Xét trên phƣơng diện tổng thể thị trƣờng trong nƣớc, Việt Nam có thể
chƣa đƣợc coi là Đại dƣơng Đỏ. Tuy nhiên, với tốc độ hội nhập và phát triể n 
nhƣ hiện nay, trong tƣơng lai không xa, khi mà ngày càng nhiều các doanh 
nghiệp nƣớc ngoài, các tập đoàn lớn, các công ty đa quốc gia đƣợc phép tham 
gia vào thị trƣờng Việt Nam thì thị trƣờng Việt Nam sẽ nhanh chóng trở thành 
nơi vẫy vùng của những con cá mập khổng lồ tầm cỡ Thế giới.
Hiện nay, mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam đang đƣợc Nhà nƣớc cố
gắng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nƣớc phát triển đủ mạnh để tạo 
nền tảng vững chắc hơn khi đất nƣớc mở rộng cửa cho rất nhiều doanh nghiệp 
nƣớc ngoài trong nhiều lĩnh vực đầu tƣ vào. Tuy nhiên, các công ty trong 
nƣớc vẫn còn bộc lộ rất nhiều yếu kém và bất lợi.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 105 trang
105 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3364 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mô hình chiến lược “đại dương xanh” và thực tế áp dụng đối với các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n và đúng giờ, nếu xảy ra chậm, hủy 
chuyến bay thì phục vụ hoặc bồi thƣờng cho khách hàng theo Điều lệ vận 
chuyển. 
71 
Việc chuyển đổi thành hãng hàng không giá rẻ cho phép công ty tổ 
chức kinh doanh phù hợp hơn với thị trƣờng hàng không nội địa và khu vực 
trong phạm vi năm giờ bay phản lực. Đối với thị trƣờng này, các yếu tố giá vé 
rẻ và tần suất bay cao của Pacific Airlines trở nên quan trọng trong việc kích 
thích thị trƣờng tăng trƣởng nhanh và biến vận tải hàng không thành phƣơng 
tiện giao thông công cộng cho nhiều đối tƣợng hành khách. Các biện pháp 
kiểm soát, cắt giảm chi phí theo mô hình hàng không giá rẻ cho phép Pacific 
Airlines kinh doanh hiệu quả, đồng thời hành khách của Pacific Airlines đƣợc 
hƣởng lợi ích thiết thực từ giá vé máy bay rẻ hơn nhiều so với hàng không 
truyền thống. Những ƣu tiên và cam kết dịch vụ của Pacific Airlines với hành 
khách là an toàn; bay đúng giờ; các dịch vụ dƣới đất, trên không tiện lợi và 
thân thiện; giá vé rẻ. Pacific Airlines mong muốn nhận đƣợc sự hiểu biết, ủng 
hộ và hợp tác của hành khách đối với các điều kiện đặc thù của hàng không 
giá rẻ, qua đó xây dựng mối quan hệ lợi ích bền chặt và đôi bên cùng có lợi. 
Hãng hàng không giá rẻ này đã chứng tỏ sức cạnh tranh của mình nhờ 
cắt giảm tối đa các chi phí, không chỉ dịch vụ trên chuyến bay mà cả dịch vụ 
dƣới mặt đất phục vụ cho những chuyến bay giá rẻ (nhƣ phòng bán vé). 
Chiến lƣợc giá rẻ của Pacific Airlines bao gồm các nội dung chính nhƣ: 
 Ƣu tiên máy bay cho các đƣờng bay nội địa có nhu cầu thị trƣờng 
cao, tăng số lƣợng chuyến bay khứ hồi. 
 Thời gian quay vòng máy bay tại các sân bay Tân Sơn Nhất và Nội 
Bài giảm từ 50 phút xuống 40 phút, tại sân bay Đà Nẵng từ 40 phút xuống 25 
phút (theo tiêu chuẩn hàng không giá rẻ). 
 Hệ thống đặt chỗ, bán vé điện tử sẽ đƣợc đƣa vào sử dụng trong 
tháng 2/2007, cho phép hành khách đặt chỗ, xuất vé điện tử, chọn chỗ ngồi 
trên máy bay, đăng ký khách sạn, mua tour hoàn toàn trên mạng. 
Pacific Airlines lựa chọn theo đuổi mô hình này xuất phát từ những cơ 
sở sau: 
72 
Máy bay: Pacific Airlines chọn sử dụng dòng máy bay Boeing B737 
của Mỹ, một trong những dòng máy bay thành công nhất trong lịch sử hàng 
không thế giới. Các hãng hàng không giá rẻ nổi tiếng trên thế giới từ 
Southwest Airlines (Mỹ) cho đến Ryanair và EasyJet (Châu Âu), Virgin Blue 
(Australia), GOL (Brazil) cũng có cùng lựa chọn nhƣ vậy. Pacific Airlines 
nhận thấy rằng đối với các chuyến bay nội địa và quốc tế dƣới 5 giờ bay thì 
dịch vụ hạng thƣơng gia (business class) là không thực sự cần thiết (có thể 
gây lãng phí cho cả hành khách lẫn hãng hàng không) và còn làm phức tạp 
thêm việc cung ứng dịch vụ này (ví dụ nhƣ thời gian làm thủ tục lâu hơn và 
giá vé đắt hơn cho mọi hành khách do hành khách bay hạng phổ thông cũng 
phải cùng chia sẻ chi phí chung của cả chuyến bay). Còn đối với một hành 
trình ngắn thì những điều hành khách thực sự cần lại là việc bay đúng giờ, tần 
suất bay dày (có nhiều lựa chọn cho khách hàng), rút ngắn thời gian làm thủ 
tục hành khách và hành lý tại sân bay đi và sân bay đến (tiết kiệm thời gian), 
giá vé máy bay rẻ (tiết kiệm tiền), cách mua vé đơn giản và thái độ phục vụ 
tận tình, thân thiện. Những giá trị này chính là cơ sở để Pacific Airlines lựa 
chọn dòng máy bay Boeing B737-400 cho mô hình hàng không giá rẻ và cách 
tổ chức cung ứng dịch vụ. 
Đội bay: Pacific Airlines có 100% phi công nƣớc ngoài gồm nhiều 
quốc tịch khác nhau do công ty Parc Aviation (Ai-len) tuyển dụng và cung 
cấp. Họ đều là những phi công chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm bay. 100% 
tiếp viên là ngƣời Việt Nam, đƣợc tuyển chọn và đào tạo kỹ lƣỡng, có kỹ 
năng và ý thức nghề nghiệp tốt, luôn luôn cố gắng mang đến cho hành khách 
những dịch vụ trên không dễ chịu nhất. Công ty đƣa ra slogan “Chúng tôi 
giảm giá vé và tăng thêm nụ cƣời”.
[32]
Đƣờng bay: Pacific Airlines cắt giảm một số đƣờng bay quốc tế đi Đài 
Loan, đƣờng bay Đà Nẵng - Hong Kong và một số đƣờng bay nội địa nhƣ Đà 
73 
Nẵng - Hà Nội - Đà Nẵng. Thay vào đó, Pacific Airlines tập trung hƣớng tới 
đƣờng bay TP Hồ Chí Minh - Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đến Nha Trang, 
Huế. Hiện Pacific Airlines đang triển khai phát triển các đƣờng bay đến các 
nƣớc Đông Nam á và coi đây là chiến lƣợc phát triển của hãng. Việc tăng tần 
suất bay trên các tuyến có nhu cầu cao sẽ giảm bớt chi phí, làm gọn nhẹ cơ 
cấu và gia tăng hiệu quả kinh doanh cho Pacific Airlines. 
Phƣơng thức thanh toán: Pacific Airlines nhận thấy rằng cách hành 
khách mua vé máy bay trong mô hình hàng không truyền thống là quá phức 
tạp và bất tiện (từ việc tìm hiểu về lịch bay, giá vé đến việc mua vé, thanh 
toán và thực hiện các thay đổi chuyến bay khi phát sinh). Vì vậy, Pacific 
Airlines quyết tâm làm cho việc mua vé máy bay từ nay trở nên đơn giản đến 
mức tối đa. Hiện nay, Pacific Airlines sử dụng hệ thống bán vé và làm thủ tục 
chuyến bay mới nhất, hiện đại nhất của Navitaire là New Skies. Bên cạnh đó, 
tổ chức thẻ tín dụng Master Card và Ngân hàng Vietcombank cung cấp giải 
pháp thanh toán trực tuyến (online payment) cho các loại thẻ tín dụng, đƣợc 
đảm bảo bằng các công cụ an ninh mạng và an ninh thẻ tốt nhất. PA cũng là 
doanh nghiệp Việt Nam đầu tiên cung ứng giải pháp thƣơng mại điện tử toàn 
diện. Hiện nay Pacific Airlines tham gia 3 hệ thống bán vé máy bay toàn cầu 
(GDS) là Abacus, Amadeus và Galileo với tổng số trên 100.000 điểm bán 
(POS) trên toàn thế giới. Bất kỳ đại lý bán vé máy bay nào ở trong và ngoài 
nƣớc có trang bị một trong các GDS thông dụng này đều có thể đặt chỗ, bán 
vé và thanh toán tiền vé bằng thẻ tín dụng cho các chuyến bay nội địa, quốc tế 
của Pacific Airlines mà không cần đăng ký đại lý. 
