Đề tài Khủng hoảng tài chính toàn cầu và ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam

Các doanh nghiệp cần có chương trình đổi mới công nghệ, giảm thiểu chi phí , n âng cao chất lượng hàng hóa. Giải quy ết được đầu ra là vấn đề sống còn của doanh nghiệp, vì vậy để xây dựng được một chiến lược cạnh tranh hợp lý trong xu thế hội nhập, các DNVVN phải tập trung vào ba nội dung chủ yếu sau: Chiến lược thứ nhất đó là chiến lược tối thiểu hóa chi phí. Với chiến lược này, các DNVVN Việt Nam phải có khả năng cung cấp hàng hóa và dịch vụ với chi phí thấp hơn chi phí của đối thủ. Chiến lược này cần tạo ra hai ưu thế cơ bản:

pdf99 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2785 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khủng hoảng tài chính toàn cầu và ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh nghiệp này. 3.2.2. Sự gia tăng của chi phí lao động Một vấn đề cũng trực tiếp tác động tới các DNVVN là chi phí lao động tăng rất mạnh. Trong tình hình lạm phát năm 2008, một số doanh nghiệp (chủ yếu là các công ty kinh doanh trong các lĩnh vực thương mại và dịch vụ hay các công ty có ít nhân viên) đã tăng lương và tăng thêm phụ cấp cho nhân 68 viên nhằm đối phó với tình hình giá cả tăng cao và xem đây là một giải pháp đối với công tác nhân sự trong bối cảnh lạm phát. Trong khi đó, các công ty trong lĩnh vực sản xuất, do số nhân viên đông nên chọn giải pháp tăng lương cho người trực tiếp sản xuất, là những người vốn dĩ lương thấp và chịu ảnh hưởng mạnh nhất từ lạm phát. Tuy nhiên, tỷ lệ công ty chấp nhận tăng lương bổ sung cho công nhân trực tiếp là rất thấp. Và dù có tăng lương đến đâu thì doanh nghiệp vẫn phải đối mặt với sự thay đổi của đời sống nhân viên và tâm lý bất ổn của họ trước thời cuộc ảnh hưởng đến năng suất lao động. Do ảnh hưởng chính sách nhân sự như doanh nghiệp phải cắt giảm số lao động, cắt giảm tiền lương và các khoản đãi ngộ khác mà ảnh hưởng lớn tới tâm lý những nhân viên còn lại ở công ty. Mặt khác, với những nhân viên giỏi, doanh nghiệp lại không giữ chân họ được đi tìm nơi có ổn định tốt hơn. 3.3. Những khó khăn về thị trƣờng Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế, đến sản xuất cũng như tiêu dùng của nước ta. Như chương II đã đề cập, hoạt động thương mại và dịch vụ năm 2008 kém sôi động rất nhiều so với năm 2007 do giá cả hàng hoá và dịch vụ tăng cao, dẫn đến sức mua trong dân giảm đáng kể, sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ chậm. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế năm 2008 so với năm 2007 nếu loại trừ yếu tố tăng giá, thì mức tăng chỉ đạt 6,5%. Ngoài những ảnh hưởng mang tính chất khách quan từ phía thị trường (người tiêu dùng sản phẩm và sử dụng dịch vụ) thì những vấn đề chủ quan trong nội tại các DNVVN cũng là nguyên nhân khiến họ càng khó khăn hơn trong việc tìm thị trường đầu ra cho hàng hóa và dịch vụ của mình. Với khả năng tài chính eo hẹp, mặt khác hầu hết các doanh nghiệp trong thời điểm khó khăn này lại không kiểm soát được chi phí sản xuất của mình do phụ thuộc quá nhiều vào sự biến động của chi phí đầu vào tâng nhanh, họ không thể tăng giá 69 sản phẩm đầu ra và lại càng không thể mãi bù lỗ để giữ giá được. Một trong những hệ quả tất yếu của những khó khăn chồng chất này đó là rất nhiều doanh nghiệp đã phải ngừng hẳn hoặc cắt giảm một phần sản xuất, việc cắt giảm nhân công đã khiến một số lượng lớn người lao động thất nghiệp. Theo những báo cáo mới nhất của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, trong năm 2008 đã có hơn 50.000 lao động bị mất việc làm tại 10 tỉnh, thành phố. Và dự đoán sang năm 2009 con số thất nghiệp có thể lên tới 200.000 lao động trong cả nước. Đây thực sự là một khó khăn về mặt kinh tế cũng như xã hội đối với nước ta mà không dễ dàng gì để có thể khắc phục trong một thời gian ngắn trước mắt. Nói tóm lại, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và những hệ quả của nó đang gây ra những ảnh hưởng không nhỏ đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và các DNVVN nói riêng. Những khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn cũng như khó khăn từ sự gia tăng của các chi phí đầu vào đã khiến hàng loạt doanh nghiệp đau đầu về việc duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như tìm đầu ra cho sản phẩm. Sẽ có không ít doanh nghiệp không đủ sức chèo chống trong bão lạm phát sẽ chịu hậu quả nặng nề và có thể phải ngừng hoạt động. Để vượt qua khó khăn hiện tại và hướng đến phát triển trong tương lai các DNVVN sẽ rất cần đến những sự hỗ trợ thiết thực từ phía Nhà nước cũng như những giải pháp toàn diện của chính bản thân doanh nghiệp mà khóa luận sẽ nghiên cứu cụ thể trong chương sau. 70 CHƢƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VIỆT NAM VÀ TẠO TIỀN ĐỀ PHÁT TRIỂN TRONG TƢƠNG LAI 1. Quan điểm, mục tiêu và định hƣớng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.1. Quan điểm Để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong những năm tiếp theo, một trong những nhiệm vụ có tính chiến lược là phát triển DNVVN. Điều này được giải thích vì một số lý do sau đây: Xét về bối cảnh quốc tế, nước ta đang trong quá trình hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc hội nhập sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp cận với bên ngài để có thị trường, có thông tin, khoa học kỹ thuật tiên tiến, phát triển công nghệ. Hội nhập với bên ngoài cũng là một cách thức để thu hút vốn nước ngoài, cải thiện tình trạng thiếu vốn trầm trọng của các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay, đặc biệt của các DNVVN. Ở các nước trong khu vực, loại hình DNVVN đang rất phát triển. Các nước này đã có những chính sách hết sức thích hợp hỗ trợ cho loại hình doanh nghiệp này phát triển. Do vậy thông qua việc hội nhập, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội được tiếp cận, học hỏi kinh nghiệm phát triển DNVVN của các nước lân cận. Xét về bối cảnh trong nước, nền kinh tế Việt Nam đang ở trong giai đoạn chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong giai đoạn này, các nhà kinh tế, các nhà đầu tư 71 chưa có một sự chuyển biến về chất để có thể bắt kịp với các yêu cầu của nền kinh tế thị trường: đại bộ phận các nhà quản lý còn thiếu kinh nghiệm, còn trì trệ, tâm lý của người sản xuất nhỏ vẫn còn chưa chú trọng đến đầu tư dài hạn. Do đó, việc phát triển và mở rộng quy mô cho các DNVVN là phù hợp với