Các doanh nghiệp cần có chương trình đổi mới công nghệ, giảm thiểu chi
phí , n âng cao chất lượng hàng hóa. Giải quy ết được đầu ra là vấn đề sống còn
của doanh nghiệp, vì vậy để xây dựng được một chiến lược cạnh tranh hợp lý
trong xu thế hội nhập, các DNVVN phải tập trung vào ba nội dung chủ yếu sau:
Chiến lược thứ nhất đó là chiến lược tối thiểu hóa chi phí. Với chiến
lược này, các DNVVN Việt Nam phải có khả năng cung cấp hàng hóa và dịch
vụ với chi phí thấp hơn chi phí của đối thủ. Chiến lược này cần tạo ra hai ưu
thế cơ bản:
99 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2806 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khủng hoảng tài chính toàn cầu và ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh nghiệp này.
3.2.2. Sự gia tăng của chi phí lao động
Một vấn đề cũng trực tiếp tác động tới các DNVVN là chi phí lao động
tăng rất mạnh. Trong tình hình lạm phát năm 2008, một số doanh nghiệp (chủ
yếu là các công ty kinh doanh trong các lĩnh vực thương mại và dịch vụ hay
các công ty có ít nhân viên) đã tăng lương và tăng thêm phụ cấp cho nhân
68
viên nhằm đối phó với tình hình giá cả tăng cao và xem đây là một giải pháp
đối với công tác nhân sự trong bối cảnh lạm phát.
Trong khi đó, các công ty trong lĩnh vực sản xuất, do số nhân viên đông
nên chọn giải pháp tăng lương cho người trực tiếp sản xuất, là những người
vốn dĩ lương thấp và chịu ảnh hưởng mạnh nhất từ lạm phát. Tuy nhiên, tỷ lệ
công ty chấp nhận tăng lương bổ sung cho công nhân trực tiếp là rất thấp. Và
dù có tăng lương đến đâu thì doanh nghiệp vẫn phải đối mặt với sự thay đổi
của đời sống nhân viên và tâm lý bất ổn của họ trước thời cuộc ảnh hưởng
đến năng suất lao động. Do ảnh hưởng chính sách nhân sự như doanh nghiệp
phải cắt giảm số lao động, cắt giảm tiền lương và các khoản đãi ngộ khác mà
ảnh hưởng lớn tới tâm lý những nhân viên còn lại ở công ty. Mặt khác, với
những nhân viên giỏi, doanh nghiệp lại không giữ chân họ được đi tìm nơi có
ổn định tốt hơn.
3.3. Những khó khăn về thị trƣờng
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng mạnh đến nền kinh
tế, đến sản xuất cũng như tiêu dùng của nước ta. Như chương II đã đề cập,
hoạt động thương mại và dịch vụ năm 2008 kém sôi động rất nhiều so với năm
2007 do giá cả hàng hoá và dịch vụ tăng cao, dẫn đến sức mua trong dân giảm
đáng kể, sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ chậm. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và
doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế năm 2008 so với năm 2007 nếu
loại trừ yếu tố tăng giá, thì mức tăng chỉ đạt 6,5%.
Ngoài những ảnh hưởng mang tính chất khách quan từ phía thị trường
(người tiêu dùng sản phẩm và sử dụng dịch vụ) thì những vấn đề chủ quan
trong nội tại các DNVVN cũng là nguyên nhân khiến họ càng khó khăn hơn
trong việc tìm thị trường đầu ra cho hàng hóa và dịch vụ của mình. Với khả
năng tài chính eo hẹp, mặt khác hầu hết các doanh nghiệp trong thời điểm khó
khăn này lại không kiểm soát được chi phí sản xuất của mình do phụ thuộc quá
nhiều vào sự biến động của chi phí đầu vào tâng nhanh, họ không thể tăng giá
69
sản phẩm đầu ra và lại càng không thể mãi bù lỗ để giữ giá được. Một trong
những hệ quả tất yếu của những khó khăn chồng chất này đó là rất nhiều doanh
nghiệp đã phải ngừng hẳn hoặc cắt giảm một phần sản xuất, việc cắt giảm nhân
công đã khiến một số lượng lớn người lao động thất nghiệp. Theo những báo
cáo mới nhất của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, trong năm 2008 đã có
hơn 50.000 lao động bị mất việc làm tại 10 tỉnh, thành phố. Và dự đoán sang
năm 2009 con số thất nghiệp có thể lên tới 200.000 lao động trong cả nước.
Đây thực sự là một khó khăn về mặt kinh tế cũng như xã hội đối với nước ta
mà không dễ dàng gì để có thể khắc phục trong một thời gian ngắn trước mắt.
Nói tóm lại, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và những hệ quả của
nó đang gây ra những ảnh hưởng không nhỏ đối với nền kinh tế Việt Nam nói
chung và các DNVVN nói riêng. Những khó khăn trong việc tiếp cận các
nguồn vốn cũng như khó khăn từ sự gia tăng của các chi phí đầu vào đã khiến
hàng loạt doanh nghiệp đau đầu về việc duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh
cũng như tìm đầu ra cho sản phẩm. Sẽ có không ít doanh nghiệp không đủ sức
chèo chống trong bão lạm phát sẽ chịu hậu quả nặng nề và có thể phải ngừng
hoạt động. Để vượt qua khó khăn hiện tại và hướng đến phát triển trong tương
lai các DNVVN sẽ rất cần đến những sự hỗ trợ thiết thực từ phía Nhà nước
cũng như những giải pháp toàn diện của chính bản thân doanh nghiệp mà
khóa luận sẽ nghiên cứu cụ thể trong chương sau.
70
CHƢƠNG III:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC HẬU QUẢ
CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU ĐỐI VỚI
CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VIỆT NAM
VÀ TẠO TIỀN ĐỀ PHÁT TRIỂN TRONG TƢƠNG LAI
1. Quan điểm, mục tiêu và định hƣớng phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ
1.1. Quan điểm
Để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong những năm tiếp
theo, một trong những nhiệm vụ có tính chiến lược là phát triển DNVVN.
Điều này được giải thích vì một số lý do sau đây:
Xét về bối cảnh quốc tế, nước ta đang trong quá trình hội nhập với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Việc hội nhập sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp cận với bên ngài để có thị
trường, có thông tin, khoa học kỹ thuật tiên tiến, phát triển công nghệ. Hội
nhập với bên ngoài cũng là một cách thức để thu hút vốn nước ngoài, cải thiện
tình trạng thiếu vốn trầm trọng của các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay, đặc
biệt của các DNVVN.
Ở các nước trong khu vực, loại hình DNVVN đang rất phát triển. Các
nước này đã có những chính sách hết sức thích hợp hỗ trợ cho loại hình doanh
nghiệp này phát triển. Do vậy thông qua việc hội nhập, mở rộng quan hệ kinh
tế đối ngoại với các nước, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội được tiếp
cận, học hỏi kinh nghiệm phát triển DNVVN của các nước lân cận.
Xét về bối cảnh trong nước, nền kinh tế Việt Nam đang ở trong giai
đoạn chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước. Trong giai đoạn này, các nhà kinh tế, các nhà đầu tư
71
chưa có một sự chuyển biến về chất để có thể bắt kịp với các yêu cầu của nền
kinh tế thị trường: đại bộ phận các nhà quản lý còn thiếu kinh nghiệm, còn trì
trệ, tâm lý của người sản xuất nhỏ vẫn còn chưa chú trọng đến đầu tư dài hạn.
Do đó, việc phát triển và mở rộng quy mô cho các DNVVN là phù hợp với
tâm lý cũng như điều kiện thực tế tại nước ta. Đồng thời việc hỗ trợ các
DNVVN phát triển cũng phù hợp với tiến trình hội nhập của nước ta với các
nước trong khu vực và trên thế giới.