Nhƣ vậy có thể nhận thấy rằng Pacific Airlines đã thực hiện khá hiệu 
quả những nguyên tắc cơ bản của chiến lƣợc Đại dƣơng Xanh. Sơ đồ sau cho 
thấy rõ hơn điều đó: 
74 
Hình 20 - Đƣờng giá trị của Pacific Airlines 
Trong đó : 
 (1) : đƣờng giá trị của các hãng hàng không khác 
(2) : đƣờng giá trị của Pacific Airlines 
Nhƣ vậy, bên cạnh việc tiếp tục gia tăng lợi ích cho đông đảo khách 
hàng (chính là những yếu tố quan trọng nhất chi phối quyết định mua hàng 
của ngƣời tiêu dùng) bao gồm: giá vé và sự tiện lợi khi đặt vé, Pacific Airlines 
đã hƣớng đến mục tiêu lợi nhuận thông qua một loạt biện pháp cắt giảm 
những chi phí không cần thiết một cách hợp lý. Sắp tới, Pacific Airlines sẽ chỉ 
sử dụng loại máy bay Boeing B737-400. Điều đó giúp công ty giảm đƣợc chi 
phí đáng kể cho khâu bảo dƣỡng. Theo tính toán của các chuyên gia hàng 
không quốc tế, một chủng loại máy bay với số lƣợng 20 chiếc đƣa vào khai 
thác thì mới đạt hiệu quả lợi nhuận. Chi phí tiếp tục giảm khi Pacific Airlines 
đã đào tạo thành công đội ngũ tiếp viên biết thêm về thƣơng vụ. Theo quy 
định của ngành hàng không, mỗi tháng tiếp viên có tổng số giờ bay từ 80 đến 
90 giờ. Nhƣ vậy khi sử dụng đội ngũ tiếp viên ở giờ nghỉ bay cho phục vụ các 
dịch vụ mặt đất, Pacific Airlines đã giảm đƣợc số lao động, nhƣng làm tăng 
75 
thu nhập cho lực lƣợng tiếp viên hàng không của mình. Đây cũng chính là 
trình tự hợp lý mà Pacific Airlines đã sử dụng. 
Hình 21 - Mô hình Loại bỏ - Cắt giảm - Gia tăng - Hình thành của Pacific 
Airlines 
Hiện nay, hãng hàng không giá rẻ Pacific Airlines đã chính thức đổi tên 
thành Jetstar Pacific vào ngày 23/05/2008 sau khi ký kết Hợp đồng đầu tƣ với 
Tổng công ty đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc (SCIC) về việc mua 30% cổ 
phần của Pacific Airlines (Jetstar Pacific) để trở thành cổ đông chiến lƣợc. 
4.2. Công ty Cổ phần Xuyên Thái Bình (Pan Pacific Corp.) 
Pan Pacific Corp. là một trong những công ty cung cấp dịch vụ vệ sinh 
công nghiệp và bảo dƣỡng chuyên nghiệp đầu tiên tại Việt Nam, hoạt động 
trên các lĩnh vực: dịch vụ vệ sinh công nghiệp; hoạt động xử lý chất thải rắn, 
lỏng, khí thải công nghiệp; dịch vụ sửa chữa nhà; dịch vụ chống mối mọt, diệt 
côn trùng; dịch vụ trang trí nhà cửa, phong cảnh, vƣờn cảnh, công viên, vƣờn 
thú; dịch vụ quản lý nhà cao tầng, căn hộ… 
76 
Công ty đã xây dựng thành công hệ thống quản lý chất lƣợng ISO 
9001-2000, đƣợc tổ chức BVQI Anh Quốc đánh giá và cấp giấy chứng nhận 
vào ngày 22 tháng 6 năm 2004. 
Hệ thống quản lý này liên tục đƣợc điều chỉnh, hoàn thiện theo thực tế 
hoạt động kinh doanh của công ty. Công ty đã ký kết hợp đồng với Công ty 
IMCC để tƣ vấn, giám sát và đánh giá lại quy trình quản lý mỗi năm 02 lần 
vào tháng 3 và tháng 10. 
Từ những ngày đầu hoạt động, công ty đã có định hƣớng và chiến lƣợc 
phát triển kinh doanh rõ ràng, cụ thể. Thực tế đã chứng minh chiến lƣợc phát 
triển này hoàn toàn phù hợp với tình hình phát triển của công ty. 
 Cụ thể hoá cho kế hoạch 5 năm từ 2005-2010, công ty sẽ phấn đấu cho 
những mục tiêu sau: 
 Phát hành cổ phần ra công chúng và đăng ký giao dịch chính 
thức tại Trung tâm Giao Dịch Chứng Khoán Hà Nội 
(HASTC) nhằm tạo ra một kênh huy động vốn mới. 
 Duy trì tốc độ tăng trƣởng 50% mỗi năm, chú trọng ký kết hợp 
đồng với các công trình mang tính chiến lƣợc. 
 Mở rộng hoạt động công ty, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ 
cung cấp thông qua hoạt động đầu tƣ, mua bán, sát 
 Các công ty cùng ngành nghề 
 Các công ty có ngành nghề liên quan. 
Hình 22 - Mô hình Loại bỏ - Cắt giảm - Gia tăng - Hình thành của Pan 
Pacific 
77 
Đƣợc thành lập từ năm 1998, hiện nay vốn điều lệ của Pan Pacific là 32 
tỷ đồng. Đầu năm 2006, Ban điều hành Cty đã mua lại 80% Pan Pacific - Hà 
Nội. Việc sáp nhập này đã góp phần giúp doanh số của Cty trong năm 2006 
tăng hơn 200% so với năm 2005, lợi nhuận trƣớc thuế của Cty đạt gần 20 tỷ 
đồng. 
Sơ đồ dƣới đây mô tả chiến lƣợc mà công ty đã áp dụng với những yếu 
tố cơ bản quyết định thành công của doanh nghiệp trong ngành gồm: 
(1) giá cả, (2) các dịch vụ bổ sung, (3) trang thiết bị hiện đại, (4) mức 
độ hoàn thành/chất lƣợng công việc, (5) tính chuyên nghiệp và thái độ của 
nhân viên, (6) thời gian hoàn thành công việc và (7) sự linh hoạt khi có yêu 
cầu bất ngờ. 
Hình 23 - Sơ đồ chiến lƣợc của Pan Pacific 
78 
Trong đó : 
 (1) : đƣờng giá trị của các doanh nghiệp khác 
(2) : đƣờng giá trị của Pan Pacific 
4.3. Phở 24 
Phở 24 là một thƣơng hiệu nổi tiếng của tập đoàn An Nam. Giám đốc 
tập đoàn, ông Lý Quý Trung đã rất thành công khi lựa chọn mô hình bán loại 
đồ ăn giữa phân đoạn quán phở bình dân và nhà hàng sang trọng - điều chƣa 
từng có trên thị trƣờng. Chính sự lựa chọn độc đáo này đã giúp cho Phở 24 có 
đƣợc một thị phần đáng kể. 
Để thực hiện chiến lƣợc của mình, Phở 24 đã cố gắng sáng tạo và đổi 
mới trong sản phẩm. Sự pha trộn giữa sản phẩm và dịch vụ một cách bài bản, 
khoa học đã biến Phở 24 từ một thứ tƣởng chừng rất bình thƣờng trở thành 
một thƣơng hiệu trị giá 30 triệu USD trong một thời gian ngắn. 
Nhận thấy tiềm năng của thị trƣờng phở cao cấp còn chƣa đƣợc khai 
thác, doanh nghiệp đã trở thành ngƣời đi tiên phong trong lĩnh vực này. Nhìn 
chung, chiến lƣợc của Phở 24 dựa trên khuôn khổ bốn hành động và mô hình 
mạng: loại bỏ- cắt giảm – gia tăng – hình thành: 
Hình 24 - Mô hình Loại bỏ - Cắt giảm - Gia tăng - Hình thành của Phở 
24 
79 
Trên cơ sở này, đƣờng giá trị của Phở 24 cũng có khá nhiều khác biệt, 
với các yếu tố cơ bản là: (1) giá cả; (2) khả năng tạo ra khẩu vị riêng biệt, độc 
đáo, đặc sắc; (3) sự cầu kì trong cách thƣởng thức; (4) không gian sạch sẽ, 
thoải mái, sang trọng; (5) phong cách phục vụ chuyên nghiệp; (6) công thức 
chế biến thống nhất và sự phù hợp với nhiều khẩu vị; (7) đảm bảo vệ sinh an 
toàn thực phẩm; (8) thƣơng hiệu nổi tiếng và mô hình kinh doanh ấn tƣợng. 