tâm lý cũng như điều kiện thực tế tại nước ta. Đồng thời việc hỗ trợ các DNVVN phát triển cũng phù hợp với tiến trình hội nhập của nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nước ta có tiềm năng lớn về lao động. Phát triển DNVVN sẽ giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động, tăng thêm thu nhập cho họ, tạo điều kiện để tích lũy cho các giai đoạn phát triển sau. Bên cạnh đó, việc hỗ trợ phát triển DNVVN cũng tạo cơ hội cho các nhà đầu tư bỏ vốn để đầu tư cũng như huy động mọi nguồn lực khác vào kinh doanh vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Trong chiến lược kinh tế của Đảng và Nhà nước ta cũng đã khẳng định: vốn trong nước là quyết định, song vốn nước ngoài là quan trọng. Trong những năm gần đây và trong những năm tới nhu cầu đầu tư trên thế giới ngày càng nhiều mà nguồn vốn đáp ứng ngày một thiếu. Bên cạnh đó, nhiều nước trên thế giới tìm mọi cách đưa ra các chính sách hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Ngoài ra, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ toàn cầu sẽ làm tình trạng thiếu vốn càng trở nên trầm trọng. Do vậy, để thực hiện mục tiêu kinh tế đã đề ra phải tập trung huy động mọi nguồn vốn trong nước và một loạt các giải pháp mang tính chất hỗ trợ khác. Một trong những giải pháp mang tính chiến lược là phải phát triển các DNVVN thông qua tự do hóa việc thành lập doanh nghiệp của mọi công dân và mọi thành phần kinh tế. Chiến lược CNH - HĐH đang được thực hiện rộng khắp trên phạm vi cả nước tạo tiền đề cơ bản cho chính sách huy động vốn từ mọi thành phần kinh tế của xã hội. Song song với nguồn lực do Nhà nước nắm giữ thì nguồn 72 lực từ thị trường thì nguồn lực trong dân là vô cùng lớn và cần huy động cho sự phát triển của đất nước. 1.2. Mục tiêu phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ Phát triển các DNVVN sẽ nhằm đạt các mục tiêu sau đây: Thứ nhất, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, tạo thế cạnh tranh của hàng hóa nước mình trên thị trường quốc tế. Thứ hai, tiếp tục chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với định hướng rõ ràng. Thứ ba, thu hút mọi tiềm năng về vốn cho nền kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho một số lớn lao động và đáp ứng vào việc thực thi chiến lược CNH - HĐH, giảm tới mức tối đa chênh lệch trong phát triển kinh tế giữa các vùng trong cả nước. Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện môi trường thuận lợi cho các DNVVN phát triển phù hợp với tiến trình hội nhập với thị trường khu vực và thế giới. Thứ năm, đề cao tính linh hoạt và năng động của toàn bộ nền kinh tế, tạo ra mối liên kết, hỗ trợ cho các công ty lớn, tăng cường khả năng thích ứng với sự thay đổi của các thị trường trong và ngoài nước. 1.3. Định hƣớng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.3.1.Ưu tiên phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong hoạt động hoạt động sản xuất công nghiệp, đặc biệt ở một số lĩnh vực có lựa chọn Trong bối cảnh Nhà nước còn nhiều khó khăn, chưa thể tập trung giải quyết, tháo gỡ mọi vướng mắc của DNVVN được, vì vậy việc hỗ trợ cần được lựa chọn cho các khu vực ưu tiên, đặc biệt là ưu tiên phát triển trên cơ sở thị trường trong một số ngành lựa chọn. Cụ thể là các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, hàng hóa thay thế nhập khẩu và hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh; các ngành tạo đầu vào cho các doanh nghiệp lớn, đồng thời lại phục vụ đầu ra cho các sản phẩm của 73 doanh nghiệp lớn (mạng lưới phân phối hoặc gia công bán thành phẩm); các ngành sản xuất các sản phẩm thuộc các làng nghề truyền thống. Nghiên cứu thực trạng của các DNVVN trong gần một thập kỷ qua cho thấy, các DNVVN chiếm phần lớn trong công nghiệp, đóng góp phần quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, cũng như trong xuất khẩu, do vậy một định hướng quan trọng thời gian tới là tiếp tục ưu tiên phát triển các DNVVN ở lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trên đà đó triển khai sang hoạt động dịch vụ. 1.3.2. Ưu tiên phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn, coi doanh nghiệp vừa và nhỏ là lực lượng nòng cốt của chiến lược công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp Định hướng phát triển DNVVN ở nông thôn có mối quan hệ chặt chẽ với sự nghiệp CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn, phát triển công nghiệp nông thôn có ý nghĩa quan trọng không những trong phát triển kinh tế đơn thuần mà còn phát triển chính trị xã hội. Kinh nghiệm của nhiều nước đông dân ở Châu Á cho thấy chiến lược phát triển tại chỗ đi từ nông thôn và nông nghiệp là sự lựa chọn khôn ngoan bởi vì nó sẽ giải quyết được mấy vấn đề sau: Thứ nhất, việc đó sẽ giúp sử dụng được nguồn lao động dư thừa - một trong hai yếu tố quan trọng cho tăng trưởng (vốn bằng tiền và lao động). Thứ hai, thu nhập của người dân ở nông thôn sẽ tăng thêm làm cho sức mua chung của xã hội tăng lên, từ đó rút ngắn khoảng chênh lệch về trình độ phát triển giữa nông thôn và thành thị. Thứ ba, giảm nhu cầu di dân từ nông thôn về thành thị, góp phần làm ổn định xã hội. Thứ tư, thúc đẩy thị trường lưu thông, phân phối ở nông thôn phát triển. Và cuối cùng, tại các địa phương, nông thôn có sẵn nguồn nguyên vật liệu phong phú phục vụ cho việc phát triển ngành công nghiệp tiêu dùng như chế biến lương thực, thực phẩm. 74 1.3.3. Doanh nghiệp vừa và nhỏ phải được khuyến khích, ưu tiên phát triển trong một số ngành nhất định mà doanh nghiệp lớn không thể có lợi thế tham gia Về nguyên tắc thông thường, sản xuất lớn, sản xuất với quy mô hàng loạt bao giờ cũng cho ta hiệu quả cao hơn. Đó là xét đơn thuần về mặt hạch toán kế toán, còn xét về hiệu quả kinh tế xã hội của toàn bộ nền kinh tế thì chưa hoàn toàn đúng. Thị trường cho người tiêu dùng hết sức đa dạng và phong phú và có khi lại rất khó tính. Có những sản phẩm phải đáp ứng nhu cầu cho một số lượng người vô cùng lớn, song cũng có những sản phẩm chỉ đáp ứng cho một số người, một số hộ gia đình nào đó. Về phương diện linh hoạt để có thể đáp ứng với thị trường mọi thành phần - người tiêu thụ thì đó chính là DNVVN. Tuy nhiên trên thực tế các DNVVN đang bị o ép, đang bị các DNNN lấn sân, độc quyền trong một số lĩnh vực. Nếu không có sự can thiệp của Nhà nước thì các doanh nghiệp lớn thường độc quyền chiếm lĩnh mọi thị trường. Vì vậy, đã đến lúc phải có định hướng rõ ràng về ngành sản xuất nào, sản phẩm nào, thị trường nào và tỷ lệ bao nhiêu dành cho DNVVN. 