Nước ta có tiềm năng lớn về lao động. Phát triển DNVVN sẽ giải quyết
được công ăn việc làm cho người lao động, tăng thêm thu nhập cho họ, tạo
điều kiện để tích lũy cho các giai đoạn phát triển sau. Bên cạnh đó, việc hỗ trợ
phát triển DNVVN cũng tạo cơ hội cho các nhà đầu tư bỏ vốn để đầu tư cũng
như huy động mọi nguồn lực khác vào kinh doanh vì mục tiêu tăng trưởng
kinh tế.
Trong chiến lược kinh tế của Đảng và Nhà nước ta cũng đã khẳng định:
vốn trong nước là quyết định, song vốn nước ngoài là quan trọng. Trong
những năm gần đây và trong những năm tới nhu cầu đầu tư trên thế giới ngày
càng nhiều mà nguồn vốn đáp ứng ngày một thiếu. Bên cạnh đó, nhiều nước
trên thế giới tìm mọi cách đưa ra các chính sách hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư
của nước ngoài. Ngoài ra, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ toàn cầu sẽ làm
tình trạng thiếu vốn càng trở nên trầm trọng. Do vậy, để thực hiện mục tiêu
kinh tế đã đề ra phải tập trung huy động mọi nguồn vốn trong nước và một
loạt các giải pháp mang tính chất hỗ trợ khác. Một trong những giải pháp
mang tính chiến lược là phải phát triển các DNVVN thông qua tự do hóa việc
thành lập doanh nghiệp của mọi công dân và mọi thành phần kinh tế.
Chiến lược CNH - HĐH đang được thực hiện rộng khắp trên phạm vi
cả nước tạo tiền đề cơ bản cho chính sách huy động vốn từ mọi thành phần
kinh tế của xã hội. Song song với nguồn lực do Nhà nước nắm giữ thì nguồn
72
lực từ thị trường thì nguồn lực trong dân là vô cùng lớn và cần huy động cho
sự phát triển của đất nước.
1.2. Mục tiêu phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Phát triển các DNVVN sẽ nhằm đạt các mục tiêu sau đây:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp, tạo thế cạnh tranh của hàng hóa nước mình trên thị trường
quốc tế.
Thứ hai, tiếp tục chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với
định hướng rõ ràng.
Thứ ba, thu hút mọi tiềm năng về vốn cho nền kinh tế, giải quyết công
ăn việc làm cho một số lớn lao động và đáp ứng vào việc thực thi chiến lược
CNH - HĐH, giảm tới mức tối đa chênh lệch trong phát triển kinh tế giữa các
vùng trong cả nước.
Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện môi trường thuận lợi cho các DNVVN
phát triển phù hợp với tiến trình hội nhập với thị trường khu vực và thế giới.
Thứ năm, đề cao tính linh hoạt và năng động của toàn bộ nền kinh tế,
tạo ra mối liên kết, hỗ trợ cho các công ty lớn, tăng cường khả năng thích ứng
với sự thay đổi của các thị trường trong và ngoài nước.
1.3. Định hƣớng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.3.1.Ưu tiên phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong hoạt động hoạt
động sản xuất công nghiệp, đặc biệt ở một số lĩnh vực có lựa chọn
Trong bối cảnh Nhà nước còn nhiều khó khăn, chưa thể tập trung giải
quyết, tháo gỡ mọi vướng mắc của DNVVN được, vì vậy việc hỗ trợ cần
được lựa chọn cho các khu vực ưu tiên, đặc biệt là ưu tiên phát triển trên cơ
sở thị trường trong một số ngành lựa chọn.
Cụ thể là các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, hàng hóa thay thế nhập
khẩu và hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh; các ngành tạo đầu vào cho
các doanh nghiệp lớn, đồng thời lại phục vụ đầu ra cho các sản phẩm của
73
doanh nghiệp lớn (mạng lưới phân phối hoặc gia công bán thành phẩm); các
ngành sản xuất các sản phẩm thuộc các làng nghề truyền thống.
Nghiên cứu thực trạng của các DNVVN trong gần một thập kỷ qua cho
thấy, các DNVVN chiếm phần lớn trong công nghiệp, đóng góp phần quan
trọng trong tăng trưởng kinh tế, cũng như trong xuất khẩu, do vậy một định
hướng quan trọng thời gian tới là tiếp tục ưu tiên phát triển các DNVVN ở
lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trên đà đó triển khai sang hoạt động dịch vụ.
1.3.2. Ưu tiên phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn, coi doanh
nghiệp vừa và nhỏ là lực lượng nòng cốt của chiến lược công nghiệp hóa -
hiện đại hóa nông nghiệp
Định hướng phát triển DNVVN ở nông thôn có mối quan hệ chặt chẽ
với sự nghiệp CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn, phát triển công nghiệp
nông thôn có ý nghĩa quan trọng không những trong phát triển kinh tế đơn
thuần mà còn phát triển chính trị xã hội.
Kinh nghiệm của nhiều nước đông dân ở Châu Á cho thấy chiến lược
phát triển tại chỗ đi từ nông thôn và nông nghiệp là sự lựa chọn khôn ngoan
bởi vì nó sẽ giải quyết được mấy vấn đề sau:
Thứ nhất, việc đó sẽ giúp sử dụng được nguồn lao động dư thừa - một
trong hai yếu tố quan trọng cho tăng trưởng (vốn bằng tiền và lao động).
Thứ hai, thu nhập của người dân ở nông thôn sẽ tăng thêm làm cho sức
mua chung của xã hội tăng lên, từ đó rút ngắn khoảng chênh lệch về trình độ
phát triển giữa nông thôn và thành thị.
Thứ ba, giảm nhu cầu di dân từ nông thôn về thành thị, góp phần làm
ổn định xã hội.
Thứ tư, thúc đẩy thị trường lưu thông, phân phối ở nông thôn phát triển.
Và cuối cùng, tại các địa phương, nông thôn có sẵn nguồn nguyên vật
liệu phong phú phục vụ cho việc phát triển ngành công nghiệp tiêu dùng như
chế biến lương thực, thực phẩm.
74
1.3.3. Doanh nghiệp vừa và nhỏ phải được khuyến khích, ưu tiên phát triển
trong một số ngành nhất định mà doanh nghiệp lớn không thể có lợi thế
tham gia
Về nguyên tắc thông thường, sản xuất lớn, sản xuất với quy mô hàng
loạt bao giờ cũng cho ta hiệu quả cao hơn. Đó là xét đơn thuần về mặt hạch
toán kế toán, còn xét về hiệu quả kinh tế xã hội của toàn bộ nền kinh tế thì
chưa hoàn toàn đúng.
Thị trường cho người tiêu dùng hết sức đa dạng và phong phú và có khi
lại rất khó tính. Có những sản phẩm phải đáp ứng nhu cầu cho một số lượng
người vô cùng lớn, song cũng có những sản phẩm chỉ đáp ứng cho một số
người, một số hộ gia đình nào đó. Về phương diện linh hoạt để có thể đáp ứng
với thị trường mọi thành phần - người tiêu thụ thì đó chính là DNVVN. Tuy
nhiên trên thực tế các DNVVN đang bị o ép, đang bị các DNNN lấn sân, độc
quyền trong một số lĩnh vực. Nếu không có sự can thiệp của Nhà nước thì các
doanh nghiệp lớn thường độc quyền chiếm lĩnh mọi thị trường. Vì vậy, đã đến
lúc phải có định hướng rõ ràng về ngành sản xuất nào, sản phẩm nào, thị
trường nào và tỷ lệ bao nhiêu dành cho DNVVN.
1.3.4. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong mối liên kết chặt chẽ với
các doanh nghiệp lớn
Cụ thể DNVVN vừa phải tạo đầu vào vừa góp phần tiêu thụ đầu ra cho
doanh nghiệp lớn. Còn về phía mình các doanh nghiệp lớn phải đào tạo tay
nghề, trao đổi thông tin, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý, đồng
thời trong các hợp đồng lớn nên phân vai, giao thầu một số phần việc cho các
DNVVN.