Hình 25 - Đƣờng giá trị của Phở 24 
Trong đó : 
 (1) : đƣờng giá trị của các của hàng phở khác 
(2) : đƣờng giá trị của Phở 24 
80 
 Tất nhiên, sau đó một thời gian, nhiều cửa hàng giống Phở 24 đã ra 
đời, nhƣng Phở 24 đã tập trung vào leading market (thị trƣờng dẫn đầu) và 
tập trung xây dựng thƣơng hiệu. Thƣơng hiệu Phở 24 đƣợc tạo dựng dựa trên 
ý tƣởng về 24 vị trung hòa trong một tô phở, có thể hợp khẩu vị của nhiều 
vùng miền. Giá của một tô phở cũng từ 24.000 đồng lúc ban đầu để phù hợp 
với mọi thực khách. Chính những sự mới lạ này đã làm nên một Phở 24 thành 
công trên thị trƣờng. 
4.4. Vinagame 
Đƣợc thành lập vào ngày 9/9/2004, VinaGame là một trong những 
doanh nghiệp đầu tiên chuyên kinh doanh loại hình Trò chơi Trực tuyến 
(TCTT). 
 VinaGame tự hào sở hữu nhiều tài năng mang tầm vóc quốc tế và thấu 
hiểu thị trƣờng bản địa. 
Mang đến cho khách hàng hệ thống mạng không ngừng nâng cấp, chất 
lƣợng dịch vụ khách hàng chu đáo, phƣơng thức thanh toán tiện lợi, nhiều 
chƣơng trình khuyến mãi hấp dẫn và mạng lƣới phân phối rộng khắp cả nƣớc, 
VinaGame mong muốn trở thành nhà cung cấp dịch vụ giải trí và giao lƣu 
cộng đồng trực tuyến hàng đầu Việt Nam. 
Sau khi đƣợc VinaGame chính thức phát hành vào tháng 6 năm 2005, 
Võ Lâm Truyền Kỳ nhanh chóng trở thành TCTT phổ biến nhất tại Việt Nam. 
Tháng 5 năm 2006, VinaGame tiếp tục ra mắt game Ragnarok với cốt truyện 
thần thoại Bắc Âu và game võ hiệp đồ họa 3D đẹp mắt Cửu Long Tranh Bá. 
Trong tháng 2 và tháng 4 năm 2007, VinaGame lần lƣợt trình làng game nhập 
vai chiến thuật trực tuyến Phong Thần và game casual Boom Online. 
Sức mạnh của VinaGame trên lĩnh vực TCTT đƣợc khẳng định ở vị thế 
nhà phát hành game số 1 Việt Nam với 3/4 thị phần nắm giữ. Ba trong số bốn 
game online thịnh hành nhất ở Việt Nam đang đƣợc VinaGame phát hành độc 
quyền. 
81 
Bên cạnh đó, VinaGame còn cung cấp phần mềm quản lý phòng máy 
CSM từ tháng 6 năm 2006 và chính thức bắt đầu hoạt động thƣơng mại điện 
tử với Siêu thị Trực tuyến 123mua! tại website www.123mua.com.vn từ tháng 
7 năm 2006. Đồng thời, VinaGame còn hợp tác với LiquidLine cho ra mắt 
mạng cộng đồng thuần Việt đầu tiên tại Việt Nam dành cho các bạn trẻ yêu 
thích và quen thuộc với trào lƣu trực tuyến tại địa chỉ www.yobanbe.com.vn. 
Có thể nói, vào giai đoạn Vinagame đƣợc thành lập, thị trƣờng game 
online ở Việt Nam vẫn còn rất manh mún và không có quản lý rõ ràng. Các 
trò chơi trực tuyến đƣợc biết tới và cung cấp đa số đều qua các máy chủ 
không có bản quyền (lậu) đƣợc đặt tại nƣớc ngoài. Đặc điểm của các trò chơi 
này là không ổn định, thƣờng gây khó chịu do tốc độ đƣờng truyền không 
cao, và không có gì đảm bảo về tính bảo mật và tài sản của ngƣời chơi. 
Việc quyết định thành lập Vinagame là hoàn toàn hợp lý và đúng đắn 
trong bối cảnh nhƣ vậy. Đây chính là một Đại dƣơng Xanh thực sự, mà 
trong đó, nhu cầu từ phía khách hàng là rất lớn. Và để tiếp tục chiến lƣợc 
của mình, trong giai đoạn gần đây, Vinagame đang tiến hành xây dựng và 
phát triển game online đầu tiên của Việt Nam : dự án game T812. Sản 
phẩm này đƣợc tung ra thị trƣờng trong Quý I năm 2009 sau hơn hai năm 
chuẩn bị. 
Bằng việc xác định các giá trị mà các game online hiện có đang đáp 
ứng cho ngƣời chơi, Vinagame đã tạo dựng đƣợc cho mình một chiến lƣợc tốt 
dựa trên khuôn khổ hành động sau: 
Hình 26 - Mô hình Loại bỏ - Cắt giảm - Gia tăng - Hình thành của 
VinaGame 
82 
Hình 27 - Sơ đồ chiến lƣợc của VinaGame 
83 
5. Đánh giá hiệu quả áp dụng của các doanh nghiệp Việt Nam 
Chiến lƣợc Đại dƣơng Xanh không phải là vấn đề hoàn toàn mới. 
Không phải chỉ có bắt đầu từ năm 2005 khi hai tác giả Kim và Maubourge 
xuất bản cuốn sách vế chiến lƣợc này các doanh nghiệp mới tìm kiếm cho 
mình các Đại dƣơng Xanh. Thực chất, các doanh nghiệp đã bắt đầu áp dụng 
từ rất lâu, nhƣng chƣa thực sự quy chuẩn và chƣa có thuật ngữ để gọi. 
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, không phải bất cứ doanh nghiệp 
nào cũng có thể áp dụng thành công chiến lƣợc này. Thành công chỉ là một 
phần nhỏ, thất bại mới là một số lớn. Đó là những gì mà các doanh nghiệp 
Việt Nam đã và đang thực hiện mô hình chiến lƣợc Đại dƣơng Xanh. 
5.1. Khía cạnh tích cực. 
Trong giai đoạn gần đây, các doanh nghiệp đã dần định hƣớng đƣợc 
cho mình một hƣớng đi đúng đắn hơn, nhận ra tính tất yếu của việc cần phải 
thay đổi chiến lƣợc sao cho phù hợp với thực trạng cạnh tranh của thị trƣờng 
nội địa hiện nay. 
Đã có rất nhiều doanh nghiệp chuyển hƣớng kinh doanh một cách 
thành công, từ đối đầu trực tiếp trong Đại dƣơng Đỏ chuyển sang khai thác 
các lĩnh vực mới và tạo dựng cho mình một Đại dƣơng Xanh hoàn toàn mới. 
Tuy chƣa thực sự nắm rõ đƣợc toàn bộ các bƣớc đi chiến lƣợc, nhƣng về bản 
chất, các doanh nghiệp đã thực hiện đƣợc những nguyên tắc quan trọng nhất 
trong việc áp dụng chiến lƣợc Đại dƣơng Xanh. Đây là một tín hiệu tốt cho sự 
phát triển hoàn thiện hơn trong tƣơng lai. 
Việc thực hiện thành công chiến lƣợc Đại dƣơng Xanh của các doanh 
nghiệp Việt Nam gần đây đã tạo nên tâm lý an tâm hơn về hàng trong nƣớc từ 
phía khách hàng. Điều này đã thu hút ngƣời tiêu dùng quay trở lại với hàng 
trong nƣớc. Mặc dù kết quả vẫn chƣa đạt đƣợc nhƣ mong đợi, nhƣng những 
thành công ban đầu này sẽ tạo nền tảng để các doanh nghiệp Việt Nam học 
hỏi và xây dựng cho mình những thƣơng hiệu Việt thành công. 
84 
5.2. Khía cạnh tiêu cực. 
Về phía doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp còn có tâm lý ỷ lại, nằm 
chờ, không nỗ lực sáng tạo và đổi mới: 
- Hiệu quả của công tác nghiên cứu thị trƣờng còn thấp, nhiều thị 
trƣờng tiềm năng chƣa đƣợc khai thác, nhiều doanh nghiệp đã phải chịu thua 
lỗ lớn và mất thị trƣờng do không đi sâu nghiên cứu thị trƣờng. 
- Công tác tiếp thị, xúc tiến thị trƣờng cũng còn rất nhiều hạn chế, ít 
đƣợc đầu tƣ và nhìn nhận đúng vai trò. 
- Trình độ khoa học công nghệ đều lạc hậu nhiều thế hệ so với trình độ 
tiên tiến trên thế giới, do đó hạn chế đáng kể khả năng sản xuất những sản 
phẩm, dịch vụ có tính ƣu việt và chất lƣợng cao. 
- Tổ chức lao động ở nhiều doanh nghiệp chƣa hợp lý và khoa học, biên 
chế quá lớn (đặc biệt là đội ngũ gián tiếp), chức năng và nhiệm vụ không rõ 
ràng, kỷ luật lao động chƣa nghiêm, tỷ lệ đào tạo chính quy thấp, mức độ 
thuần thục kém … làm cho năng suất lao động chƣa cao. Tất cả những hạn 
chế này khiến cho một khi ý tƣởng về chiến lƣợc đã ra đời thì cũng khó lòng 
đƣợc thực thi hiệu quả khi hầu hết các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh 
yếu kém, nguồn lực rất hạn chế và mức độ cam kết của các nhân viên trong 
công ty không cao. 