1.3.4. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong mối liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn Cụ thể DNVVN vừa phải tạo đầu vào vừa góp phần tiêu thụ đầu ra cho doanh nghiệp lớn. Còn về phía mình các doanh nghiệp lớn phải đào tạo tay nghề, trao đổi thông tin, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý, đồng thời trong các hợp đồng lớn nên phân vai, giao thầu một số phần việc cho các DNVVN. 1.3.5. Định hướng về các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ Việc đưa ra các chính sách hỗ trợ DNVVN là một yêu cầu cấp thiết đối với Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Một số chính sách lớn cần 75 được khẩn trương đi vào đời sống của các DNVVN như: chính sách khuyến khích đầu tư và hỗ trợ tín dụng từ phía Nhà nước; thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư và bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN. Hỗ trợ cho việc tăng khả năng cạnh tranh của DNVVN trên thị trường; thực hiện đơn đặt hàng của Nhà nước: hỗ trợ khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích về thầu phụ, hỗ trợ về mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, về thông tin, tư vấn và đào tạo nguồn nhân lực. Có thể nói, chưa lúc nào các DNVVN lại cần đến sự hỗ trợ từ phía Nhà nước nhiều như hiện nay. Nhiều chuyên đề và nhiều cuộc hội thảo được tổ chức, thực hiện với mong muốn tìm ra lối thoát cho các DNVVN, mà thực ra họ thật không “nhỏ” và không “vừa” nếu xét về góc độ đóng góp cho nền kinh tế. Nhưng cho đến nay, mọi vấn đề, mọi thiện chí hay sự ủng hộ nhiệt tình từ phía cấp Bộ, Ngành chưa được triển khai đồng bộ, triệt để, có chính sách mới chỉ dừng lại trong phạm vi hội nghị và trên các dự thảo mà thôi. Vậy thực trạng của các chính sách hỗ trợ các DNVVN có những vướng mắc gì cần tháo gỡ? Có hai vướng mắc chính là: Thứ nhất, mặc dù chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần đã được cụ thể hóa thành các chính sách, giải pháp cụ thể; song chủ trương phát triển DNVVN như là một phương hướng chiến lược trong việc phát triển kinh tế nhiều thành phần theo chiều sâu thì cho đến nay vẫn chưa được cụ thể hóa thành các chương trình cụ thể. Trong nhận thức của một số cơ quan quản lý Nhà nước vẫn chưa thật sự công bằng, thậm chí bất bình đẳng đối với loại hình kinh tế này. Ít người có được nhận thức sâu sắc rằng, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế của sự sáng tạo, năng động và trí tuệ, những doanh nhân nào mang lại nhiều lợi nhuận, đóng góp nhiều cho xã hội thì đều phải được tôn vinh như nhau. Và vì vậy, trên thực tế khu vực tư doanh của các DNVVN vẫn bị phân biệt đối xử và ít được biết đến, ít được đánh giá đúng mức trong guồng quay của cơ chế thị trường. 76 Thứ hai, về tổ chức quản lý của Nhà nước đối với các DNVVN: cho đến nay vẫn chưa có một cơ quan quản lý Nhà nước nào được giao chức năng theo dõi, tổng hợp nghiên cứu, xây dựng chính sách và điều phối hoạt động hỗ trợ DNVVN. Do vậy trong quá trình hình thành và phát triển của các DNVVN nhìn từ góc độ tổ chức quản lý của Nhà nước còn có một số tồn tại cần được khắc phục như: Thứ nhất, hệ thống chính sách pháp luật đang trong quá trình hình thành, chưa đồng bộ, còn quá nhiều sơ hở, chưa thật sự có tác dụng tích cực trong việc quản lý có hiệu quả các hoạt động của các DNVVN. Thứ hai, chính sách thuế đã có nhiều cải tiến nhưng vẫn còn bất hợp lý chưa theo kịp với nhu cầu phát triển của các DNVVN nên tác dụng hỗ trợ còn hạn chế. Thứ ba, việc phân bố phát triển DNVVN không đồng đều ở các khu vực, đa số tập trung ở các tỉnh, thành phố nơi có cơ sở hạ tầng phát triển và thị trường tiếp thu rộng. Theo số liệu đưa ra trong Báo cáo thường niên DNVVN Việt Nam thì miền Bắc có 18,64% doanh nghiệp; miền Trung có 18,36 % doanh nghiệp, và miền Nam là 63%. Thứ tư, cơ cấu DNVVN chưa hợp lý, phần lớn tập trung vào lĩnh vực thương mại và dịch vụ. Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ lại tập trung chủ yếu vào các ngành kinh doanh có lợi nhuận cao và hoàn vốn nhanh như kinh doanh khách sạn, nhà hàng, dịch vụ du lịch. Trong sản xuất, tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp chế biến (chiếm tới 35,2% tổng số doanh nghiệp), chưa chú trọng đến ngành nông nghiệp. Thứ năm, hiện nay có rất nhiều tổ chức hỗ trợ DNVVN như: trung tâm hỗ trợ kỹ thuật DNVVN của Cục Phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư); Hiệp hội các Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam; các câu lạc bộ hỗ trợ DNVVN. Nhưng hiệu quả hoạt động của các tổ chức này còn 77 chưa cao, còn phân tán, nhất là chưa tập trung được về một đầu mối, thống nhất quản lý về mặt Nhà nước. Thứ sáu, khó khăn lớn hiện nay của các DNVVN là vấn đề vốn, máy móc thiết bị và công nghệ lạc hậu; trình độ tay nghề của công nhân thấp; năng lực quản lý của các chủ doanh nghiệp còn yếu. Và cuối cùng là sự thiếu thông tin kiến thức, thiếu mặt bằng sản xuất, liên tục phải cạnh tranh gay gắt trước sự tấn công của hàng ngoại, thiếu thị trường, thiếu sự hỗ trợ của Nhà nước. Tóm lại, trước một thực trạng như đã phân tích ở trên, Nhà nước cần phải sớm đưa ra một hệ thống giải pháp mang tính đồng bộ để hỗ trợ các DNVVN. 2. Các giải pháp khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã gây ra những tác động không nhỏ đối với các DNVVN Việt Nam và hiện tại khi mà những tác động của nó đã được kìm chế thì những khó khăn trước mắt đối với các DNVVN Việt Nam vẫn rõ ràng hơn bao giờ hết. Khả năng tiếp cận nguồn vốn để phục hồi phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vẫn rất hạn chế, ngoài ra việc duy trì chi phí đầu vào ở mức không quá cao cũng như việc tìm đầu ra cho sản phẩm, dịch vụ cũng là những vấn đề cần phải được giải quyết. Trong thời điểm này, để giúp các DNVVN vượt qua khó khăn hiện tại cũng như có những tiền đề vững chắc hơn để phát triển trong tương lai thì cần phải có những giải pháp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý Nhà nước cũng như giải pháp của bản thân các doanh nghiệp. 