể mua chúng trên thị trường với giá thấp hơn (hay với chất
lượng cao hơn). Dù sao đi chăng nữa thì việc bên nhượng quyền được sở hữu
thương hiệu nhượng quyền thương mại không mặc nhiên khiến cho nó có sức
82
mạnh thị trường (vị trí thống lĩnh thị trường), và bên nhận quyền sẽ được bảo
vệ nếu các thông tin hạn chế cạnh tranh không được bên nhượng quyền thông
báo đầy đủ khi hai bên giao kết hợp đồng nhượng quyền thương mại theo quy
định về cung cấp thông tin trong hoạt động nhượng quyền thương mại.
2. Pháp luật cạnh tranh trong nhƣợng quyền thƣơng mại ở EU
Cho đến nay, án lệ Pronuptia là vụ việc liên quan đến nhượng quyền
thương mại đầu tiên và duy nhất mà Tòa án Tư pháp Châu Âu (ECJ) xem xét
dưới góc độ pháp luật cạnh tranh. Trong vụ việc này, bên nhận quyền và bên
nhượng quyền (Pronuptia de Paris) đã giao kết 3 hợp đồng nhượng quyền
thương mại, theo đó bên nhận quyền được mở 3 cửa hàng bán áo cưới, áo dạ
hội và các sản phẩm liên quan mang thương hiệu Pronuptia de Paris tại 3 thành
phố của nước Đức. Theo quy định của hợp đồng, bên nhận quyền có quyền độc
quyền trong 3 thành phố này, tức bên nhượng quyền không được tự mình hay
cho phép bên thứ ba mở cửa hàng mang thương hiệu Pronuptia de Paris, hay
bán sản phẩm của Pronuptia cho bên thứ ba trong phạm vi 3 thành phố trên.
Đổi lại, bên nhận quyền chỉ có quyền bán sản phẩm áo cưới, áo dạ hội và sử
dụng thương hiệu Pronuptia de Paris tại 3 cửa hàng đã được xác định; phải mua
khoảng 80% áo cưới và sản phẩm liên quan từ bên nhượng quyền, và chỉ được
mua số còn lại từ các nhà cung cung đã được bên nhượng quyền chấp nhận
trước; phải xem xét các khuyến nghị về giá mà bên nhượng quyền đề xuất tuy
điều đó không ảnh hưởng đến quyền tự ấn định giá của bên nhận quyền; không
được phép có các hoạt động cạnh tranh với bất kỳ cửa hàng mang thương hiệu
Pronuptia de Paris khác; phải chấp nhận một số giới hạn về quảng cáo.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng nhượng quyền thương mại, bên nhận
quyền không trả phí duy trì (tiền bản quyền) nên bị bên nhượng quyền khởi
kiện. Nhưng bên nhận quyền đã đưa ra lập luận cho rằng các quy định nêu trên
là hạn chế cạnh tranh, vi phạm Điều 81 (1) Hiệp định thành lập Cộng đồng
Châu Âu (TEC). Do đó, các hợp đồng nhượng quyền thương mại này bị vô
83
hiệu theo quy định của Điều 81 (2) TEC, và bên nhận quyền không phải trả phí
duy trì chưa thanh toán.
Tòa án tư pháp châu Âu ECJ dựa trên bản chất của nhượng quyền thương
mại cho rằng bên nhượng quyền khi cho phép bên nhận quyền sử dụng thương
hiệu, bí quyết kinh doanh và những trợ giúp cần thiết khác để mở cửa hàng
nhượng quyền thương mại luôn cần phải đề phòng rủi ro, tránh trường hợp các
bí quyết kinh doanh và sự trợ giúp đó lại làm lợi cho đối thủ cạnh tranh (dù chỉ
là gián tiếp). Do đó, nghĩa vụ không cạnh tranh của bên nhận quyền với bên
nhượng quyền là cần thiết, không vi phạm Điều 81 (1) TEC, tức ECJ chấp nhận
các hạn chế cạnh tranh như: (i) cấm bên nhận quyền mở cửa hàng giống hay
tương tự ở trong khu vực mà bên nhận quyền đó có thể cạnh tranh với một
thành viên khác trong hệ thống các cửa hàng nhượng quyền thương mại trong
suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng nhượng quyền thương mại và trong
một khoảng thời gian hợp lý sau khi hợp đồng đó kết thúc; (ii) cấm bên nhận
quyền chuyển giao cửa hàng nhượng quyền thương mại của mình cho một bên
thứ ba khác mà không có sự đồng ý trước của bên nhận quyền.