1.3.5. Định hướng về các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ
Việc đưa ra các chính sách hỗ trợ DNVVN là một yêu cầu cấp thiết đối
với Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Một số chính sách lớn cần
75
được khẩn trương đi vào đời sống của các DNVVN như: chính sách khuyến
khích đầu tư và hỗ trợ tín dụng từ phía Nhà nước; thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư
và bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN. Hỗ trợ cho việc tăng khả năng cạnh
tranh của DNVVN trên thị trường; thực hiện đơn đặt hàng của Nhà nước: hỗ
trợ khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích về thầu phụ, hỗ trợ về mặt bằng
xây dựng cơ sở sản xuất, về thông tin, tư vấn và đào tạo nguồn nhân lực.
Có thể nói, chưa lúc nào các DNVVN lại cần đến sự hỗ trợ từ phía Nhà
nước nhiều như hiện nay. Nhiều chuyên đề và nhiều cuộc hội thảo được tổ
chức, thực hiện với mong muốn tìm ra lối thoát cho các DNVVN, mà thực ra
họ thật không “nhỏ” và không “vừa” nếu xét về góc độ đóng góp cho nền
kinh tế. Nhưng cho đến nay, mọi vấn đề, mọi thiện chí hay sự ủng hộ nhiệt
tình từ phía cấp Bộ, Ngành chưa được triển khai đồng bộ, triệt để, có chính
sách mới chỉ dừng lại trong phạm vi hội nghị và trên các dự thảo mà thôi. Vậy
thực trạng của các chính sách hỗ trợ các DNVVN có những vướng mắc gì cần
tháo gỡ? Có hai vướng mắc chính là:
Thứ nhất, mặc dù chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần đã
được cụ thể hóa thành các chính sách, giải pháp cụ thể; song chủ trương phát
triển DNVVN như là một phương hướng chiến lược trong việc phát triển kinh
tế nhiều thành phần theo chiều sâu thì cho đến nay vẫn chưa được cụ thể hóa
thành các chương trình cụ thể. Trong nhận thức của một số cơ quan quản lý
Nhà nước vẫn chưa thật sự công bằng, thậm chí bất bình đẳng đối với loại
hình kinh tế này. Ít người có được nhận thức sâu sắc rằng, nền kinh tế thị
trường là nền kinh tế của sự sáng tạo, năng động và trí tuệ, những doanh nhân
nào mang lại nhiều lợi nhuận, đóng góp nhiều cho xã hội thì đều phải được
tôn vinh như nhau. Và vì vậy, trên thực tế khu vực tư doanh của các DNVVN
vẫn bị phân biệt đối xử và ít được biết đến, ít được đánh giá đúng mức trong
guồng quay của cơ chế thị trường.
76
Thứ hai, về tổ chức quản lý của Nhà nước đối với các DNVVN: cho
đến nay vẫn chưa có một cơ quan quản lý Nhà nước nào được giao chức năng
theo dõi, tổng hợp nghiên cứu, xây dựng chính sách và điều phối hoạt động
hỗ trợ DNVVN.
Do vậy trong quá trình hình thành và phát triển của các DNVVN nhìn
từ góc độ tổ chức quản lý của Nhà nước còn có một số tồn tại cần được khắc
phục như:
Thứ nhất, hệ thống chính sách pháp luật đang trong quá trình hình
thành, chưa đồng bộ, còn quá nhiều sơ hở, chưa thật sự có tác dụng tích cực
trong việc quản lý có hiệu quả các hoạt động của các DNVVN.
Thứ hai, chính sách thuế đã có nhiều cải tiến nhưng vẫn còn bất hợp lý
chưa theo kịp với nhu cầu phát triển của các DNVVN nên tác dụng hỗ trợ còn
hạn chế.
Thứ ba, việc phân bố phát triển DNVVN không đồng đều ở các khu
vực, đa số tập trung ở các tỉnh, thành phố nơi có cơ sở hạ tầng phát triển và
thị trường tiếp thu rộng. Theo số liệu đưa ra trong Báo cáo thường niên
DNVVN Việt Nam thì miền Bắc có 18,64% doanh nghiệp; miền Trung có
18,36 % doanh nghiệp, và miền Nam là 63%.
Thứ tư, cơ cấu DNVVN chưa hợp lý, phần lớn tập trung vào lĩnh vực
thương mại và dịch vụ. Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ lại tập trung chủ
yếu vào các ngành kinh doanh có lợi nhuận cao và hoàn vốn nhanh như kinh
doanh khách sạn, nhà hàng, dịch vụ du lịch. Trong sản xuất, tập trung chủ yếu
vào các ngành công nghiệp chế biến (chiếm tới 35,2% tổng số doanh nghiệp),
chưa chú trọng đến ngành nông nghiệp.
Thứ năm, hiện nay có rất nhiều tổ chức hỗ trợ DNVVN như: trung tâm
hỗ trợ kỹ thuật DNVVN của Cục Phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ (Bộ Kế
hoạch và Đầu tư); Hiệp hội các Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam; các câu
lạc bộ hỗ trợ DNVVN. Nhưng hiệu quả hoạt động của các tổ chức này còn
77
chưa cao, còn phân tán, nhất là chưa tập trung được về một đầu mối, thống
nhất quản lý về mặt Nhà nước.
Thứ sáu, khó khăn lớn hiện nay của các DNVVN là vấn đề vốn, máy
móc thiết bị và công nghệ lạc hậu; trình độ tay nghề của công nhân thấp; năng
lực quản lý của các chủ doanh nghiệp còn yếu.
Và cuối cùng là sự thiếu thông tin kiến thức, thiếu mặt bằng sản xuất,
liên tục phải cạnh tranh gay gắt trước sự tấn công của hàng ngoại, thiếu thị
trường, thiếu sự hỗ trợ của Nhà nước.
Tóm lại, trước một thực trạng như đã phân tích ở trên, Nhà nước cần
phải sớm đưa ra một hệ thống giải pháp mang tính đồng bộ để hỗ trợ các
DNVVN.
2. Các giải pháp khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã gây ra những tác động không
nhỏ đối với các DNVVN Việt Nam và hiện tại khi mà những tác động của nó
đã được kìm chế thì những khó khăn trước mắt đối với các DNVVN Việt
Nam vẫn rõ ràng hơn bao giờ hết. Khả năng tiếp cận nguồn vốn để phục hồi
phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vẫn rất hạn chế, ngoài ra
việc duy trì chi phí đầu vào ở mức không quá cao cũng như việc tìm đầu ra
cho sản phẩm, dịch vụ cũng là những vấn đề cần phải được giải quyết. Trong
thời điểm này, để giúp các DNVVN vượt qua khó khăn hiện tại cũng như có
những tiền đề vững chắc hơn để phát triển trong tương lai thì cần phải có
những giải pháp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý Nhà nước cũng như giải
pháp của bản thân các doanh nghiệp.
2.1. Các giải pháp từ phía Nhà nƣớc
2.1.1. Nhóm giải pháp ngắn hạn
2.1.1.1. Tiếp tục thực hiện gói kích cầu để hỗ trợ lãi suất cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ
78
Gói kích cầu là một trong những giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp đang
được Chính phủ thực hiện và đã đạt được những hiệu quả ban đầu. Nguồn
kích cầu được lấy từ Quỹ dự trữ, một phần sẽ chuyển vốn chưa thực hiện của
năm 2008 sang (43.000 tỷ đồng) và từ các nguồn huy động khác như phát
hành trái phiếu đầu tư công trình giao thông (20.000 tỷ đồng). Tổng cộng giá
trị toàn bộ của gói kích cầu xấp xỉ 100.000 tỷ đồng (Nguồn: Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, 2009).
Chính phủ cũng đã quyết định dùng gói kích cầu để hộ trợ lãi suất năm
2009 cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ là chính. Mức bù lãi suất đang được xem
xét, song theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư có thể sẽ vào khoảng 4%, tức là nếu lãi
suất vay ngân hàng của các DNVVN là 10% thì người đi vay chỉ phải trả 6% lãi.