Các nguyên nhân khách quan có thể kể đến bao gồm: việc thực thi 
quyền sở hữu trí tuệ có nhiều hạn chế; chƣa có một chính sách hỗ trợ đổi mới 
toàn diện từ phía Nhà nƣớc; sự yếu kém về cơ sở hạ tầng, công nghệ, luật 
pháp; thu nhập còn hạn chế của ngƣời dân… Chính những trở ngại này có thể 
khiến cho một ý tƣởng tuy rất có tiềm năng thành công song lại khó trở thành 
hiện thực do điều kiện cơ sở hạ tầng (đặc biệt là công nghệ thông tin) không 
cho phép hoặc ý tƣởng bị bắt chƣớc quá nhanh chóng do luật pháp chƣa bảo 
vệ hiệu quả cho doanh nghiệp. 
86 
CHƢƠNG III 
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP 
DỤNG MÔ HÌNH CHIẾN LƢỢC “ĐẠI DƢƠNG XANH” TẠI 
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 
I - PHƢƠNG HƢỚNG PHÁT TRIỂN CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT 
NAM TRONG THỜI GIAN TỚI. 
Tiến trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới của Việt Nam 
đang diễn ra một cách nhanh chóng. Hội nhập và toàn cầu hoá đã và đang mở 
ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam, tuy nhiên nó cũng mang đến 
nhiều đe doạ và thách thức. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau - 
giữa doanh nghiệp trong nƣớc và doanh nghiệp nƣớc ngoài, giữa các doanh 
nghiệp trong nƣớc với nhau - ngày càng khốc liệt. 
Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam đang vƣơn mình ra Thế 
giới, thị trƣờng cho các doanh nghiệp Việt Nam có triển vọng ngày càng mở 
rộng nhƣng đồng thời cũng bị thu hẹp và rút ngắn lại. Cạnh tranh ngày một 
khốc liệt hơn : các công ty hàng đầu đến Việt nam với lợi thế về vốn, công 
nghệ, phƣơng pháp quản lý đã buộc phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam 
phải chọn chiến lƣợc “đƣợc quyền thua” ngay trên sân nhà để tồn tại. 
Tuy nhiên, với cách nghĩ cho rằng cạnh tranh là tìm mọi cách hạ bệ lẫn 
nhau bằng mọi thủ đoạn sẽ đƣa ra sự thất bại cho cả hai bên. Nhƣ vậy, cạnh 
tranh không phải là các doanh nghiệp chà đạp lẫn nhau, mà làm sao để mang 
lại giá trị gia tăng lớn nhất cho thị trƣờng và khách hàng. Từ góc độ này, ngay 
cả những doanh nghiệp cạnh tranh với nhau cũng không đƣợc xem là kẻ thù 
mà phải là chiến hữu. Suy nghĩ nhƣ vậy mới có thể giúp các doanh nghiệp tập 
trung sức lực vào việc nghĩ ra phƣơng pháp mang lại giá trị gia tăng lớn nhất 
cho khách hàng của mình. 
87 
Trong thời gian tới đây, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải có sự đối 
mới trong chiến lƣợc của mình, nên chuyển hƣớng tới những mảng thị trƣờng 
còn tiềm ẩn. Bằng việc thực hiên các nguyên tắc của chiến lƣợc Đại dƣơng 
Xanh, các doanh nghiệp sẽ có thể phần nào thực hiện đƣợc việc vạch ra cho 
mình một phân đoạn thị trƣờng mới, để tránh khỏi sự cạnh tranh quá mạnh mẽ 
từ các doanh nghiệp nƣớc ngoài. 
Các mô hình liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp trong nƣớc 
cũng cần đƣợc thúc đẩy, đặc biệt là trong mảng thị trƣờng bán lẻ. Hình thành 
nên các nhóm chiến lƣợc, và tập trung sáng tạo để đáp ứng nhu cầu chƣa đƣợc 
thỏa mãn của những nhóm khách hàng khác nhau sẽ giúp cho các doanh 
nghiệp thành công hơn trong thời gian tới. 
II - GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG MÔ HÌNH 
CHIẾN LƢỢC “ĐẠI DƢƠNG XANH” TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT 
NAM TRONG THỜI GIAN TỚI. 
1. Về phía Nhà nƣớc 
1.1. Đẩy mạnh việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ đối với các doanh nghiệp 
trong nước. 
 Mặc dù Việt Nam đã ban hành Luật sở hữu trí tuệ nhƣng điểm yếu của 
VN chính là việc thực thi luật này. Hiện tƣợng hàng nhái, hàng giả kém chất 
lƣợng vẫn chƣa đƣợc quản lý một cách triệt để. Vẫn còn rất nhiều các doanh 
nghiệp sản xuất hàng giả đang hoạt động một cách kín đáo và làm tổn hại rất 
nhiều đến uy tín cũng nhƣ thƣơng hiệu của các doanh nghiệp sản xuất mới. 
Điều này một phần do khung pháp lý và hƣớng dẫn thực hiện chƣa rõ 
ràng. Ngoài ra, cũng do việc thực hiện chƣa “tới nơi tới chốn” của các cơ 
quan có chức năng trong việc dẹp bỏ các doanh nghiệp làm ăn vi phạm nhƣ 
vậy. 
Một trong những biện pháp quan trọng có thể làm tăng năng lực cạnh 
tranh của các DN là việc sử dụng các đối tƣợng sở hữu trí tuệ để kinh doanh, 
88 
nâng cao uy tín DN, sức hấp dẫn của hàng hóa. Trên thị trƣờng Việt Nam hiện 
nay, ngƣời ta có thể biết đến Hãng mỹ phẩm Sài Gòn. Hãng này có rất nhiều 
kiểu dáng sản phẩm đăng ký bảo hộ tại Cục Sở hữu trí tuệ và họ độc quyền sử 
dụng những kiểu dáng sản phẩm đã đăng ký đó. Do có nhiều kiểu dáng đẹp, 
hấp dẫn, bắt mắt và độc quyền sử dụng, mỹ phẩm Sài Gòn đã tiêu thụ đƣợc 
khá nhiều hàng hóa, hiệu quả kinh doanh cũng tăng cao. Ngƣời ta cũng có thể 
nhắc đến Honda (Nhật Bản). Hoạt động tại Việt Nam, Honda đã đăng ký và 
sử dụng một loạt quyền đƣợc bảo hộ về sở hữu trí tuệ nhƣ kiểu dáng xe 
Wave, Future... Đặc biệt, Honda thực hiện bảo hộ mạnh mẽ về nhãn hiệu chủ 
lực Honda và các nhãn hiệu phụ (nhãn hiệu các dòng xe). Ngoài ra, Honda 
còn đăng ký bảo hộ hàng trăm sáng chế hữu ích trong xe của họ, chủ yếu là 
các sáng chế nằm trong các bộ phận của máy, ly hợp, yên xe và một số chi tiết 
khác nhằm tránh đối thủ cạnh tranh vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ uy 
tín và danh tiếng, chất lƣợng sản phẩm của mình. Tiếng tăm của họ trên 
thƣơng trƣờng vì thế đã ăn sâu vào trong tâm thức của một bộ phận không 
nhỏ ngƣời tiêu dùng ở nhiều quốc gia. 
Lợi ích từ việc thực hiện bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ thì đã rõ, song số 
DN Việt Nam làm đƣợc nhƣ mỹ phẩm Sài Gòn hay Honda thì chƣa nhiều. 
Theo thống kê của Cục Sở hữu trí tuệ, trong tổng số khoảng 150.000 DN Việt 
Nam đang hoạt động, mới có khoảng 25.000 DN đăng ký bảo hộ nhãn hiệu 
hàng hóa (ở Việt Nam đã có khoảng 110.000 nhãn hiệu hàng hóa đăng ký bảo 
hộ bao gồm các DN trong nƣớc và đầu tƣ nƣớc ngoài) và mới chỉ có vài trăm 
DN đăng ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp, đặc biệt đăng ký bảo hộ sáng chế 
còn rất ít. Chính vì vậy, một trong những giải pháp khác, liên quan đến quyền 
sở hữu trí tuệ, đó là các doanh nghiệp cần phải chủ động tự bảo vệ lấy mình, 
bằng cách đăng ký thƣơng hiệu, tên tuổi, nhãn hiệu,… của mình để tránh tình 
trạng bị giả mạo dẫn đến mất uy tín. 