2.1. Các giải pháp từ phía Nhà nƣớc 2.1.1. Nhóm giải pháp ngắn hạn 2.1.1.1. Tiếp tục thực hiện gói kích cầu để hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ 78 Gói kích cầu là một trong những giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp đang được Chính phủ thực hiện và đã đạt được những hiệu quả ban đầu. Nguồn kích cầu được lấy từ Quỹ dự trữ, một phần sẽ chuyển vốn chưa thực hiện của năm 2008 sang (43.000 tỷ đồng) và từ các nguồn huy động khác như phát hành trái phiếu đầu tư công trình giao thông (20.000 tỷ đồng). Tổng cộng giá trị toàn bộ của gói kích cầu xấp xỉ 100.000 tỷ đồng (Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2009). Chính phủ cũng đã quyết định dùng gói kích cầu để hộ trợ lãi suất năm 2009 cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ là chính. Mức bù lãi suất đang được xem xét, song theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư có thể sẽ vào khoảng 4%, tức là nếu lãi suất vay ngân hàng của các DNVVN là 10% thì người đi vay chỉ phải trả 6% lãi. Gói kích cầu sẽ có tác dụng giúp các DNVVN giải quyết khó khăn, tạo việc làm cho người lao động, tăng tiêu dùng sản phẩm. Tuy nhiên để gói kích cầu có thể phát huy hết tác dụng của nó thì cần phải có các giải pháp đồng bộ đi kèm khác mà điển hình là giải pháp giãn, giảm thuế cho doanh nghiệp. Gói kích cầu của Chính phủ là một giải pháp đang được triển khai và bước đầu đã cho thấy những hiệu quả của nó. Nó đã có tác động đáng kể đến sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp đối phó hiệu quả hơn trước khó khăn cũng như đem lại động lực phát triển cho nền kinh tế, tránh khỏi nguy cơ về một sự tụt dốc trong tương lai. Bởi vậy gói kích cầu này cần được tiếp tục thực hiện và có thể mở rộng quy mô hơn nữa. 2.1.1.2. Cắt giảm lãi suất cơ bản Theo những số liệu mới nhất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư có thể thấy được mức độ lạm phát trong những tháng đầu năm 2009 đã được kiềm chế một cách đáng kể và là một tín hiệu đáng mừng cho nền kinh tế. Mức tăng trưởng của chỉ số giá tiêu dùng trong bốn tháng đầu năm 2009 lần lượt là 0,32%; 1,15%; -0,17% và 0,35%. Chỉ số giá tiêu dùng trong tháng 4/2009 so với thời điểm cuối năm 2008 chỉ tăng 1,68%. Nỗi lo âu của hầu hết các quốc 79 gia bây giờ không còn là đối phó với lạm phát thế nào mà là nỗi lo về nguy cơ của sự suy thoái kinh tế toàn cầu theo đúng chu kỳ của nền kinh tế mà các lý thuyết kinh tế học đã chỉ ra. Một trong những giải pháp trước mắt mà NHNN có thể thực hiện đó là giảm lãi suất cơ bản ở một mức thích hợp để khuyến khích sản xuất và đầu tư, tạo động lực phát triển cho nền kinh tế, tránh khỏi nguy cơ suy thoái trước mắt. Lãi suất cơ bản giảm xuống sẽ kéo theo sự giảm xuống của lãi suất cho vay của các NHTM. Điều đó sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung cũng như các DNVVN nói riêng có thể dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn để duy trì hoạt động kinh doanh, vượt qua những khó khăn trước mắt cũng như phát triển trong giai đoạn tiếp theo. 2.1.1.3. Giải pháp về thuế Thuế là một trong những chính sách quan trọng tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó không chỉ điều tiết phân phối thu nhập, mà còn có vai trò trong việc điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế, kích thích hoặc hạn chế hoạt động kinh doanh của từng ngành, từng khu vực. Kinh nghiệm cho thấy, thuế suất hợp lý thì thu được thuế cho ngân sách, ngược lại thuế quá cao hay thuế không hợp lý thì người dân sẽ tìm mọi cách để tránh thuế, kết quả là Nhà nước thất thu, doanh nghiệp chịu thiệt, còn người được lợi là cán bộ thu thuế mất phẩm chất. Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay, các doanh nghiệp đặc biệt là các DNVVN gặp rất nhiều khó khăn trong việc khắc phục những ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng như phải chuẩn bị đối phó với những nguy cơ suy thoái kinh tế trước mắt thì những hỗ trợ kịp thời về chính sách thu thuế đối với các doanh nghiệp là vô cùng cần thiết. Để hỗ trợ cho các DNVVN đặc biệt trong khâu cuối của một chu kỳ sản xuất kinh doanh đó là nộp thuế, khóa luận xin được đưa ra một số đề xuất sau: 80 Thứ nhất, miễn hoặc giảm thuế cho nhập khẩu nguyên liệu cho các doanh nghiệp đang phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu hiện tại đang trong tình trạng khó khăn trong thời gian 6 tháng đến 1 năm để doanh nghiệp có thể tiết kiệm chi phí đầu vào, từng bước ổn định và phát triển sản xuất. Thứ hai, hiện nay các doanh nghiệp sản xuất kể cả doanh nghiệp lớn mới đi vào hoạt động được miễn thuế thu nhập 2 năm đầu và giảm 50% với 2 năm tiếp theo. Nhưng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới đi vào hoạt động nên miễn giảm thêm từ 6 tháng đến 1 năm. Thứ ba, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp sử dụng nhiều nhân công, các doanh nghiệp sử dụng ít vốn nhưng có hàm lượng lao động nhiều như các xí nghiệp dệt may, sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. 2.1.2. Nhóm giải pháp dài hạn 2.1.2.1. Hỗ trợ xây dựng các vùng cung cấp nguyên liệu lâu dài cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Như chúng ta đã biết, một trong những lý do khiến các doanh nghiệp Việt Nam nói chung cũng như các DNVVN nói riêng lại chịu nhiều ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là các doanh nghiệp nước ta phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu đầu vào nhập khẩu từ nước ngoài và giá cả quốc tế. Một khi giá cả quốc tế tăng nhanh tăng nhanh thì hầu như doanh nghiệp không thể có giải pháp thay thế nào để giảm chi phí đầu vào bởi vì nguồn cung nguyên liệu trong nước vừa yếu, vừa thiếu và không ổn định. Bởi vậy Nhà nước nên có những nghiên cứu cụ thể để có thể cân nhắc và triển khai xây dựng các vùng cung cấp nguyên liệu đầu vào có chất lượng cao và đảm bảo tính ổn định trong dài hạn. Mặc dù các dự án này đỏi hỏi phải có một sự nghiên cứu và tính toán kỹ lưỡng về các vấn đề như địa điểm xây dựng, công nghệ áp dụng, cách thức tổ chức quản lý cũng như chi phí đầu tư nhưng một khi triển khai thành công, nó sẽ phát huy tác dụng rất lớn đối với các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Các doanh nghiệp sẽ 81 chủ động được phần lớn nguyên liệu đầu vào sản xuất mà không phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Ngoài ra sự ổn định của nguồn cung nguyên liệu đầu vào kể cả về giá và lượng cũng sẽ tạo điều kiện giúp kiểm soát tốt hơn chi phí sản xuất của mình cũng như đề ra những phương án kinh doanh lâu dài. Còn đối với nền kinh tế nó sẽ giúp giảm nhập siêu, ổn định cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ cũng như đảm bảo cho một mức tăng trưởng cao hơn. 2.1.2.2. Thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư cho doanh nghiệp vừa và nhỏ Đây là một công cụ chính sách quan trọng để thúc đẩy sự phát triển DNVVN. Những quỹ này được thành lập từ các nguồn hỗ trợ của Nhà nước, tín dụng ngân hàng, các trợ giúp từ phía nước ngoài. Ngoài việc đưa ra các điều khoản tín dụng với lãi suất thấp hơn, quỹ hỗ trợ DNVVN còn có thể đưa ra các điều khoản tín dụng đặc biệt như tín dụng để mua sắm và cho thuê máy móc thiết bị để áp dụng công nghệ mới. Theo kinh nghiệm của một số nước trên Thế giới, có thể thực hiện giải pháp thành lập quỹ hỗ trợ DNVVN thông qua các hình thức sau: Thứ nhất, thông qua hình thức thành lập công ty đầu tư và tín dụng DNVVN với mục đích khuyến khích việc thành lập doanh nghiệp mới, trợ giúp việc mở rộng quy mô và hiện đại hóa các doanh nghiệp hiện có. Chức năng của công ty này là cho vay dài hạn và trung hạn (khắc phục được mặt hạn chế của các NHTM là cho vay ngắn hạn). Ngoài ra công ty còn thực hiện việc cầm cố vốn, xác nhận việc phát hành cổ phiếu và giấy vay, cung cấp các dịch vụ tài chính như nợ chậm trả, bán trả dần, nợ tài sản. Thứ hai, ngoài hình thức thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư cho DNVVN lấy vốn từ ngân sách Nhà nước như đã nói trên, cần thiết phải thành lập quỹ hỗ trợ phát triển các DNVVN từ nguồn viện trợ ODA để tài trợ cho các DNVVN 82 hoạt động kinh doanh có hiệu quả theo các tiêu thức quy định và được kiểm toán chặt chẽ. 2.1.2.3. Thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ Theo công bố của Vụ Tín dụng (NHNN) dư nợ cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ đến 31/7/2008 của các NHTM đạt 299.472 tỷ đồng (chiếm 27,3% tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế), tăng 16,65% so với 31/12/2007 và tăng 70,5% so với 31/12/2006. Trong đó, cho vay ngắn hạn chiếm 73,05%, cho vay trung và dài hạn chiếm 26,95%. Tuy nhiên, sự phát triển về quy mô tín dụng nói trên cũng chưa tương xứng với tiềm năng, phát triển của các DNVVN. Thiếu vốn vẫn là một trong những vấn đề búc xúc cần được tháo gỡ ngay đối với các DNVVN. Một trong những nguyên nhân thiếu vốn hiện nay của các DNVVN là khó có thể tiếp cận được với các nguồn vay chính thức do các DNVVN không có khả năng thế chấp. Để giải quyết vấn đề này Nhà nước cần có chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp thông qua việc thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng. Chức năng chủ yếu của quỹ là giúp các DNVVN tiếp cận được vốn vay của ngân hàng trong các trường hợp thiếu tài sản thế chấp, cầm cố ở ngân hàng và những tổ chức tín dụng khác. Nguồn vốn của quỹ đầu tiên sẽ xuất phát từ nguồn ngân sách và đóng góp của ngân hàng, các hiệp hội tín dụng, các doanh nghiệp và các tổ chức khác. Các quỹ này không chỉ phục vụ cho lợi ích của của các DNVVN mà còn tạo điều kiện cho các ngân hàng và các tổ chức tín dụng yên tâm, làm việc có hiệu quả hơn trong công việc cung cấp tài chính vì rủi ro có thể được chia sẻ. Sự ra đời của quỹ bảo lãnh tín dụng sẽ giúp cho các DNVVN tiếp cận được các nguồn vay chính thức thay vì dựa vào các khu vực tài chính phi chính thức như hiện nay. Để tiến tới xây dựng quỹ bảo lãnh đối với DNVVN cần phải có ý kiến đóng góp từ nhiều phía. Qua thực tế khảo sát, nghiên cứu cũng như dựa vào 83 kinh nghiệm hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng ở một số nước trên thế giới, khóa luận thấy rằng nên hướng vào một số đề xuất sau: Thứ nhất, Nhà nước sẽ cấp vốn ban đầu cho quỹ, sau đó có thể rút dần theo mức tích lũy và sự lớn mạnh của quỹ. Thứ hai, Nhà nước tái bảo lãnh miễn phí ở một số tỷ lệ nào đó (khoảng 50%) số dư bảo lãnh của tổ chức bảo lãnh. Thứ ba, quỹ chỉ bảo lãnh một phần tín dụng thiếu bảo đảm, mà một mức hợp lý 70% phần tiền vay đảm bảo, còn lại 30% ngân hàng cho vay phải gánh chịu. Thứ tư, quỹ không nên có quan hệ trực tiếp với doanh nghiệp vay vốn. Khách hàng của quỹ là các ngân hàng thương mại. Điều này giúp quỹ giảm bớt khối lượng công việc, tương tự sẽ giảm đỡ phí bảo lãnh cho các doanh nghiệp. Và cuối cùng, quỹ không phải là một tổ chức tín dụng hoạt động không vì mục đích lợi nhuận nên không thể chịu sự điều chỉnh khuôn khổ luật các tổ chức tín dụng. Vấn đề đặt ra ở đây là Nhà nước cần có một nghị định riêng điều chỉnh cơ chế hoạt động của quỹ. 2.1.2.4. Giải pháp về mở rộng thị trường và tăng khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong sản xuất, kinh doanh Nói đến hoạt động sản xuất, xuất khẩu của bất kỳ một doanh ghiệp nào không thể không nói đến thị trường đầu ra cho sản phẩm đó. Hiện nay, tiếp cận thị trường đang là vấn đề khó khăn chung cho các doanh nghiệp, trong đó DNVVN lại càng khó khăn hơn. Thị trường của các DNVVN bao gồm thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Không thể xếp loại thứ tự vị trí thị trường nội địa và thị trường nước ngoài, thị trường nào quan trọng hơn và thị trường nào ít quan trọng hơn. Nhưng trong bối cảnh hiện nay DNVVN với khả năng vốn hạn hẹp và công nghệ lạc hậu thì việc vươn ra thị trường nước ngoài với quy mô lớn chắc chắn sẽ gặp không ít trở ngại. Do vậy các DNVVN nên đặt mối quan tâm hàng đầu chính là thị trường trong nước và mong muốn có sự can thiệp của Nhà nước. Các biện pháp chống hàng buôn lậu, hàng giả, hàng cấm không được thi hành kịp thời và đúng mức. Đó là chưa nói đến thị trường 84 trong nước không được bảo hộ, sự ồ ạt xâm nhập thị trường của hàng ngoại, hàng liên doanh, khu chế xuất một cách thái quá đã vô tình cô lập, gạt bỏ hàng hóa của các DNVVN vốn đang thiếu tính cạnh tranh. Vì vậy để có một chính sách thị trường và cạnh tranh hỗ trợ lành mạnh cho các DNVVN phải có nỗ lực từ hai phía: Nhà nước, cơ quan tư vấn, xúc tiến của tổ chức xã hội và bản thân các doanh nghiệp. Chính sách này trước hết phải đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng, không có hiện tượng độc quyền, chiếm lĩnh thị trường theo kiểu cá lớn nuốt cá bé. Và sự hỗ trợ can thiệp của Nhà nước đối với các DNVVN đặc biệt có ý nghĩa trong việc tạo ra sự bình đẳng cho các doanh nghiệp trong một sân chơi chung. Điều quan trọng là biện pháp hỗ trợ phải được thực hiện ngay từ khi khởi sự hoạt động kinh doanh cho đến suốt quá trình kinh doanh cũng tức là tạo sự bình đẳng về cơ hội kinh doanh cho mỗi doanh nghiệp, trợ giúp DNVVN khắc phục những nhược điểm của mình đủ sức vươn lên trong cuộc cạnh tranh bình đẳng trên thị trường. Đối với thị trường trong nước, trước hết Chính phủ nên tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN tham gia vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng bằng vốn đầu tư từ ngân sách. Ở một số khu vực chi tiêu công cộng ở địa phương, DNVVN là người cung cấp quan trọng. Thứ hai, cần đẩy mạnh chính sách hỗ trợ mối liên kết giữa các doanh nghiệp lớn và các DNVVN, tạo điều kiện cho các DNVVN có thể là vệ tinh cung cấp nguyên vật liệu, bán hàng, sản xuất phụ tùng, phân phối sản phẩm cho các doanh nghiệp lớn như yêu cầu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất những sản phẩm như ô tô, xe máy phải có tỷ lệ nội địa hóa cao (tăng dần theo thời gian). Đối với thị trường ngoài nước, thứ nhất DNVVN cần được giúp đỡ về các thủ tục để tiếp cận thị trường ngoài nước như: đơn giản hóa các thủ tục đăng ký kinh doanh, loại bỏ các loại giấy tờ không cần thiết. Thứ hai, cần thực hiện rộng rãi chính sách thưởng xuất khẩu, kể cả sử dụng quỹ hỗ trợ xuất khẩu, nhằm khuyến khích mạnh hơn nữa việc thu hút ngoại tệ về cho đất 85 nước. Riêng đối với DNVVN, cần phải khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu dù khối lượng ban đầu và số ngoại tệ còn rất ít. Thứ ba, các cơ quan chức năng cần phải giúp đỡ các DNVVN nắm bắt được thông tin, nâng cao hiểu biết về luật lệ thương mại quốc tế để có thể hội nhập một cách sâu rộng hơn với thị trường quốc tế. 2.1.2.4. Giải pháp về công nghệ Một trong những tồn tại hiện nay trong khu vực DNVVN và là nguyên nhân dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, chất lượng sản phẩm thấp, khả năng cạnh tranh kém, đó là công nghệ lạc hậu. Tuy nhiên do nguồn vốn hạn chế các doanh nghiệp không đủ khả năng nhập khẩu các thiết bị có hàm lượng công nghệ cao. Đó dường như là cái vòng luẩn quẩn mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ dường như không thể có cách nào tự khắc phục được. Do vậy, Chính phủ phải có các chính sách hỗ trợ như: bảo lãnh giúp các DNVVN có thể mua được những công nghệ hiện đại từ nước ngoài; khuyến khích và tăng thời gian miễn thuế, giảm thuế đối với các dự án đổi mới công nghệ; các ngân hàng thương mại nên mở rộng các hình thức tín dụng vay trung và dài hạn cho các DNVVN để đổi mới công nghệ, kể cả hình thức cho thuê tài chính. 2.1.2.5. Các giải pháp đào tạo cán bộ và nguồn nhân lực Nhìn chung các chủ DNVVN đa phần đều là những người không được qua đào tạo một cách bài bản về các kiến thức kinh tế học cũng như kỹ năng quản lý chuyên nghiệp. Đây là một hạn chế rất lớn trong hoạt động của các DNVVN và cũng lý giải cho một hiện tượng khá phổ biến hiện nay đối với các DNVVN là thành lập nhanh chóng và cũng giải thể nhanh. Các doanh nghiệp chỉ có thể thành công được trong nền kinh tế thị trường chỉ khi đội ngũ lãnh đạo của các doanh nghiệp đó là những doanh nhân sáng tạo, năng động, thích nghi và nhạy bén với từng biến động của thị trường. Do vậy Nhà nước ta cần phải có những chính sách phù hợp để đào tạo đội ngũ quản lý cho khu vực DNVVN như: thành lập các hiệp hội người chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ dưới sự quản lý và giám sát về chuyên môn của các cơ quan hữu quan để họ có môi trường trao đổi, học hỏi những kiến thức cũng như kinh nghiệm quản 86 lý của nhau; kết hợp với các tổ chức đào tạo kỹ năng quản lý chuyên nghiệp để tổ chức những khóa ngắn hạn đào tạo kỹ năng quản lý cho các chủ doanh nghiệp ngay tại địa phương hoạt động. Vấn đề đào tạo nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động trong các DNVVN luôn là vấn đề nản giải từ lâu nay. Các DNVVN hoặc là ở trong tình trạng không có khả năng về kinh phí đào tạo lực lượng chuyên môn cho mình hoặc tự bỏ chi phí đào tạo, nhưng nhiều người sau khi được doanh nghiệp đào tạo lại bỏ sang nơi khác làm việc, gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Do đó, Nhà nước cần có biện pháp khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở đào tạo thuộc các ngành, địa phương, các Tổng công ty lớn giúp các DNVVN trong đào tạo, huấn luyện nhân lực bằng các hình thức thích hợp. Mặt khác trong văn bản pháp lý về lao động, cần có quy định cụ thể hơn về trách nhiệm và nghĩa vụ của người lao động được doanh nghiệp hỗ trợ kinh phí đào tạo nhưng không thực hiện cam kết làm việc cho doanh nghiệp theo thỏa thuận. 2.1.2.6. Giải pháp về một môi trường pháp lý lành mạnh cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng Hiện nay xu thế hội nhập, toàn cầu hóa vẫn đang là xu hướng chủ đạo của nền kinh tế thế giới. Và bất kỳ một nước nào muốn phát triển nền kinh tế của mình thì chắc chắn không thể không có những chiến lược lâu dài để hội nhập ngày càng sâu rộng hơn với nền kinh tế toàn cầu. Chính sách mở cửa nền kinh tế được coi là một kết cục quan trọng, việc nhập khẩu các nguồn vốn và hàng hóa bên ngoài cho phép các doanh nghiệp có thể cải thiện các điều kiện sản xuất một cách đáng kể, xác định lại cơ cấu của nền kinh tế. Một hệ thống pháp luật được cải thiện tốt hơn (ví dụ như giảm thuế thu nhập, giá thuế đất hợp lý, quyền được chuyển lợi nhuận ra nước ngoài) chắc chắn sẽ tạo ra các điều kiện ưu đãi hơn cho dòng vốn đi vào. Một hành lang pháp lý thông thoáng với các thủ tục hành chính gọn nhẹ cũng như nhiều chính sách ưu đãi sẽ là một đòn bẩy vô cùng hiệu quả giúp các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung trở nên năng động hơn cũng như tạo tiền 87 đề vô cùng quan trọng để tận dụng các nguồn lực trong nước cũng như ngoài nước một cách hiệu quả nhất. 2.2. Các giải pháp từ phía các doanh nghiệp vừa và nhỏ 2.2.1. Nhóm giải pháp ngắn hạn 2.2.1.1. Tiết kiệm các chi phí môt cách triệt để Trong giai đoạn khó khăn hiện tại, khi chi phí đầu vào quá cao là mối lo lớn nhất đối với việc duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN thì giải pháp cần kíp nhất là doanh nghiệp phải tiết kiệm các chi phí một cách triệt để. Doanh nghiệp cần phải cắt giảm mọi khoản chi tiêu không cần thiết, phát động phong trào tiết kiệm trong mọi bộ phận, cán bộ công nhân viên trong tổ chức. Bên cạnh đó là việc rà soát lại tình hình nhân sự để tinh giản bộ máy, giảm bớt một số lao động thừa, không cần thiết. Nhiều doanh nghiệp có thể triển khai việc chuyển ca làm việc từ giờ cao điểm sang giờ khác để tiết kiệm điện, sử dụng phương tiện tin học để trao đổi trong công việc, hạn chế hội họp. 2.2.1.2. Sử dụng nguồn nhân lực hiệu quả Gốc của nước là dân, gốc của doanh nghiệp là người lao động, nước sống nhờ dân, công ty tồn tại nhờ người lao