Gói kích cầu sẽ có tác dụng giúp các DNVVN giải quyết khó khăn, tạo việc làm
cho người lao động, tăng tiêu dùng sản phẩm. Tuy nhiên để gói kích cầu có thể
phát huy hết tác dụng của nó thì cần phải có các giải pháp đồng bộ đi kèm khác
mà điển hình là giải pháp giãn, giảm thuế cho doanh nghiệp.
Gói kích cầu của Chính phủ là một giải pháp đang được triển khai và
bước đầu đã cho thấy những hiệu quả của nó. Nó đã có tác động đáng kể đến
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp đối phó
hiệu quả hơn trước khó khăn cũng như đem lại động lực phát triển cho nền
kinh tế, tránh khỏi nguy cơ về một sự tụt dốc trong tương lai. Bởi vậy gói kích
cầu này cần được tiếp tục thực hiện và có thể mở rộng quy mô hơn nữa.
2.1.1.2. Cắt giảm lãi suất cơ bản
Theo những số liệu mới nhất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư có thể thấy
được mức độ lạm phát trong những tháng đầu năm 2009 đã được kiềm chế
một cách đáng kể và là một tín hiệu đáng mừng cho nền kinh tế. Mức tăng
trưởng của chỉ số giá tiêu dùng trong bốn tháng đầu năm 2009 lần lượt là
0,32%; 1,15%; -0,17% và 0,35%. Chỉ số giá tiêu dùng trong tháng 4/2009 so
với thời điểm cuối năm 2008 chỉ tăng 1,68%. Nỗi lo âu của hầu hết các quốc
79
gia bây giờ không còn là đối phó với lạm phát thế nào mà là nỗi lo về nguy cơ
của sự suy thoái kinh tế toàn cầu theo đúng chu kỳ của nền kinh tế mà các lý
thuyết kinh tế học đã chỉ ra.
Một trong những giải pháp trước mắt mà NHNN có thể thực hiện đó là
giảm lãi suất cơ bản ở một mức thích hợp để khuyến khích sản xuất và đầu tư,
tạo động lực phát triển cho nền kinh tế, tránh khỏi nguy cơ suy thoái trước
mắt. Lãi suất cơ bản giảm xuống sẽ kéo theo sự giảm xuống của lãi suất cho
vay của các NHTM. Điều đó sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam nói
chung cũng như các DNVVN nói riêng có thể dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn
để duy trì hoạt động kinh doanh, vượt qua những khó khăn trước mắt cũng
như phát triển trong giai đoạn tiếp theo.
2.1.1.3. Giải pháp về thuế
Thuế là một trong những chính sách quan trọng tác động đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Nó không chỉ điều tiết phân phối thu nhập, mà
còn có vai trò trong việc điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế, kích thích hoặc hạn
chế hoạt động kinh doanh của từng ngành, từng khu vực. Kinh nghiệm cho
thấy, thuế suất hợp lý thì thu được thuế cho ngân sách, ngược lại thuế quá cao
hay thuế không hợp lý thì người dân sẽ tìm mọi cách để tránh thuế, kết quả là
Nhà nước thất thu, doanh nghiệp chịu thiệt, còn người được lợi là cán bộ thu
thuế mất phẩm chất.
Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay, các doanh nghiệp đặc biệt là các
DNVVN gặp rất nhiều khó khăn trong việc khắc phục những ảnh hưởng của
khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng như phải chuẩn bị đối phó với những
nguy cơ suy thoái kinh tế trước mắt thì những hỗ trợ kịp thời về chính sách
thu thuế đối với các doanh nghiệp là vô cùng cần thiết. Để hỗ trợ cho các
DNVVN đặc biệt trong khâu cuối của một chu kỳ sản xuất kinh doanh đó là
nộp thuế, khóa luận xin được đưa ra một số đề xuất sau:
80
Thứ nhất, miễn hoặc giảm thuế cho nhập khẩu nguyên liệu cho các doanh
nghiệp đang phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu hiện tại đang
trong tình trạng khó khăn trong thời gian 6 tháng đến 1 năm để doanh nghiệp có
thể tiết kiệm chi phí đầu vào, từng bước ổn định và phát triển sản xuất.
Thứ hai, hiện nay các doanh nghiệp sản xuất kể cả doanh nghiệp lớn
mới đi vào hoạt động được miễn thuế thu nhập 2 năm đầu và giảm 50% với 2
năm tiếp theo. Nhưng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới đi vào hoạt động
nên miễn giảm thêm từ 6 tháng đến 1 năm.
Thứ ba, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp sử
dụng nhiều nhân công, các doanh nghiệp sử dụng ít vốn nhưng có hàm lượng lao
động nhiều như các xí nghiệp dệt may, sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ.
2.1.2. Nhóm giải pháp dài hạn
2.1.2.1. Hỗ trợ xây dựng các vùng cung cấp nguyên liệu lâu dài cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ
Như chúng ta đã biết, một trong những lý do khiến các doanh nghiệp
Việt Nam nói chung cũng như các DNVVN nói riêng lại chịu nhiều ảnh
hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là các doanh nghiệp nước ta
phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu đầu vào nhập khẩu từ nước ngoài
và giá cả quốc tế. Một khi giá cả quốc tế tăng nhanh tăng nhanh thì hầu như
doanh nghiệp không thể có giải pháp thay thế nào để giảm chi phí đầu vào bởi
vì nguồn cung nguyên liệu trong nước vừa yếu, vừa thiếu và không ổn định.
Bởi vậy Nhà nước nên có những nghiên cứu cụ thể để có thể cân nhắc
và triển khai xây dựng các vùng cung cấp nguyên liệu đầu vào có chất lượng
cao và đảm bảo tính ổn định trong dài hạn. Mặc dù các dự án này đỏi hỏi phải
có một sự nghiên cứu và tính toán kỹ lưỡng về các vấn đề như địa điểm xây
dựng, công nghệ áp dụng, cách thức tổ chức quản lý cũng như chi phí đầu tư
nhưng một khi triển khai thành công, nó sẽ phát huy tác dụng rất lớn đối với
các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Các doanh nghiệp sẽ
81
chủ động được phần lớn nguyên liệu đầu vào sản xuất mà không phụ thuộc
quá nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Ngoài ra sự ổn định của nguồn
cung nguyên liệu đầu vào kể cả về giá và lượng cũng sẽ tạo điều kiện giúp
kiểm soát tốt hơn chi phí sản xuất của mình cũng như đề ra những phương án
kinh doanh lâu dài. Còn đối với nền kinh tế nó sẽ giúp giảm nhập siêu, ổn
định cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ cũng như đảm bảo cho một mức
tăng trưởng cao hơn.
2.1.2.2. Thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư cho doanh nghiệp vừa và nhỏ
Đây là một công cụ chính sách quan trọng để thúc đẩy sự phát triển
DNVVN. Những quỹ này được thành lập từ các nguồn hỗ trợ của Nhà nước,
tín dụng ngân hàng, các trợ giúp từ phía nước ngoài. Ngoài việc đưa ra các
điều khoản tín dụng với lãi suất thấp hơn, quỹ hỗ trợ DNVVN còn có thể đưa
ra các điều khoản tín dụng đặc biệt như tín dụng để mua sắm và cho thuê máy
móc thiết bị để áp dụng công nghệ mới.
Theo kinh nghiệm của một số nước trên Thế giới, có thể thực hiện giải
pháp thành lập quỹ hỗ trợ DNVVN thông qua các hình thức sau:
Thứ nhất, thông qua hình thức thành lập công ty đầu tư và tín dụng
DNVVN với mục đích khuyến khích việc thành lập doanh nghiệp mới, trợ
giúp việc mở rộng quy mô và hiện đại hóa các doanh nghiệp hiện có. Chức
năng của công ty này là cho vay dài hạn và trung hạn (khắc phục được mặt
hạn chế của các NHTM là cho vay ngắn hạn). Ngoài ra công ty còn thực hiện
việc cầm cố vốn, xác nhận việc phát hành cổ phiếu và giấy vay, cung cấp các
dịch vụ tài chính như nợ chậm trả, bán trả dần, nợ tài sản.