89 
1.2 Xây dựng một mô hình liên kết giữa Nhà nước, doanh nghiệp, và các 
hiệp hội doanh nghiệp 
Thiết nghĩ, đây là một vẫn đề rất thiết thực để tạo điều kiện giúp đỡ cho 
các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đƣa ra đƣợc ý 
tƣởng tốt cho kinh doanh. Bằng việc đƣa ra một trung tâm liên kết giữa 3 
thành phần này, với Nhà nƣớc đóng vai trò định hƣớng, và hƣớng dẫn về 
đƣờng lối chính sách, với các hiệp hội doanh nghiệp đóng vai trò giúp đỡ về 
chiến lƣợc, vốn, kỹ thuật, các doanh nghiệp có thể sẽ dễ dàng hơn trong việc 
triển khai cho mình một ý tƣởng kinh doanh mới nhắm tới Đại dƣơng Xanh. 
Đây là một mạng kết nối đa dạng và rộng khắp tới những doanh 
nghiệp trẻ, những doanh nghiệp thành công, ngƣời tiêu dùng và cả các cơ 
quan quản lý 
Hình 28 - Sơ đồ liên kết Nhà nƣớc - Doanh nghiệp - Hiệp hội 
2. Đối với các doanh nghiệp chƣa áp dụng mô hình chiến lƣợc Đại dƣơng 
Xanh. 
2.1. Thực hiện từng bước mô hình chiến lược Đại dương Xanh. 
90 
Nhƣ đã phân tích, việc quan trọng đối với các doanh nghiệp chƣa thực 
hiện mô hình Đại dƣơng Xanh là cần phải vạch ra cho mình đƣợc một Đại 
dƣơng Xanh hoàn toàn mới. Để xác định đúng những cơ hội mở ra Đại dƣơng 
Xanh - khoảng thị trƣờng hấp dẫn đem lại lợi nhuận cao, doanh nghiệp nên 
tuân theo các nguyên tắc đã đƣợc phân tích ở trên và tập trung vào thực hiện 
các quy trình chiến lƣợc đã đề ra. 
Thực hiện đƣợc các nguyên tắc này, doanh nghiệp không chỉ xác định 
đƣợc hƣớng đi mới cho mình, mà còn hạn chế đƣợc rất nhiều các rủi ro khác 
có thể gặp phải. 
Nguyên tắc thực hiện Rủi ro giảm bớt 
1. Xác lập ranh giới thị trƣờng Rủi ro trong tìm kiếm 
2. Tập trung vào sơ đồ tổng thể Rủi ro hoạch định 
3. Mở rộng tới các nhu cầu chƣa tồn tại Rủi ro về quy mô 
4. Đƣa ra trình tự hợp lý trong chiến lƣợc Rủi ro về mô hình kinh doanh 
5. Vƣợt qua rào cản về tổ chức Rủi ro về tổ chức 
6. Xây dựng sự đồng thuận nội bộ Rủi ro về quản lý 
2.2. Áp dụng thương mại điện tử và các công nghệ Internet vào hoạt động 
kinh doanh. 
Ở thế kỷ XX, ngƣời ta định nghĩa mù chữ là không biết công nghệ 
thông tin và Internet. Có rất nhiều doanh nghiệp đã tận dụng đƣợc Internet để 
giao dịch, nhƣng vẫn có nhiều doanh nghiệp chƣa làm đƣợc điều này. Thƣơng 
mại điện tử (TMĐT) - Một hƣớng đi mới áp dụng chiến lƣợc Đại dƣơng Xanh 
Hiện nay, Internet là mạch máu của nền kinh tế toàn cầu, nó mang lợi 
ích cho tất cả và không ngoại trừ một ai. Việt Nam là một trong những quốc 
gia hoàn toàn có đủ yếu tố thuận lợi để phát triển nền kinh tế thị trƣờng và hội 
nhập toàn cầu. Việc định hƣớng chiến lƣợc và áp dụng phƣơng pháp thực hiện 
đúng đắn sẽ mang lại thành công cho doanh nghiệp. TMĐT không chỉ gói 
91 
trong việc mua bán qua mạng, thanh toán tiền và giao hàng. Theo cá nhân 
ngƣời viết nó bắt nguồn từ ý tƣởng kinh doanh đúng đắn, cách thức xây dựng 
thƣơng hiệu và thời cơ của doanh nghiệp, TMĐT có những sản phẩm riêng 
đặc trƣng mà thƣơng mại truyền thống không thể có, đó là những hàng hoá vô 
hình, có những nhà máy ảo và văn phòng ảo lƣu động,… Giới hạn về không 
gian và địa lý trong TMĐT cũng bị xoá bỏ.Trong những năm gần đây, ngày 
càng nhiều các doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu chuyển hƣớng kinh doanh 
bằng việc áp dụng thƣơng mại điện tử vào trong hoạt động của mình. Những 
doanh nghiệp này đã và đang đƣợc đánh giá cao với hiệu quả hoạt động và 
tính tiện lợi của dịch vụ mang lại cho khách hàng. 
Cạnh tranh là yếu tố luôn tồn tại với kinh tế thị trƣờng, bất kể nó là 
hình thức nào điện tử hay truyền thống. Nó là sự chạy đua giữa các nhà kinh 
doanh. Cạnh tranh là động lực thúc đẩy kinh doanh theo đúng nghĩa thì nó sẽ 
có lợi cho ngƣời mua về giá cả, các dịch vụ khuyến mãi, hậu mãi đi kèm sản 
phẩm. Tuy nhiên nếu cạnh tranh khốc liệt bằng cách giảm giá thành sản phẩm 
sẽ làm cho doanh nghiệp thua lỗ vì lợi nhuận không đủ cho chi phí kinh 
doanh, làm cho doanh nghiệp mất thƣơng hiệu, uy tín do chất lƣợng hàng và 
dịch vụ đi kèm sẽ giảm theo sự cạnh tranh. Có nhiều điểm TMĐT chiếm ƣu 
thế hơn so với Thƣơng mại Truyền thống. Nhƣng có những mặt hàng, loại 
hình kinh doanh thì không thể áp dụng TMĐT đƣợc. Do đó cách tốt nhất là 
phối hợp cả 2 hình thức một cách hài hoà sẽ mang lại kết quả tốt nhất. Ngoài 
ra việc luôn đổi mới, đa dạng về dịch vụ cũng nhƣ hàng hoá sẽ mang lại kết 
quả tốt.Tuy nhiên, số lƣợng các doanh nghiệp này chƣa nhiều, và chỉ hạn chế 
ở một số ngành nghề, một số mặt hàng. Trên Thế giới, đa phần các loại sản 
phẩm hay dịch vụ đều có thể thực hiện thông qua thƣơng mại điện tử, tạo tiện 
lợi rất nhiều cho cả ngƣời cung cấp và ngƣời mua hàng. Chính vì vậy, đây vẫn 
còn là một thị trƣờng vô cùng tiềm năng và luôn rộng mở đối với các doanh 
nghiệp sẵn sàng thay đổi, sẵn sàng áp dụng công nghệ thông tin vào trong 
hoạt động kinh doanh của mình. 
92 
Ngoài ra, trong thời gian gần đây, rất nhiều các bạn trẻ thuộc thế hệ 8X, 
9X đã biết tận dụng các công nghệ tiên tiến của Internet để đƣa ra một số mô 
hình kinh doanh khá mới mẻ và thu hút. Một số mô hình kinh doanh đƣợc xây 
dựng trên cơ sở kết hợp công nghệ truyền hình và Internet để xây dựng nên 
các website truyền hình đang rất đƣợc đông đảo giới trẻ quan tâm. 
Đây có thể nói là một sự sáng tạo mới, tuy chƣa thực sự chuẩn tắc, 
nhƣng đã bắt đầu từ những ý tƣởng mang tính bản chất của Đại dƣơng Xanh. 
Việc khai thác đƣợc hết công dụng và tính năng của công nghệ Internet sẽ 
giúp cho các doanh nghiệp, tổ chức Việt nam mở rộng đƣợc hoạt động của 
mình tới nhiều nhóm khách hàng khác nữa. 
2.3 Kết hợp giữa tầm nhìn và sáng tạo. 
Đối với các doanh nghiệp chƣa thực hiện mô hình chiến lƣợc Đại 
dƣơng Xanh, điều quan trọng để thực hiện chiến lƣợc này thành công là phải 
thay đổi lại tƣ duy và suy nghĩ về cách thức hoạt động của mình. Cần phải 
dừng suy nghĩ “cạnh tranh liên tục”, “cạnh tranh sống còn” với các doanh 
nghiệp khác trong ngành, và đầu tƣ vào tìm kiếm ý tƣởng để thay đổi hƣớng 
kinh doanh. 
Trong kinh doanh, vốn liếng không phải là quan trọng nhất, kinh 
nghiệm cũng không quan trọng. Hai thứ này có thể có đƣợc không sớm thì 
muộn. Điều quan trọng hơn là những ý tƣởng sáng tạo. Sáng tạo mới giúp 
doanh nghiệp đến với những giá trị gia tăng lớn nhất cho thị trƣờng và cho 
khách hàng. 
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải nhận định khuynh hƣớng thị 
trƣờng sẽ đi về đâu và sẽ chuyển hƣớng nhƣ thế nào dƣới tác động của một và 
tình huống có thể xảy tới trong tƣơng lai, và rồi từ đó định hƣớng công ty theo 
những cách thức tốt nhất mà có thể đƣa ra. 