Bên cạnh đó, bên nhượng quyền cần phải áp dụng các biện pháp để bảo vệ
uy tín và bản sắc của các cửa hàng mang thương hiệu của mình, cũng như để
xây dựng và đảm bảo tính thống nhất hình ảnh của toàn hệ thống nhượng quyền
thương mại. Vì vậy các biện pháp cần thiết để đạt các mục đích nêu trên không
phải là các hạn chế cạnh tranh theo quy định của Điều 81 (1) TEC. Cụ thể, ECJ
chấp nhận các điều khoản trong hợp đồng nhượng quyền thương mại quy định
bên nhận quyền phải có nghĩa vụ:
- Áp dụng phương thức kinh doanh đã được phát triển bởi bên nhượng
quyền và sử dụng các bí quyết kinh doanh mà bên nhượng quyền cung cấp;
- Bán sản phẩm theo quy định của hợp đồng tại địa điểm đã được xác định;
trang trí cửa hàng theo hướng dẫn của bên nhận quyền;
84
- Không được chuyển cửa hàng sang địa điểm mới, không được chuyển giao
quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng cho bên thứ ba mà không có sự đồng ý trước
của bên nhượng quyền;
- Chỉ được bán sản phẩm cung cấp bởi bên nhượng quyền hay cung cấp bởi
bên thứ ba được bên nhượng quyền đồng ý trước (tuy nhiên quy định như vậy
không được phép ngăn cản bên nhận quyền mua sản phẩm bán bởi bên nhận
quyền khác để bán lại).
- Phải được bên nhượng quyền chấp thuận đối với các hoạt động quảng cáo
(nội dung quảng cáo).
Tuy nhiên Tòa án ECJ cũng nhấn mạnh rằng, các hành vi vượt quá mức cần
thiết để bảo vệ bí quyết kinh doanh của bên nhượng quyền và duy trì uy tín,
bản sắc của hệ thống nhượng quyền thương mại có thể gây hạn chế cạnh tranh,
vi phạm Điều 81 (1) TEC, nhất là các điều khoản liên quan đến phân chia thị
trường, ấn định giá, hạn chế số lượng bán của bên nhận quyền. Nhưng để đi
đến kết luận đó thì cần phải xem xét tổng thể bối cảnh kinh tế của hạn chế cạnh
tranh đó. Nếu những điều khoản đó vi phạm Điều 81 (1) TEC, nhưng thỏa mãn
4 điều kiện quy định tại Điều 81 (3), thì chúng vẫn được miễn trừ.
Danh mục tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
1. Nguyễn Khánh Trung, Franchise- Chọn hay không?, 2008- Nhà XB đại
học Quốc gia, TP Hồ Chí Minh
2. Trường đại học Ngoại Thương, Giáo trình marketing quốc tế, 2008- Nhà
xuất bản lao động xã hội
3. TS. Lý Quý Trung, Mua franchise- Cơ hội mới cho các doanh nghiệp
Việt Nam, 2008- Nhà xuất bản Trẻ
85
4. TS. Lý Quý Trung, Sách “ Franchise- Bí quyết thành công bằng mô hình
nhượng quyền kinh doanh”, 2007- Nhà xuất bản Trẻ
5. Các luật, nghị định, quyết định của Chính phủ, Bộ ban ngành có liên
quan: Luật thương mại 2005, Luật sở hữu trí tuệ 2005, Pháp luật cạnh
tranh 2004, Luật chuyển giao công nghệ 2006, Nghị định 116/2005-
NĐ/CP, Nghị định 133/2008- NĐ/CP, Quyết định 106/2008-QĐ/BTC …
6. Bộ Công thương, www.tttm.moit.gov.vn
7. Cục Sở hữu trí tuệ, www.noip.gov.vn
8. Công ty cổ phần Trung Nguyên, www.trungnguyen.com.vn
9. Công ty CP-TM-SX Phở 24, www.pho24.com.vn
10. Các werbsite về Nhượng quyền thương hiệu, Thương hiệu, Marketing,
Pháp luật: www.vietfranchise.com, www.lantabrand.com,
www.vietnambranding.com, www.marketingvietnam.net,
www.nghiencuumarketing.com, www.saga.com, …
11. Các hiệp định quốc tế: Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương
mại của quyền sở hữu trí tuệ TRIPS, Hiệp định hàng rào kĩ thuật trong
thương mại TBT, Công ước Paris 1883, Thỏa ước Madris 1891, …
Tiếng Anh
1. Richard J. Judd/ Robert T. Justis (2008), Franchising- An
Entrepreneur’s guide (4th edition)
2. An introduction to franchising
3. Introduction to franchising student guide
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp phát triển kinh doanh bằng hình thức nhượng quyền mô hình hoạt động tại các doanh nghiệp nhượng quyền việt nam.pdf