Thứ hai, ngoài hình thức thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư cho DNVVN lấy
vốn từ ngân sách Nhà nước như đã nói trên, cần thiết phải thành lập quỹ hỗ
trợ phát triển các DNVVN từ nguồn viện trợ ODA để tài trợ cho các DNVVN
82
hoạt động kinh doanh có hiệu quả theo các tiêu thức quy định và được kiểm
toán chặt chẽ.
2.1.2.3. Thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho vay các doanh nghiệp vừa và
nhỏ
Theo công bố của Vụ Tín dụng (NHNN) dư nợ cho vay doanh nghiệp
vừa và nhỏ đến 31/7/2008 của các NHTM đạt 299.472 tỷ đồng (chiếm 27,3%
tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế), tăng 16,65% so với 31/12/2007 và tăng
70,5% so với 31/12/2006. Trong đó, cho vay ngắn hạn chiếm 73,05%, cho
vay trung và dài hạn chiếm 26,95%. Tuy nhiên, sự phát triển về quy mô tín
dụng nói trên cũng chưa tương xứng với tiềm năng, phát triển của các
DNVVN. Thiếu vốn vẫn là một trong những vấn đề búc xúc cần được tháo gỡ
ngay đối với các DNVVN.
Một trong những nguyên nhân thiếu vốn hiện nay của các DNVVN là
khó có thể tiếp cận được với các nguồn vay chính thức do các DNVVN không
có khả năng thế chấp. Để giải quyết vấn đề này Nhà nước cần có chính sách
ưu đãi đối với các doanh nghiệp thông qua việc thành lập quỹ bảo lãnh tín
dụng. Chức năng chủ yếu của quỹ là giúp các DNVVN tiếp cận được vốn vay
của ngân hàng trong các trường hợp thiếu tài sản thế chấp, cầm cố ở ngân
hàng và những tổ chức tín dụng khác.
Nguồn vốn của quỹ đầu tiên sẽ xuất phát từ nguồn ngân sách và đóng
góp của ngân hàng, các hiệp hội tín dụng, các doanh nghiệp và các tổ chức
khác. Các quỹ này không chỉ phục vụ cho lợi ích của của các DNVVN mà
còn tạo điều kiện cho các ngân hàng và các tổ chức tín dụng yên tâm, làm
việc có hiệu quả hơn trong công việc cung cấp tài chính vì rủi ro có thể được
chia sẻ. Sự ra đời của quỹ bảo lãnh tín dụng sẽ giúp cho các DNVVN tiếp cận
được các nguồn vay chính thức thay vì dựa vào các khu vực tài chính phi
chính thức như hiện nay.
Để tiến tới xây dựng quỹ bảo lãnh đối với DNVVN cần phải có ý kiến
đóng góp từ nhiều phía. Qua thực tế khảo sát, nghiên cứu cũng như dựa vào
83
kinh nghiệm hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng ở một số nước trên thế giới,
khóa luận thấy rằng nên hướng vào một số đề xuất sau: Thứ nhất, Nhà nước
sẽ cấp vốn ban đầu cho quỹ, sau đó có thể rút dần theo mức tích lũy và sự lớn
mạnh của quỹ. Thứ hai, Nhà nước tái bảo lãnh miễn phí ở một số tỷ lệ nào đó
(khoảng 50%) số dư bảo lãnh của tổ chức bảo lãnh. Thứ ba, quỹ chỉ bảo lãnh
một phần tín dụng thiếu bảo đảm, mà một mức hợp lý 70% phần tiền vay đảm
bảo, còn lại 30% ngân hàng cho vay phải gánh chịu. Thứ tư, quỹ không nên
có quan hệ trực tiếp với doanh nghiệp vay vốn. Khách hàng của quỹ là các
ngân hàng thương mại. Điều này giúp quỹ giảm bớt khối lượng công việc,
tương tự sẽ giảm đỡ phí bảo lãnh cho các doanh nghiệp. Và cuối cùng, quỹ
không phải là một tổ chức tín dụng hoạt động không vì mục đích lợi nhuận
nên không thể chịu sự điều chỉnh khuôn khổ luật các tổ chức tín dụng. Vấn đề
đặt ra ở đây là Nhà nước cần có một nghị định riêng điều chỉnh cơ chế hoạt
động của quỹ.
2.1.2.4. Giải pháp về mở rộng thị trường và tăng khả năng cạnh tranh cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong sản xuất, kinh doanh
Nói đến hoạt động sản xuất, xuất khẩu của bất kỳ một doanh ghiệp nào
không thể không nói đến thị trường đầu ra cho sản phẩm đó. Hiện nay, tiếp
cận thị trường đang là vấn đề khó khăn chung cho các doanh nghiệp, trong đó
DNVVN lại càng khó khăn hơn.
Thị trường của các DNVVN bao gồm thị trường trong nước và thị
trường nước ngoài. Không thể xếp loại thứ tự vị trí thị trường nội địa và thị
trường nước ngoài, thị trường nào quan trọng hơn và thị trường nào ít quan
trọng hơn. Nhưng trong bối cảnh hiện nay DNVVN với khả năng vốn hạn hẹp
và công nghệ lạc hậu thì việc vươn ra thị trường nước ngoài với quy mô lớn
chắc chắn sẽ gặp không ít trở ngại. Do vậy các DNVVN nên đặt mối quan
tâm hàng đầu chính là thị trường trong nước và mong muốn có sự can thiệp
của Nhà nước. Các biện pháp chống hàng buôn lậu, hàng giả, hàng cấm
không được thi hành kịp thời và đúng mức. Đó là chưa nói đến thị trường
84
trong nước không được bảo hộ, sự ồ ạt xâm nhập thị trường của hàng ngoại,
hàng liên doanh, khu chế xuất một cách thái quá đã vô tình cô lập, gạt bỏ
hàng hóa của các DNVVN vốn đang thiếu tính cạnh tranh.
Vì vậy để có một chính sách thị trường và cạnh tranh hỗ trợ lành mạnh
cho các DNVVN phải có nỗ lực từ hai phía: Nhà nước, cơ quan tư vấn, xúc
tiến của tổ chức xã hội và bản thân các doanh nghiệp. Chính sách này trước
hết phải đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng, không có hiện tượng độc quyền,
chiếm lĩnh thị trường theo kiểu cá lớn nuốt cá bé. Và sự hỗ trợ can thiệp của
Nhà nước đối với các DNVVN đặc biệt có ý nghĩa trong việc tạo ra sự bình
đẳng cho các doanh nghiệp trong một sân chơi chung. Điều quan trọng là biện
pháp hỗ trợ phải được thực hiện ngay từ khi khởi sự hoạt động kinh doanh
cho đến suốt quá trình kinh doanh cũng tức là tạo sự bình đẳng về cơ hội kinh
doanh cho mỗi doanh nghiệp, trợ giúp DNVVN khắc phục những nhược điểm
của mình đủ sức vươn lên trong cuộc cạnh tranh bình đẳng trên thị trường.
Đối với thị trường trong nước, trước hết Chính phủ nên tạo điều kiện
thuận lợi cho các DNVVN tham gia vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng
bằng vốn đầu tư từ ngân sách. Ở một số khu vực chi tiêu công cộng ở địa
phương, DNVVN là người cung cấp quan trọng. Thứ hai, cần đẩy mạnh chính
sách hỗ trợ mối liên kết giữa các doanh nghiệp lớn và các DNVVN, tạo điều
kiện cho các DNVVN có thể là vệ tinh cung cấp nguyên vật liệu, bán hàng,
sản xuất phụ tùng, phân phối sản phẩm cho các doanh nghiệp lớn như yêu cầu
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất những sản phẩm như ô tô, xe
máy phải có tỷ lệ nội địa hóa cao (tăng dần theo thời gian).