Kết hợp với yếu tố tầm nhìn, các doanh nghiệp phải đặt vị thế của mình 
vào vị thế của khách hàng, đƣa suy nghĩ của mình theo suy nghĩ của khách 
93 
hàng, và tìm một chỗ đứng trong tâm trí họ, đồng điệu với họ để sáng tạo, để 
cùng khách hàng chia sẻ thành công. Trên cơ sở sự kết hợp này, doanh nghiệp 
sẽ mang lại đƣợc giá trị gia tăng lớn nhất cho khách hàng của mình. 
2.4 . Khơi dậy sự tận tâm và tinh thần tự giác trong công ty. 
Trong thành công của mô hình Đại dƣơng Xanh, không chỉ đơn thuần 
bao gồm các nguyên tắc đã nêu trên, mà còn một phần rất quan trọng làm nên 
sự thành bại của chiến lƣợc, đó là các yếu tố vô hình trong công ty. 
Bất cứ một công ty nào đã thực hiện thành công mô hình này cũng đều 
có thể chỉ ra đƣợc tầm quan trọng của các yếu tố vô hình này tới thành công 
của họ. Cũng nhƣ các doanh nghiệp thất bại trong việc thực hiện chiến lƣợc 
Đại dƣơng Xanh cũng sẽ chỉ ra đƣợc những sự thiếu hụt mà đó chính là 
nguyên nhân chính gây ra sự thất bại ngay cả khi họ đã đi đúng con đƣờng 
đƣợc vạch ra. 
Các yếu tố vô hình đó trong doanh nghiệp chính là niềm tin, sự tận tâm, 
và tự nguyện hợp tác sâu rộng trong tổ chức. Các doanh nghiệp sẽ không thể 
thành công nếu nhƣ quá trình thực hiện và quá trình triển khai bị tách rời, hay 
quá chậm chạp. 
Tất nhiên, các phƣơng thức khuyến khích nhân viên truyền thống bằng 
quyền lực và tiên bạc theo kiểu “củ cà rốt và cái gậy” vẫn phát huy tác dụng. 
Nhƣng những động lực đó không đủ mạnh để các nhân viên có thể quên đi 
những sở thích cá nhân nhằm cống hiến hết mình cho công việc. Và một khi 
không thể kiểm soát đƣợc hành vi không chắc chắn của nhân viên, thì việc bị 
lôi kéo và ngầm phá hoại là điều không thể tránh khỏi. 
Vì vậy, các doanh nghiệp cần hình thành một quy trình rõ ràng, hợp lý 
ngay từ đầu, để mọi ngƣời đều nhận ra đƣợc sự thỏa hiệp và hy sinh là cần 
thiết cho công cuộc xây dựng một doanh nghiệp vững mạnh. 
2.5. Mạnh dạn đầu tư cho công nghệ 
94 
Đây có thể coi là yếu tố quyết định đối với các ngành sản xuất sản 
phẩm có hàm lƣợng kỹ thuật cao. Trong xu thế phát triển chung hiện nay, các 
sản phẩm sản xuất ra đang dần đƣợc tăng cƣờng hàm lƣợng kỹ thuật nhằm 
làm tăng sự hữu dụng và tiện lợi cho ngƣời sử dụng. 
Các doanh nghiệp Việt Nam đa số đều có một đặc điểm chung là thiếu 
vốn, do đó dè dặt trong việc đầu tƣ công nghệ. Tuy nhiên, một khi công nghệ 
sản xuất của doanh nghiệp không đủ đáp ứng để tạo ra những sản phẩm thu 
hút đƣợc ngƣời tiêu dùng, ngƣời sử dụng, thì những doanh nghiệp đó khó 
lòng tạo ra đƣợc các giá trị gia tăng mới cho sản phẩm - yếu tố quan trọng tạo 
ra Đại dƣơng Xanh. 
Chính vì vậy, mạnh dạn đầu tƣ cho công nghệ, đi tắt đón đầu, lợi dụng 
ƣu thế về cồng nghệ để tạo dựng một khoảng thị trƣờng riêng so với các đối 
thủ trong ngành. 
2.6. Tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu thị trường 
Theo một điều tra với 175 doanh nghiệp, có 175 doanh nghiệp, chỉ có 
16% số doanh nghiệp đƣợc khảo sát cho rằng cần có hoạt động nghiên cứu thị 
trƣờng một cách thƣờng xuyên, 84% còn lại cho rằng đó là việc không cần 
thiết. Trên thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam đƣợc coi là “lƣời” nghiên cứu 
thị trƣờng so với các nƣớc trong khu vực và trên Thế giới, đặc biệt là các 
doanh nghiệp nhỏ và vừa.
[33] 
Trong khi đó, một nguyên lý đặc thù của mô hình chiến lƣợc Đại 
dƣơng Xanh là dựa trên những nghiên cứu về thị trƣờng, về tâm lý ngƣời tiêu 
dùng để tìm ra một khoảng thị trƣờng mới, đáp ứng những nhu cầu còn tiềm 
ẩn. Chính vì vậy, để thực hiện tốt chiến lƣợc Đại dƣơng Xanh, các doanh 
nghiệp cần phải đầu tƣ hơn nữa cho các hoạt động nghiên cứu thị trƣờng. 
Nghiên cứu thị trƣờng không chỉ giúp các doanh nghiệp xác định đƣợc 
các nhu cầu tiềm ẩn, mà còn nhận ra đƣợc những giá trị không cần thiết, hay 
95 
các giá trị mà các đối thủ khác trong ngành đang sử dụng, từ đó đƣa ra đƣợc 
một đƣờng giá trị mới cho công ty. 
3. Đối với các doanh nghiệp đã thực hiện chiến lƣợc Đại dƣơng Xanh. 
3.1. Hãy “bơi càng xa càng tốt” 
Thực hiện mô hình chiến lƣợc Đại dƣơng Xanh cũng nhƣ một cuộc đua 
bơi lội. Trong đó, doanh nghiệp của ta có xuất phát điểm tốt hơn và xuất 
phát trƣớc. Khi đó, các đối thủ xuất phát chậm hơn sẽ rất khó khăn để đuổi 
kịp. Tuy nhiên, nếu nhƣ không bơi một cách ổn định, chí ít là giữ đƣợc tốc 
độ ban đầu, thì rất dễ bị các đối thủ ở các đƣờng đua khác vƣợt qua. Vì 
vậy, trong Đại dƣơng Xanh, các doanh nghiệp cần phải bơi đi xa nhất có 
thể để khỏi bị đuổi kịp. 
Trên thực tế, Luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam còn chƣa đủ mạnh, các 
doanh nghiệp Việt Nam còn chƣa có ý thức bảo vệ mình, nên khi vừa tạo ra 
Đại dƣơng Xanh thì dƣờng nhƣ ngay lập tức, nó đã trở thành Đại dƣơng Đỏ. 
Chính vì vậy, các doanh nghiệp cần phải chuẩn bị thật kỹ lƣỡng các “vũ khí” 
để tạo ra các rào cản trong Đại dƣơng Đỏ có thể sẽ hình thành và “bơi càng xa 
càng tốt” để tạo khoảng cách lớn với những ngƣời theo sau. 
Đối với các doanh nghiệp đã thực hiện thành công Đại dƣơng Xanh, 
không bao giờ đƣợc quan niệm Đại dƣơng Xanh là không có cạnh tranh. 
Doanh nghiệp chỉ có thể dẫn đầu một thời gian, nhƣng các đối thủ đi sau hoàn 
toàn có thể bắt chƣớc và tạo ra chuỗi giá trị mới để phá vỡ thế độc quyền. 
Cạnh tranh vẫn là bản chất của thị trƣờng và là động lực của phát triển. 
Sự xuất hiện của Đại dƣơng Xanh chứng tỏ cạnh tranh đã đƣợc nâng 
lên một tầm cao mới, một mức độ mới, mà sau đó, cách thức cạnh tranh trong 
Đại dƣơng Đỏ cũng sẽ gay gắt hơn. Do đó, điều cần thiết là phải chiếm lấy vị 
trí dẫn đầu trong Đại dƣơng Xanh với lợi thế của ngƣời đi trƣớc. 
3.2. Xây dựng chiến lược Đại dương Hồng 
96 
Những Đại dƣơng Xanh không tồn tại mãi, chúng có thể bị nhuốm đỏ 
bất cứ lúc nào. Và nếu không tỉnh táo, doanh nghiệp sẽ có thể bị tụt hậu so 
với đối thủ cạnh tranh, ngƣời mở đƣờng sẽ nhanh chóng bị loại khỏi cuộc 
chơi. Ngƣời viết sử dụng cùm từ “đại dƣơng hồng” để mô tả tình huống này. 
Đại dƣơng hồng thực chất là sự chuyển tiếp từ Đại dƣơng Xanh sang đại 
dƣơng đỏ, nơi doanh nghiệp đƣa ra Chiến lƣợc Đại dƣơng Xanh vẫn giữ một 
vị thế nhất định song ngày càng có nhiều đối thủ bắt chƣớc. 