động, nhất là trong thời kỳ khó khăn. Doanh nghiệp có thể cắt giảm nguồn nhân lực, nhưng phải có chọn lọc và hết sức cẩn thận, hoặc thực hiện chính sách chuyển đổi hợp đồng lao động phù hợp như chuyển một số nhân viên chính thức thành nhân viên tạm thời hay cộng tác viên, giúp cho công ty có thể cắt giảm nguồn chi phí. Doanh nghiệp cũng cần quan tâm tới đời sống, tâm lý của nhân viên hơn, tạo sự yên tâm, tin tưởng của nhân viên vì trong nhân viên xuất hiện tư tưởng chán nản do sợ bị mất việc và tiền lương thực tế giảm. Doanh nghiệp có thể gắn kết nhân viên với mình bằng những yếu tố ngoài tiền lương, như văn hóa doanh nghiệp, môi trường làm việc. Trong thời kỳ khó khăn, những yếu tố này cần được sử dụng triệt để. 88 2.2.1.3. Đổi mới chiến lược kinh doanh trong ngắn hạn Đổi mới chiến lược kinh doanh trong ngắn hạn sẽ giúp doanh nghiệp đối phó với khó khăn trước mắt một cách linh hoạt và hiệu quả cũng như tạo tiền đề phát triển lâu dài của cho doanh nghiệp. Một chiến lược kinh doanh ngắn hạn phù hợp trong thời kỳ này được thể hiện qua việc đầu tư có trọng điểm, tái cơ cấu tổ chức hợp lý. Trong giai đoạn nền kinh tế đang gặp những khó khăn như hiện nay, doanh nghiệp cần tránh đầu tư đa ngành, dàn trải, kém hiệu quả. Các danh mục đầu tư của doanh nghiệp cần phải được thu gọn và chỉ tập trung vào các dự án có tiềm năng và vốn đầu tư đảm bảo. Doanh nghiệp nên từ chối các dự án không khả thi như khả năng thanh khoản không rõ ràng, lợi nhuận thực thấp (lỗ so với tỉ lệ lạm phát). Các dự án đầu tư có thời gian thu hồi vốn lâu như bất động sản, khu công nghiệp nên được tính toán và cân nhắc kỹ càng. Ngược lại, các dự án "đánh nhanh thắng nhanh" như đầu tư vào các mặt hàng tiêu dùng nên được doanh nghiệp ưu tiên để thu hồi vốn, luân chuyển nhanh luồng tiền. Bên cạnh đó, trong ngắn hạn, việc cơ cấu lại tổ chức sản xuất cũng là một giải pháp cấp bách. Doanh nghiệp cần cơ cấu lại sản xuất kinh doanh theo tinh thần “đánh nhanh thắng nhanh, đánh chắc thắng chắc”, tập trung sản xuất những mặt hàng có lợi nhuận cao, tạm dừng những mặt hàng lợi nhuận thấp hoặc chưa có thị hiếu tiêu dùng. Các doanh nghiệp cũng có thể tạo ra cơ cấu tổ chức mới, bằng phương thức liên kết nhiều mô hình khác nhau, như hình thành các tập đoàn, các công ty lớn để tạo ra những khả năng tích tụ, tập trung vốn và tăng nhanh thâm nhập thị trường. 2.2.2. Nhóm các giải pháp dài hạn 2.2.2.1. Chủ động nguồn cung nguyên liệu đầu vào mang tính ổn định và lâu dài đối với các doanh nghiệp sản xuất 89 Doanh nghiệp phải có những giải pháp mang tính dài hạn để chủ động nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào lâu dài và ổn định cho sản xuất, giúp kiểm soát chi phí một cách hiệu quả và chủ động hơn trong việc đối phó với những biến động của thị trường. Một số đề xuất đó là: với các doanh nghiệp chế biến thực phẩm có nguyên liệu đầu vào là những nông sản, thủy sản thì nên có những chính sách hỗ trợ bà con vùng sản xuất nguyên liệu bao tiêu sản phẩm một cách lâu dài với giá hợp lý nhằm có được nguồn cung mang tính ổn định. Bên cạnh đó là việc hỗ trợ kiến thức, kỹ thuật cho bà con để nâng cao chất lượng nguồn cung đầu vào cho quá trình sản xuất của các doanh nghiệp. 2.2.2.2. Xây dựng chiến lược đầu tư lâu dài Doanh nghiệp không nên đầu tư dàn trải, mà nên có chiến lược đầu tư trọng điểm, lâu dài. Các doanh nghiệp nếu lựa chọn được các công ty niêm yết có triển vọng kinh doanh tốt và bất động sản ở vị trí đắc địa thì có thể đầu tư và kỳ vọng lãi cao về dài hạn. Doanh nghiệp cũng không vì khó khăn trước mắt mà cắt giảm chi phí marketing bởi khi các đối thủ cạnh tranh cắt giảm quảng cáo thì các thương hiệu tăng quảng cáo trong thời kỳ suy thoái sẽ có hiệu quả. Nếu buộc phải cắt giảm quảng cáo thì có thể chuyển từ quảng cáo 30 giây sang quảng cáo 15 giây, từ tivi sang đài phát thanh. 2.2.2.3. Từng bước nâng cao chữ tín trong kinh doanh Chữ tín trong kinh doanh là tài sản vô hình quý giá mà doanh nghiệp không phải mất vốn đầu tư. Điều này càng có ý nghĩa đối với DNVVN vì như chúng ta đã phân tích, phần lớn các DNVVN chưa tạo dựng được lòng tin đối với khách hàng. Để có chữ tín, hiệu quả kinh doanh vẫn chưa đủ, giống như yêu cầu tài đức phải song toàn. Vì vậy các DNVVN cần xây dựng mối quan hệ làm ăn tin cậy với ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác, với các bạn hàng (để tăng khả năng mua chịu), và với người lao động (để huy động vốn từ cán bộ, nhân viên của công ty), tránh kiểu làm ăn chụp giật, nợ nần dây dưa, không để “con sâu làm rầu nồi canh”. 90 2.2.2.4. Xây dựng chiến lược cạnh tranh hợp lý Các doanh nghiệp cần có chương trình đổi mới công nghệ, giảm thiểu chi phí, nâng cao chất lượng hàng hóa. Giải quyết được đầu ra là vấn đề sống còn của doanh nghiệp, vì vậy để xây dựng được một chiến lược cạnh tranh hợp lý trong xu thế hội nhập, các DNVVN phải tập trung vào ba nội dung chủ yếu sau: Chiến lược thứ nhất đó là chiến lược tối thiểu hóa chi phí. Với chiến lược này, các DNVVN Việt Nam phải có khả năng cung cấp hàng hóa và dịch vụ với chi phí thấp hơn chi phí của đối thủ. Chiến lược này cần tạo ra hai ưu thế cơ bản: Thứ nhất, do chi tiêu thấp hơn, các doanh nghiệp có thể đưa ra giá bán hàng và dịch vụ thấp hơn giá của đối thủ và do vậy thu nhiều lợi nhuận hơn, thậm chí cao hơn đối thủ. Thứ hai, khi chiến tranh giá cả xảy ra, các doanh nghiệp với chi phí thấp hơn vẫn có lợi thế cạnh tranh vì biên độ giá giảm so với đối thủ. Để thực hiện chiến lược này, các doanh nghiệp cần tập trung vào việc cắt giảm tổng chi phí, hay nói cách khác là các chi phí cố định. Đây là điểm lợi thế của các DNVVN Việt Nam bởi cơ cấu nhỏ và linh hoạt, các doanh nghiệp có thể giảm tổng chi phí nhanh hơn các doanh nghiệp có quy mô lớn. Chiến lược thứ hai là chiến lược làm khác biệt sản phẩm và dịch vụ. Đa dạng hóa là điểm mạnh của những doanh nghiệp có quy mô lớn, có tiềm lực tài chính và nghiên cứu, trong khi khác biệt hóa là điểm mạnh của các DNVVN Việt Nam nói chung. Các doanh nghiệp có sự linh hoạt hơn trong các thay đổi khác biệt hóa sản phẩm do nhanh nhạy đưa ra quyết định, chi phí thấp hơn so với các doanh nghiệp lớn. Để thực hiện chiến lược này, các DNVVN Việt Nam cần được trang bị những kỹ năng cao hơn trong hoạt động marketing cũng như cần sự trợ giúp từ Chính phủ vì họ thiếu khả năng tiến hành nghiên cứu thị trường thế giới. 91 Chiến lược thứ ba là chiến lược tập trung vào thị trường nhãn hiệu. Thị trường nhãn hiệu được hiểu là một phần nhỏ nhóm khách hàng, một phân đoạn nhỏ trong thị trường quốc tế. Các DNVVN Việt Nam hiện nay khó có thể tiếp cận được thị trường lớn của thế giới, họ chỉ có thể tìm kiếm và tập trung mọi nguồn lực vào những “thị trường nhỏ”, hay nói cách khác là thị trường ngách. Ví dụ các doanh nghiệp Thái Lan sản xuất và xuất khẩu gia vị rất thành công khi họ nhắm vào khách hàng là những người Châu Á đang sinh sống tại Châu Âu và Châu Mỹ. Bởi vậy, ngoài hương vị và các nguyên liệu chế biến, đóng gói, kênh tiêu thụ và hệ thống phân phối đều nhằm vào nhóm khách hàng này. Để đạt được chiến lược này, các DNVVN Việt Nam ngoài nỗ lực của bản thân họ cần phải có sự cộng tác, phối hợp, hỗ trợ của các tổ chức đại diện trong một hệ thống tổng thể và đồng bộ. Bởi vậy các hoạt động dự án hỗ trợ DNVVN Việt Nam đóng vai trò rất quan trọng. 