Đối với thị trường ngoài nước, thứ nhất DNVVN cần được giúp đỡ về
các thủ tục để tiếp cận thị trường ngoài nước như: đơn giản hóa các thủ tục
đăng ký kinh doanh, loại bỏ các loại giấy tờ không cần thiết. Thứ hai, cần
thực hiện rộng rãi chính sách thưởng xuất khẩu, kể cả sử dụng quỹ hỗ trợ xuất
khẩu, nhằm khuyến khích mạnh hơn nữa việc thu hút ngoại tệ về cho đất
85
nước. Riêng đối với DNVVN, cần phải khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu
dù khối lượng ban đầu và số ngoại tệ còn rất ít. Thứ ba, các cơ quan chức
năng cần phải giúp đỡ các DNVVN nắm bắt được thông tin, nâng cao hiểu
biết về luật lệ thương mại quốc tế để có thể hội nhập một cách sâu rộng hơn
với thị trường quốc tế.
2.1.2.4. Giải pháp về công nghệ
Một trong những tồn tại hiện nay trong khu vực DNVVN và là nguyên
nhân dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, chất lượng sản phẩm thấp, khả
năng cạnh tranh kém, đó là công nghệ lạc hậu. Tuy nhiên do nguồn vốn hạn
chế các doanh nghiệp không đủ khả năng nhập khẩu các thiết bị có hàm lượng
công nghệ cao. Đó dường như là cái vòng luẩn quẩn mà các doanh nghiệp vừa
và nhỏ dường như không thể có cách nào tự khắc phục được. Do vậy, Chính
phủ phải có các chính sách hỗ trợ như: bảo lãnh giúp các DNVVN có thể mua
được những công nghệ hiện đại từ nước ngoài; khuyến khích và tăng thời gian
miễn thuế, giảm thuế đối với các dự án đổi mới công nghệ; các ngân hàng
thương mại nên mở rộng các hình thức tín dụng vay trung và dài hạn cho các
DNVVN để đổi mới công nghệ, kể cả hình thức cho thuê tài chính.
2.1.2.5. Các giải pháp đào tạo cán bộ và nguồn nhân lực
Nhìn chung các chủ DNVVN đa phần đều là những người không được
qua đào tạo một cách bài bản về các kiến thức kinh tế học cũng như kỹ năng
quản lý chuyên nghiệp. Đây là một hạn chế rất lớn trong hoạt động của các
DNVVN và cũng lý giải cho một hiện tượng khá phổ biến hiện nay đối với
các DNVVN là thành lập nhanh chóng và cũng giải thể nhanh. Các doanh
nghiệp chỉ có thể thành công được trong nền kinh tế thị trường chỉ khi đội ngũ
lãnh đạo của các doanh nghiệp đó là những doanh nhân sáng tạo, năng động,
thích nghi và nhạy bén với từng biến động của thị trường. Do vậy Nhà nước
ta cần phải có những chính sách phù hợp để đào tạo đội ngũ quản lý cho khu
vực DNVVN như: thành lập các hiệp hội người chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ
dưới sự quản lý và giám sát về chuyên môn của các cơ quan hữu quan để họ
có môi trường trao đổi, học hỏi những kiến thức cũng như kinh nghiệm quản
86
lý của nhau; kết hợp với các tổ chức đào tạo kỹ năng quản lý chuyên nghiệp
để tổ chức những khóa ngắn hạn đào tạo kỹ năng quản lý cho các chủ doanh
nghiệp ngay tại địa phương hoạt động.
Vấn đề đào tạo nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động trong các
DNVVN luôn là vấn đề nản giải từ lâu nay. Các DNVVN hoặc là ở trong tình
trạng không có khả năng về kinh phí đào tạo lực lượng chuyên môn cho mình
hoặc tự bỏ chi phí đào tạo, nhưng nhiều người sau khi được doanh nghiệp đào
tạo lại bỏ sang nơi khác làm việc, gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Do đó, Nhà
nước cần có biện pháp khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở đào tạo thuộc các
ngành, địa phương, các Tổng công ty lớn giúp các DNVVN trong đào tạo,
huấn luyện nhân lực bằng các hình thức thích hợp. Mặt khác trong văn bản
pháp lý về lao động, cần có quy định cụ thể hơn về trách nhiệm và nghĩa vụ
của người lao động được doanh nghiệp hỗ trợ kinh phí đào tạo nhưng không
thực hiện cam kết làm việc cho doanh nghiệp theo thỏa thuận.
2.1.2.6. Giải pháp về một môi trường pháp lý lành mạnh cho các doanh
nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng
Hiện nay xu thế hội nhập, toàn cầu hóa vẫn đang là xu hướng chủ đạo
của nền kinh tế thế giới. Và bất kỳ một nước nào muốn phát triển nền kinh tế
của mình thì chắc chắn không thể không có những chiến lược lâu dài để hội
nhập ngày càng sâu rộng hơn với nền kinh tế toàn cầu. Chính sách mở cửa
nền kinh tế được coi là một kết cục quan trọng, việc nhập khẩu các nguồn vốn
và hàng hóa bên ngoài cho phép các doanh nghiệp có thể cải thiện các điều
kiện sản xuất một cách đáng kể, xác định lại cơ cấu của nền kinh tế.
Một hệ thống pháp luật được cải thiện tốt hơn (ví dụ như giảm thuế thu
nhập, giá thuế đất hợp lý, quyền được chuyển lợi nhuận ra nước ngoài) chắc
chắn sẽ tạo ra các điều kiện ưu đãi hơn cho dòng vốn đi vào. Một hành lang
pháp lý thông thoáng với các thủ tục hành chính gọn nhẹ cũng như nhiều
chính sách ưu đãi sẽ là một đòn bẩy vô cùng hiệu quả giúp các doanh nghiệp
nói riêng và nền kinh tế nói chung trở nên năng động hơn cũng như tạo tiền
87
đề vô cùng quan trọng để tận dụng các nguồn lực trong nước cũng như ngoài
nước một cách hiệu quả nhất.
2.2. Các giải pháp từ phía các doanh nghiệp vừa và nhỏ
2.2.1. Nhóm giải pháp ngắn hạn
2.2.1.1. Tiết kiệm các chi phí môt cách triệt để
Trong giai đoạn khó khăn hiện tại, khi chi phí đầu vào quá cao là mối
lo lớn nhất đối với việc duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của các
DNVVN thì giải pháp cần kíp nhất là doanh nghiệp phải tiết kiệm các chi phí
một cách triệt để. Doanh nghiệp cần phải cắt giảm mọi khoản chi tiêu không
cần thiết, phát động phong trào tiết kiệm trong mọi bộ phận, cán bộ công nhân
viên trong tổ chức. Bên cạnh đó là việc rà soát lại tình hình nhân sự để tinh
giản bộ máy, giảm bớt một số lao động thừa, không cần thiết. Nhiều doanh
nghiệp có thể triển khai việc chuyển ca làm việc từ giờ cao điểm sang giờ
khác để tiết kiệm điện, sử dụng phương tiện tin học để trao đổi trong công
việc, hạn chế hội họp.
2.2.1.2. Sử dụng nguồn nhân lực hiệu quả
Gốc của nước là dân, gốc của doanh nghiệp là người lao động, nước
sống nhờ dân, công ty tồn tại nhờ người lao động, nhất là trong thời kỳ khó
khăn. Doanh nghiệp có thể cắt giảm nguồn nhân lực, nhưng phải có chọn lọc
và hết sức cẩn thận, hoặc thực hiện chính sách chuyển đổi hợp đồng lao động
phù hợp như chuyển một số nhân viên chính thức thành nhân viên tạm thời
hay cộng tác viên, giúp cho công ty có thể cắt giảm nguồn chi phí.