Hình thành chiến lƣợc đại dƣơng hồng: Nhiệm vụ cốt lõi của doanh 
nghiệp trong giai đoạn này là bên cạnh việc xây dựng một Đại dƣơng Xanh 
với đƣờng giá trị hoàn toàn khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh, doanh 
nghiệp cần xác định những giá trị bổ sung và những điểm thay đổi. Giá trị bổ 
sung là những lợi ích đặc biệt dành cho khách hàng song nhu cầu mới chỉ nằm ở 
dạng tiềm năng, khách hàng cần thời gian để chấp nhận, hoặc quy mô thị trƣờng 
còn quá nhỏ. Điểm thay đổi là những điểm giữ vai trò quan trọng trên đƣờng giá 
trị mà sự thay đổi của các điểm này có thể làm cho đƣờng giá trị chuyển sang 
một đƣờng mới. Chiến lƣợc đại dƣơng hồng hƣớng đến việc lựa chọn và di 
chuyển các điểm trên đƣờng giá trị một cách hợp lý và có trọng điểm. Những 
thay đổi này đƣợc vạch kế hoạch từ trƣớc và sẽ đƣợc áp dụng từng phần vào 
từng thời điểm. Giá trị bổ sung cho phép doanh nghiệp xác định triển vọng đổi 
mới sản phẩm trong tƣơng lai cũng nhƣ khả năng sẽ đƣợc đông đảo khách hàng 
chấp nhận hay không. Còn điểm thay đổi đóng vai trò chủ yếu trong việc tái cấu 
trúc những đƣờng giá trị khi đã tối đa hoá quy mô Đại dƣơng Xanh. 
Thực hiện chiến lƣợc Đại dƣơng Hồng: Ngay trong khi đối thủ cạnh 
tranh còn chƣa kịp phản ứng, doanh nghiệp đã chuẩn bị cho những bƣớc đị 
tiếp theo. Và khách hàng hình thành một thói quen tiêu dùng sản phẩm của 
doanh nghiệp một cách rất tự nhiên. Việc thực hiện đổi mới nhƣ vậy đƣợc 
thực hiện theo sơ đồ sau: 
Sơ đồ đổi mới đƣờng giá trị theo chiến lƣợc Đại dƣơng Hồng 
98 
Hình 29 - Đƣờng giá trị mô phỏng trong Đại dƣơng Hồng 
Sơ đồ chiến lƣợc trên giải thích nội dung của chiến lƣợc Đại dƣơng 
Hồng. Trong đó, đƣờng giá trị A là đƣờng giá trị ban đầu của doanh nghiệp đã 
thực hiện thành công mô hình chiến lƣợc Đại dƣơng Xanh. Khi thực hiện 
thành công, đƣờng giá trị của doanh nghiệp Đại dƣơng Xanh đã thực sự tách 
rời đƣờng giá trị của các doanh nghiệp khác trong ngành. 
Tuy nhiên, ngay sau khi thực hiện thành công chiến lƣợc Đại dƣơng 
Xanh, sẽ có rất nhiều các doanh nghiệp khác cũng có thể bắt chƣớc mô hình 
kinh doanh của doanh nghiệp và đi theo con đƣờng mà doanh nghiệp thành 
công đã tìm ra. Chính vì vậy, doanh nghiệp Đại dƣơng Xanh cần thực hiện 
đổi mới dần các giá trị của mình để gia tăng giá trị đối với khách hàng. Điều 
này đƣợc thể hiện qua các đƣờng giá trị A1, A2. Theo đó, đƣờng giá trị ban 
đầu A đã thay đổi một chút tại các điểm thay đổi bởi giá trị bổ sung đã đƣợc 
doanh nghiệp đƣa thêm vào sản phẩm và dịch vụ của mình tới khách hàng. A’ 
99 
là đƣờng giá trị khi mà Đại dƣơng Xanh đã gần trở thành Đại dƣơng Đỏ, thị 
trƣờng đã có nhiều đối thủ cạnh tranh kinh doanh theo hƣớng tƣơng tự. Đây là 
lúc doanh nghiệp một lần nữa thực hiện sự đổi mới lớn về giá trị, bằng cách 
tìm thêm và đƣa vào những giá trị mới hơn, doanh nghiệp sẽ đƣa đƣợc đƣờng 
giá trị của mình tách biệt khỏi đƣờng giá trị của các doanh nghiệp đang theo 
sau. 
3.3. Tạo dựng những trở ngại với khả năng bị bắt chước. 
Bản thân một chiến lƣợc Đại dƣơng Xanh đã tự mang trong mình 
những rào cản đáng kể đối với sự bắt chƣớc. Một số rào cản là những trở ngại 
về vận hành, một số khác là những trở ngại thuộc về nhận thức. Thƣờng thì 
trong vòng 10 đến 15 năm đầu sẽ không có khó khăn gì lớn đối với những 
doanh nghiệp khởi xƣớng mô hình chiến lƣợc Đại dƣơng Xanh. 
Sau đây là một số rào cản có thể gây trở ngại đối với khả năng bắt 
chƣớc của các doanh nghiệp đi sau: 
- Sử dụng khéo léo sự xung đột về nhãn hiệu sẽ góp phần ngăn cản các 
doanh nghiệp bắt chƣớc chiến lƣợc Đại dƣơng Xanh. Đây là một kinh nghiệm 
học đƣợc từ một số doanh nghiệp nƣớc ngoài khi họ sử dụng. Các doanh 
nghiệp áp dụng rào cản này, sau khi tạo lập đƣợc những giá trị gia tăng mới, 
thay vì củng cố về mẫu mã, thiết kế bắt mắt về kiểu dáng,… thì lại làm giảm 
đi các giá trị này mà chỉ tập trung vào các giá trị mới. Điều này sẽ làm cho 
các doanh nghiệp muốn bắt chƣớc không thể áp dụng bởi họ sẽ không thể 
mạo hiểm làm thay đổi xấu đi hình ảnh của mình. Một ví dụ đơn củ nhƣ hãng 
mỹ phẩm Body Shop. Việc hãng này không theo đuổi các mẫu mã bắt mắt, 
không hứa hẹn về vẻ đẹp và trẻ trung vĩnh cửu, cũng không sử dụng bao bì 
đắt tiền đã làm cho các doanh nghiệp mỹ phẩm lớn trên Thế giới không có 
một hoạt động bắt chƣớc nào trong nhiều năm liền. Bởi lẽ bất kỳ một sự bắt 
chƣớc nào cũng đồng nghĩa với việc hủy hoạt chính mô hình kinh doanh của 
họ. 
100 
- Độc quyền tự nhiên có tác dụng ngăn chặn sự bắt chƣớc khi dung 
lƣợng thị trƣờng không đủ sức chứa thêm bất kỳ một doanh nghiệp nào. 
- Bằng phát minh sáng chế và giấy phép sử dụng có thể ngăn cản đƣợc 
sự bắt chƣớc. 
- Số lƣợng hàng hóa lớn sẽ đem đến lợi ích về chi phí cho ngƣời khởi 
xƣớng và làm nản lòng những kẻ theo sau. 
- Sự bắt chƣớc thƣờng đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện những 
thay đổi mạnh mẽ trong các ứng dụng và mô hình kinh doanh hiện tại của họ, 
bao gồm cả cải tổ về tổ chức, hoạt động và văn hóa công ty. Chính những 
điều này cũng là những rào cản khiến các doanh nghiệp ngần ngại khi định 
bắt chƣớc. 
- Nhanh chóng chiếm cảm tình của ngƣời mua hàng trong thời gian đầu 
hoạt động để tạo ra những lớp khách hàng trung thành. Đây chính là yếu tố lo 
ngại nhất của những kẻ theo sau. 
3.4. Xác định thời điểm đổi mới giá trị 
Mặc dù đã có một số rào cản nhƣ trên, nhƣng rồi phần lớn các mô hình 
Đại dƣơng Xanh cũng đều bị bắt chƣớc bởi lợi nhuận lớn mà nó thu đƣợc. 
Khi đối thủ cạnh tranh bằng mọi cách giành giật thị trƣờng, các doanh nghiệp 
cần phải phản ứng lại và cố gắng bảo vệ thì phần mà rất khó khăn mới có 
đƣợc. 
Tuy nhiên, các đối thủ cạnh tranh thƣờng rất dai dẳng. Nếu doanh 
nghiệp quá bị ám ảnh bởi việc cố gắng duy trì và bảo vệ thị phần, họ có thể sẽ 
rơi vào cái bẫy cạnh tranh. Dần dần, cuộc cạnh tranh chứ không phải khách 
hàng sẽ đƣợc đặt là trung tâm trong chiến lƣợc và hành động của doanh 
nghiệp. Nếu tiếp tục nhƣ vậy, đƣờng giá trị của doanh nghiệp sẽ dần hội tụ 
với đƣờng giá trị của các đối thủ. 