2.2.2.5. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý Trong kinh doanh có câu châm ngôn “chỉ có nhà quản lý tồi chứ không có doanh nghiệp tồi”. Qua điều tra những doanh nghiệp tăng trưởng mạnh thì thấy nhân tố người quản lý có vị trí quyết định. Mặc dù trong thời gian qua, tỷ lệ đội ngũ cán bộ quản lý DNVVN có bằng cấp và có kinh nghiệm đã được nâng cao. Tuy nhiên, so với yêu cầu của nền kinh tế thị trường đặt ra thì vẫn chưa đáp ứng được. Vì vậy, các DNVVN phải bố trí nguồn kinh phí cũng như sự quan tâm thích đáng đến việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý. Trong chương III này, khóa luận đã đề xuất một số giải pháp từ phía Nhà nước cũng như từ phía các doanh nghiệp để khắc phục những khó khăn do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ra. Để các giải pháp này phát huy được hết hiệu quả thì việc phối kết hợp và thực hiện đồng bộ giữa các cơ quan 92 Nhà nước các cấp như Chính phủ với các bộ ngành liên quan, các cơ quan chính quyền địa phương các cấp với các doanh nghiệp là vô cùng cần thiết. KẾT LUẬN Do tầm quan trọng của nền tài chính Mỹ đối với nền tài chính toàn cầu và độ liên kết chặt chẽ của nó với thị trường tài chính các nước khác, cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn Mỹ năm 2007 đã nhanh chóng biến thành cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay. Cuộc khủng hoảng tài chính đang diễn ra đã gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế thế giới cũng như nền kinh tế Việt Nam, và theo dự đoán những ảnh hưởng của nó vẫn có thể kéo dài cho đến hết năm 2009. Trong số các doanh nghiệp Việt Nam, đối tượng chịu tác động nặng nề nhất chính là các doanh nghiệp vừa và nhỏ - một bộ phận rất quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Các tác động trực tiếp cũng như gián tiếp của cuộc khủng hoảng đã khiến các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp phải rất nhiều khó 93 khăn trong việc kiểm soát chí phí đầu vào, huy động vốn sản xuất kinh doanh cũng như tìm thị trường đầu ra cho sản phẩm, dịch vụ. Tình hình trước mắt vẫn còn rất nhiều khó khăn đối với các doanh nghiệp khi những diễn biến phức tạp của cuộc khủng hoảng đang rất khó dự báo, trong khi nguy cơ về một cuộc suy thoái kinh tế đối với nền kinh tế thế giới cũng như nền kinh tế Việt Nam đang trở nên rõ ràng. Cho nên yêu cầu bức thiết trước mắt là Chính phủ cần đưa ra những giải pháp kịp thời nhằm giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể vượt qua những khó khăn mang tính chất vĩ mô của nền kinh tế. Về phía mình, các doanh nghiệp cũng cần có những điều chỉnh linh hoạt cơ cấu quản lý sản xuất kinh trong trong ngắn hạn cũng như đề ra những chiến lược kinh doanh phù hợp hơn trong dài hạn. Như vậy các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam mới có thể phát huy được hết vai trò quan trọng của mình, tiếp tục đóng góp nhiều hơn nữa cho nền kinh tế quốc dân cũng như cho mục tiêu chung phát triển xã hội. 94 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt: 1. Trần Văn Thọ & Trần Lê Anh, Thanh niên Online (16/10/2008), Khủng hoảng tài chính Mỹ và những ảnh hưởng, 2. Hồ Xuân Phương & Vũ Đình Ánh, Học Viện Tài chính (2003), Giải pháp phòng ngừa khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Việt Nam. 3. Hoàng Công Bảo, Đại học Ngoại thương (1998), Luận văn thạc sỹ: Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với xuất khẩu trong điều kiện Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới. 4. BBC Tiếng Việt (2009), Chuyên đề suy thoái kinh tế toàn cầu, isis.shtml 5. Bộ Công thương (2009), Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2008 và kế hoạch năm 2009 của ngành công thương. 6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (2008), Báo cáo thường niên doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam 2008. 7. Bộ Ngoại giao (2009), Lạm phát - kiểm soát lạm phát, 8. Ngọc Châu, Vnexpress (2008), 80% doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp khó khăn, 9. Nguyễn Đăng Dờn, NXB Thống kê (2008), Giáo trình lý thuyết Tài chính-Tiền tệ. 10. Khánh Hoa, CafeF (2008), Khủng hoảng tài chính, diễn biến qua các con số, dien-bien-qua-nhung-con-so.chn 95 11. Phương Nam, Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online (2009), Tiêu thụ trong nước là quan trọng nhất, 12. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2009), Thông tin về lãi suất, 13. Saga (2008), Nợ dưới chuẩn và suy thoái kinh tế 2008, 14. Trần Sửu, NXB Lao Động (2006), Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong thời đại toàn cầu hóa 15. Tổng cục Thống kê (2009), Tình hình kinh tế - xã hội năm 2008, 16. Vietnamnet (2008), Thủ tướng: tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, 17. Vneconomy (2008), ảnh hưởng khủng hoảng tài chính đến Việt Nam: được và mất, huong-khung-hoang-tai-chinh-den-viet-nam-duoc-va-mat.htm 18. Vnexpress (2008), 2008 - năm bi tráng của kinh tế thế giới, 19. Nhật Vy, Báo điện tử Vietnamnet (2008), Kinh tế toàn cầu: 2009 tiếp tục là một năm bất lợi, 20. Website Asset.vn (2008), Khủng hoảng nợ dưới chuẩn tại Mỹ: Từ A đến Z, hoaky/403.asset 96 Tài liệu tiếng Anh: 1. Bloomberg (2008), Market Data, 2. Financial Times (2009), Market Data Home, 3. IMF (2009), World Economic Outlook (WEO), 4.World Bank (2009), Global Economic Prospects 2009, OSPECTS/GEPEXT/EXTGEP2009/0,,contentMDK:22002695~pagePK:6416 7689~piPK:64167673~theSitePK:5530498,00.html

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf4594_9998.pdf
Luận văn liên quan