Doanh nghiệp cũng cần quan tâm tới đời sống, tâm lý của nhân viên
hơn, tạo sự yên tâm, tin tưởng của nhân viên vì trong nhân viên xuất hiện tư
tưởng chán nản do sợ bị mất việc và tiền lương thực tế giảm. Doanh nghiệp
có thể gắn kết nhân viên với mình bằng những yếu tố ngoài tiền lương, như
văn hóa doanh nghiệp, môi trường làm việc. Trong thời kỳ khó khăn, những
yếu tố này cần được sử dụng triệt để.
88
2.2.1.3. Đổi mới chiến lược kinh doanh trong ngắn hạn
Đổi mới chiến lược kinh doanh trong ngắn hạn sẽ giúp doanh nghiệp
đối phó với khó khăn trước mắt một cách linh hoạt và hiệu quả cũng như tạo
tiền đề phát triển lâu dài của cho doanh nghiệp. Một chiến lược kinh doanh
ngắn hạn phù hợp trong thời kỳ này được thể hiện qua việc đầu tư có trọng
điểm, tái cơ cấu tổ chức hợp lý.
Trong giai đoạn nền kinh tế đang gặp những khó khăn như hiện nay,
doanh nghiệp cần tránh đầu tư đa ngành, dàn trải, kém hiệu quả. Các danh
mục đầu tư của doanh nghiệp cần phải được thu gọn và chỉ tập trung vào các
dự án có tiềm năng và vốn đầu tư đảm bảo. Doanh nghiệp nên từ chối các dự
án không khả thi như khả năng thanh khoản không rõ ràng, lợi nhuận thực
thấp (lỗ so với tỉ lệ lạm phát). Các dự án đầu tư có thời gian thu hồi vốn lâu
như bất động sản, khu công nghiệp nên được tính toán và cân nhắc kỹ càng.
Ngược lại, các dự án "đánh nhanh thắng nhanh" như đầu tư vào các mặt hàng
tiêu dùng nên được doanh nghiệp ưu tiên để thu hồi vốn, luân chuyển nhanh
luồng tiền.
Bên cạnh đó, trong ngắn hạn, việc cơ cấu lại tổ chức sản xuất cũng là
một giải pháp cấp bách. Doanh nghiệp cần cơ cấu lại sản xuất kinh doanh
theo tinh thần “đánh nhanh thắng nhanh, đánh chắc thắng chắc”, tập trung sản
xuất những mặt hàng có lợi nhuận cao, tạm dừng những mặt hàng lợi nhuận
thấp hoặc chưa có thị hiếu tiêu dùng. Các doanh nghiệp cũng có thể tạo ra cơ
cấu tổ chức mới, bằng phương thức liên kết nhiều mô hình khác nhau, như
hình thành các tập đoàn, các công ty lớn để tạo ra những khả năng tích tụ, tập
trung vốn và tăng nhanh thâm nhập thị trường.
2.2.2. Nhóm các giải pháp dài hạn
2.2.2.1. Chủ động nguồn cung nguyên liệu đầu vào mang tính ổn định và lâu
dài đối với các doanh nghiệp sản xuất
89
Doanh nghiệp phải có những giải pháp mang tính dài hạn để chủ động
nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào lâu dài và ổn định cho sản xuất, giúp
kiểm soát chi phí một cách hiệu quả và chủ động hơn trong việc đối phó với
những biến động của thị trường. Một số đề xuất đó là: với các doanh nghiệp
chế biến thực phẩm có nguyên liệu đầu vào là những nông sản, thủy sản thì
nên có những chính sách hỗ trợ bà con vùng sản xuất nguyên liệu bao tiêu sản
phẩm một cách lâu dài với giá hợp lý nhằm có được nguồn cung mang tính ổn
định. Bên cạnh đó là việc hỗ trợ kiến thức, kỹ thuật cho bà con để nâng cao
chất lượng nguồn cung đầu vào cho quá trình sản xuất của các doanh nghiệp.
2.2.2.2. Xây dựng chiến lược đầu tư lâu dài
Doanh nghiệp không nên đầu tư dàn trải, mà nên có chiến lược đầu tư
trọng điểm, lâu dài. Các doanh nghiệp nếu lựa chọn được các công ty niêm
yết có triển vọng kinh doanh tốt và bất động sản ở vị trí đắc địa thì có thể đầu
tư và kỳ vọng lãi cao về dài hạn. Doanh nghiệp cũng không vì khó khăn trước
mắt mà cắt giảm chi phí marketing bởi khi các đối thủ cạnh tranh cắt giảm
quảng cáo thì các thương hiệu tăng quảng cáo trong thời kỳ suy thoái sẽ có
hiệu quả. Nếu buộc phải cắt giảm quảng cáo thì có thể chuyển từ quảng cáo
30 giây sang quảng cáo 15 giây, từ tivi sang đài phát thanh.
2.2.2.3. Từng bước nâng cao chữ tín trong kinh doanh
Chữ tín trong kinh doanh là tài sản vô hình quý giá mà doanh nghiệp
không phải mất vốn đầu tư. Điều này càng có ý nghĩa đối với DNVVN vì như
chúng ta đã phân tích, phần lớn các DNVVN chưa tạo dựng được lòng tin đối
với khách hàng. Để có chữ tín, hiệu quả kinh doanh vẫn chưa đủ, giống như
yêu cầu tài đức phải song toàn. Vì vậy các DNVVN cần xây dựng mối quan
hệ làm ăn tin cậy với ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác, với các bạn hàng
(để tăng khả năng mua chịu), và với người lao động (để huy động vốn từ cán
bộ, nhân viên của công ty), tránh kiểu làm ăn chụp giật, nợ nần dây dưa,
không để “con sâu làm rầu nồi canh”.
90
2.2.2.4. Xây dựng chiến lược cạnh tranh hợp lý
Các doanh nghiệp cần có chương trình đổi mới công nghệ, giảm thiểu chi
phí, nâng cao chất lượng hàng hóa. Giải quyết được đầu ra là vấn đề sống còn
của doanh nghiệp, vì vậy để xây dựng được một chiến lược cạnh tranh hợp lý
trong xu thế hội nhập, các DNVVN phải tập trung vào ba nội dung chủ yếu sau:
Chiến lược thứ nhất đó là chiến lược tối thiểu hóa chi phí. Với chiến
lược này, các DNVVN Việt Nam phải có khả năng cung cấp hàng hóa và dịch
vụ với chi phí thấp hơn chi phí của đối thủ. Chiến lược này cần tạo ra hai ưu
thế cơ bản:
Thứ nhất, do chi tiêu thấp hơn, các doanh nghiệp có thể đưa ra giá bán
hàng và dịch vụ thấp hơn giá của đối thủ và do vậy thu nhiều lợi nhuận hơn,
thậm chí cao hơn đối thủ.
Thứ hai, khi chiến tranh giá cả xảy ra, các doanh nghiệp với chi phí
thấp hơn vẫn có lợi thế cạnh tranh vì biên độ giá giảm so với đối thủ.
Để thực hiện chiến lược này, các doanh nghiệp cần tập trung vào việc
cắt giảm tổng chi phí, hay nói cách khác là các chi phí cố định. Đây là điểm
lợi thế của các DNVVN Việt Nam bởi cơ cấu nhỏ và linh hoạt, các doanh
nghiệp có thể giảm tổng chi phí nhanh hơn các doanh nghiệp có quy mô lớn.
Chiến lược thứ hai là chiến lược làm khác biệt sản phẩm và dịch vụ. Đa
dạng hóa là điểm mạnh của những doanh nghiệp có quy mô lớn, có tiềm lực
tài chính và nghiên cứu, trong khi khác biệt hóa là điểm mạnh của các
DNVVN Việt Nam nói chung. Các doanh nghiệp có sự linh hoạt hơn trong
các thay đổi khác biệt hóa sản phẩm do nhanh nhạy đưa ra quyết định, chi phí
thấp hơn so với các doanh nghiệp lớn.
Để thực hiện chiến lược này, các DNVVN Việt Nam cần được trang bị
những kỹ năng cao hơn trong hoạt động marketing cũng như cần sự trợ giúp
từ Chính phủ vì họ thiếu khả năng tiến hành nghiên cứu thị trường thế giới.
91
Chiến lược thứ ba là chiến lược tập trung vào thị trường nhãn hiệu. Thị
trường nhãn hiệu được hiểu là một phần nhỏ nhóm khách hàng, một phân
đoạn nhỏ trong thị trường quốc tế. Các DNVVN Việt Nam hiện nay khó có
thể tiếp cận được thị trường lớn của thế giới, họ chỉ có thể tìm kiếm và tập
trung mọi nguồn lực vào những “thị trường nhỏ”, hay nói cách khác là thị
trường ngách. Ví dụ các doanh nghiệp Thái Lan sản xuất và xuất khẩu gia vị
rất thành công khi họ nhắm vào khách hàng là những người Châu Á đang sinh
sống tại Châu Âu và Châu Mỹ. Bởi vậy, ngoài hương vị và các nguyên liệu
chế biến, đóng gói, kênh tiêu thụ và hệ thống phân phối đều nhằm vào nhóm
khách hàng này.
Để đạt được chiến lược này, các DNVVN Việt Nam ngoài nỗ lực của
bản thân họ cần phải có sự cộng tác, phối hợp, hỗ trợ của các tổ chức đại diện
trong một hệ thống tổng thể và đồng bộ. Bởi vậy các hoạt động dự án hỗ trợ
DNVVN Việt Nam đóng vai trò rất quan trọng.
2.2.2.5. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý
Trong kinh doanh có câu châm ngôn “chỉ có nhà quản lý tồi chứ không
có doanh nghiệp tồi”. Qua điều tra những doanh nghiệp tăng trưởng mạnh thì
thấy nhân tố người quản lý có vị trí quyết định. Mặc dù trong thời gian qua, tỷ
lệ đội ngũ cán bộ quản lý DNVVN có bằng cấp và có kinh nghiệm đã được
nâng cao. Tuy nhiên, so với yêu cầu của nền kinh tế thị trường đặt ra thì vẫn
chưa đáp ứng được. Vì vậy, các DNVVN phải bố trí nguồn kinh phí cũng như
sự quan tâm thích đáng đến việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý.
Trong chương III này, khóa luận đã đề xuất một số giải pháp từ phía
Nhà nước cũng như từ phía các doanh nghiệp để khắc phục những khó khăn
do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ra. Để các giải pháp này phát huy
được hết hiệu quả thì việc phối kết hợp và thực hiện đồng bộ giữa các cơ quan
92
Nhà nước các cấp như Chính phủ với các bộ ngành liên quan, các cơ quan
chính quyền địa phương các cấp với các doanh nghiệp là vô cùng cần thiết.
KẾT LUẬN
Do tầm quan trọng của nền tài chính Mỹ đối với nền tài chính toàn cầu
và độ liên kết chặt chẽ của nó với thị trường tài chính các nước khác, cuộc
khủng hoảng nợ dưới chuẩn Mỹ năm 2007 đã nhanh chóng biến thành cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay. Cuộc khủng hoảng tài chính đang
diễn ra đã gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế thế giới cũng như
nền kinh tế Việt Nam, và theo dự đoán những ảnh hưởng của nó vẫn có thể
kéo dài cho đến hết năm 2009.
Trong số các doanh nghiệp Việt Nam, đối tượng chịu tác động nặng nề
nhất chính là các doanh nghiệp vừa và nhỏ - một bộ phận rất quan trọng đối
với nền kinh tế quốc dân. Các tác động trực tiếp cũng như gián tiếp của cuộc
khủng hoảng đã khiến các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp phải rất nhiều khó
93
khăn trong việc kiểm soát chí phí đầu vào, huy động vốn sản xuất kinh doanh
cũng như tìm thị trường đầu ra cho sản phẩm, dịch vụ. Tình hình trước mắt
vẫn còn rất nhiều khó khăn đối với các doanh nghiệp khi những diễn biến
phức tạp của cuộc khủng hoảng đang rất khó dự báo, trong khi nguy cơ về
một cuộc suy thoái kinh tế đối với nền kinh tế thế giới cũng như nền kinh tế
Việt Nam đang trở nên rõ ràng. Cho nên yêu cầu bức thiết trước mắt là Chính
phủ cần đưa ra những giải pháp kịp thời nhằm giúp các doanh nghiệp vừa và
nhỏ có thể vượt qua những khó khăn mang tính chất vĩ mô của nền kinh tế.
Về phía mình, các doanh nghiệp cũng cần có những điều chỉnh linh hoạt cơ
cấu quản lý sản xuất kinh trong trong ngắn hạn cũng như đề ra những chiến
lược kinh doanh phù hợp hơn trong dài hạn. Như vậy các doanh nghiệp vừa
và nhỏ Việt Nam mới có thể phát huy được hết vai trò quan trọng của mình,
tiếp tục đóng góp nhiều hơn nữa cho nền kinh tế quốc dân cũng như cho mục
tiêu chung phát triển xã hội.
94
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt:
1. Trần Văn Thọ & Trần Lê Anh, Thanh niên Online (16/10/2008),
Khủng hoảng tài chính Mỹ và những ảnh hưởng,
2. Hồ Xuân Phương & Vũ Đình Ánh, Học Viện Tài chính (2003), Giải
pháp phòng ngừa khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Việt Nam.
3. Hoàng Công Bảo, Đại học Ngoại thương (1998), Luận văn thạc sỹ:
Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với xuất khẩu trong điều kiện
Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới.
4. BBC Tiếng Việt (2009), Chuyên đề suy thoái kinh tế toàn cầu,
isis.shtml
5. Bộ Công thương (2009), Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm
vụ kế hoạch năm 2008 và kế hoạch năm 2009 của ngành công thương.
6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
(2008), Báo cáo thường niên doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam 2008.
7. Bộ Ngoại giao (2009), Lạm phát - kiểm soát lạm phát,
8. Ngọc Châu, Vnexpress (2008), 80% doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp khó
khăn,
9. Nguyễn Đăng Dờn, NXB Thống kê (2008), Giáo trình lý thuyết Tài
chính-Tiền tệ.
10. Khánh Hoa, CafeF (2008), Khủng hoảng tài chính, diễn biến qua
các con số,
dien-bien-qua-nhung-con-so.chn
95
11. Phương Nam, Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online (2009), Tiêu thụ trong
nước là quan trọng nhất,
12. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2009), Thông tin về lãi suất,
13. Saga (2008), Nợ dưới chuẩn và suy thoái kinh tế 2008,
14. Trần Sửu, NXB Lao Động (2006), Năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp trong thời đại toàn cầu hóa
15. Tổng cục Thống kê (2009), Tình hình kinh tế - xã hội năm 2008,
16. Vietnamnet (2008), Thủ tướng: tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp
vừa và nhỏ,
17. Vneconomy (2008), ảnh hưởng khủng hoảng tài chính đến Việt Nam:
được và mất,
huong-khung-hoang-tai-chinh-den-viet-nam-duoc-va-mat.htm
18. Vnexpress (2008), 2008 - năm bi tráng của kinh tế thế giới,
19. Nhật Vy, Báo điện tử Vietnamnet (2008), Kinh tế toàn cầu: 2009
tiếp tục là một năm bất lợi,
20. Website Asset.vn (2008), Khủng hoảng nợ dưới chuẩn tại Mỹ: Từ A đến
Z,
hoaky/403.asset
96
Tài liệu tiếng Anh:
1. Bloomberg (2008), Market Data,
2. Financial Times (2009), Market Data Home,
3. IMF (2009), World Economic Outlook (WEO),
4.World Bank (2009), Global Economic Prospects 2009,
OSPECTS/GEPEXT/EXTGEP2009/0,,contentMDK:22002695~pagePK:6416
7689~piPK:64167673~theSitePK:5530498,00.html
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4594_9998.pdf