Để tránh cái bẫy cạnh tranh này, doanh nghiệp cần phải giám sát đƣợc 
đƣờng giá trị của mình trên bản đồ chiến lƣợc. Việc giám sát nhƣ vậy có thể 
101 
chỉ ra cho công ty biết khi nào thì nên tiến hành tái đổi mới, khi nào thì 
không. Nó cảnh báo doanh nghiệp cần tiến tới xây dựng một chiến lƣợc Đại 
dƣơng Xanh mới khi đƣờng giá trị của doanh nghiệp tiến gần tới đƣờng giá trị 
của đối thủ cạnh tranh. 
Việc giám sát này giúp các doanh nghiệp tránh đƣợc việc bỏ bê khai 
thác thị trƣờng hiện tại để đi tìm một thị trƣờng mới trong khi vẫn có những 
nhánh lợi nhuận lớn đang tồn tại trong Đại dƣơng Xanh hiện tại. Khi đƣờng 
giá trị của doanh nghiệp còn chƣa hội tụ, doanh nghiệp cần tập trung khai 
thác, mở rộng, đào sâu những hƣớng kinh doanh hiện tại bằng cách cải tiến 
các hoạt động vận hành và sử mở rộng về địa lý để đạt đƣợc những lợi thế 
kinh tế theo quy mô và chiếm đƣợc thị phần nhiều hơn nữa. Các doanh nghiệp 
nên bơi càng xa càng tốt, liên tục di chuyển, bứt phá khỏi những kẻ bắt chƣớc 
đầu tiên và khiến họ nản lòng trong suốt quá trình theo đuổi. 
Khi đối thủ cạnh tranh ngày càng nhiều, thị trƣờng ngày càng trở nên 
khốc liệt, và Đại dƣơng Xanh lúc này sẽ trở thành Đại dƣơng Hồng. Đây 
chính là lúc doanh nghiệp thực hiện việc tái đổi mới giá trị của mình. Và bởi 
vì cả Đại dƣơng Xanh và Đại dƣơng Đỏ luôn luôn tồn tại cùng lúc, thực tiễn 
kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải thành công trong cả hai đại dƣơng 
và phải làm chủ đƣợc chiến lƣợc của họ trên từng thị trƣờng của mình. 
102 
KẾT LUẬN 
Xét trên phƣơng diện tổng thể thị trƣờng trong nƣớc, Việt Nam có thể 
chƣa đƣợc coi là Đại dƣơng Đỏ. Tuy nhiên, với tốc độ hội nhập và phát triển 
nhƣ hiện nay, trong tƣơng lai không xa, khi mà ngày càng nhiều các doanh 
nghiệp nƣớc ngoài, các tập đoàn lớn, các công ty đa quốc gia đƣợc phép tham 
gia vào thị trƣờng Việt Nam thì thị trƣờng Việt Nam sẽ nhanh chóng trở thành 
nơi vẫy vùng của những con cá mập khổng lồ tầm cỡ Thế giới. 
Hiện nay, mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam đang đƣợc Nhà nƣớc cố 
gắng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nƣớc phát triển đủ mạnh để tạo 
nền tảng vững chắc hơn khi đất nƣớc mở rộng cửa cho rất nhiều doanh nghiệp 
nƣớc ngoài trong nhiều lĩnh vực đầu tƣ vào. Tuy nhiên, các công ty trong 
nƣớc vẫn còn bộc lộ rất nhiều yếu kém và bất lợi. 
Các doanh nghiệp của chúng ta, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và 
nhỏ, do hạn chế nhiều về vốn nên dẫn tới hạn chế về mặt kỹ thuật, công nghệ, 
quản lý. Không những thế, ngƣời tiêu dùng Việt Nam vẫn chƣa sẵn sàng đón 
nhận các mặt hàng do các doanh nghiệp “nƣớc nhà” sản xuất. Chính những 
điều này đã tạo ra một môi trƣờng kinh doanh, môi trƣờng cạnh tranh vô cùng 
khắc nghiệt cho các doanh nghiệp. 
Mô hình chiến lƣợc Đại dƣơng Xanh mà theo suy nghĩ của ngƣời viết 
là một mô hình áp dụng lý tƣởng để các doanh nghiệp áp dụng và tìm cho 
mình một hƣớng đi mới. Mô hình chiến lƣợc Đại dƣơng Xanh không đòi hỏi 
các doanh nghiệp phải cập nhật công nghệ mới nhất, tiên tiến nhất mà chỉ yêu 
cầu các doanh nghiệp tìm ra đƣợc những nhu cầu của ngƣời tiêu dùng còn 
đang tiềm ẩn trong thị trƣờng rộng lớn. Đây là một hƣớng đi giúp các doanh 
nghiệp mới đặt chân vào thị trƣờng tránh đƣợc “sự uy hiếp” của các ông lớn 
trong ngành, thậm chí còn vƣợt lên trên để giành lấy ƣu thế cho riêng mình. 
103 
Chính vì vậy, chiến lƣợc Đại dƣơng Xanh đƣợc coi là chiến lƣợc tuyệt vời để 
thay thế cho cạnh tranh đối đầu trực tiếp. 
Tuy nhiên, mô hình Đại dƣơng Xanh có thực sự hiệu quả với tất cả các 
doanh nghiệp hay không thì còn tùy thuộc vào cách thức vận dụng của từng 
doanh nghiệp vào từng điều kiện cụ thể của mình. Bởi lẽ, cơ hội đạt đƣợc khi 
hình thành Đại dƣơng Xanh là rất lớn, nhƣng những khó khăn đi kèm cũng 
không phải là nhỏ. Hình thành nên đƣợc Đại dƣơng Xanh cũng không có 
nghĩa là doanh nghiệp đạt đƣợc thế độc quyền và tránh đƣợc khỏi cạnh tranh 
nhƣ trong Đại dƣơng Đỏ, mà thực chất các doanh nghiệp cạnh tranh theo một 
cách thức khác. Đó là cạnh tranh về chất lƣợng, giá trị của sản phẩm. Trong 
đó, điều quan trọng nhất là các doanh nghiệp phải tạo dựng đƣợc những “sự 
đổi mới về giá trị” trên cơ sở quan điểm của ngƣời tiêu dùng. Để làm đƣợc 
điều này, ngƣời lãnh đạo và cách thức lãnh đạo cũng rất quan trọng. 
Với mong muốn giúp đỡ các doanh nghiệp có cái nhìn tổng thể và chi 
tiết về cách thức tạo dựng mô hình chiến lƣợc Đại dƣơng Xanh, từ đó rút ra 
đƣợc kinh nghiệm riêng cho mình, khóa luận đã đƣa ra mô hình tổng thể, khái 
quát về việc hoạch định chiến lƣợc, đồng thời phân tích các mô hình doanh 
nghiệp điển hình áp dụng thành công chiến lƣợc này nhằm rút ra những bài 
học cho các doanh nghiệp Việt Nam. 
Hy vọng rằng, với những nỗ lực không ngừng, những nền tảng vững 
chắc, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ nhanh chóng làm quen, thích nghi và xây 
dựng đƣợc cho mình một mô hình kinh doanh thành công. Từ đó, tạo dựng 
thƣơng hiệu Việt Nam không chỉ trong nƣớc, trong khu vực mà còn mang tầm 
Thế giới. 
104 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
I - Sách báo, tạp chí 
a.Tiếng Việt 
1. Jame R. Gregory, Xây dựng thƣơng hiệu mạnh và thành công, NXB Thống 
Kê, 2004. 
2. Nguyễn Phú Quốc, Lập kế hoạch khởi sự kinh doanh, NXB Tri thức, 2007. 
3. Nguyễn Đình Thọ - Nguyễn Thị Mai Trang, Nguyên lý Marketing, NXB 
Đại học Quốc gia TP HCM, 2007. 
4. Lƣu Thanh Đức Hải, , Marketing ứng dụng trong sản xuất, kinh doanh 
thƣơng mại và dịch vụ, NXB Thống kê, 2007. 
5. Lê Thế Giới, Quản trị Marketing, NXB Giáo dục, 2005. 
6. Lý Quý Trung, Xây dựng thƣơng hiệu dành cho doanh nghiệp Việt Nam 
đƣơng đại, NXB Trẻ, 2007. 
7. Phillip Kotler, Kotler Bàn Về Tiếp Thị - Làm thế nào để tạo lập, giành 
đƣợc và thốnglĩnh thị trƣờng, NXB Trẻ, 2007. 
8. Steven A. Michaelson - Gerald A. Michaelson, Tìm hiểu thị hiếu khách 
hàng - 12 nguyên tắc thiết yếu để chinh phục khách hàng, NXB Lao động - 
Xã hội, 2006. 
9. Trần Minh Đạo, Marketing, NXB Thống kê, 2006. 
10. W.Chan Kim và Renée Mauborgne, Chiến lƣợc Đại dƣơng Xanh : Làm 
thế nào để tạo khoảng trống thị trƣờng và vô hiệu hóa đối thủ cạnh tranh, 
NXB Tri thức, 2007. 
11. Thời báo kinh tế Việt Nam. 
12. Tạp chí thƣơng mại. 
13. Tạp chí đầu tƣ - Vietnam Investment Review. 
14. Tạp chí quản lý kinh tế. 
105 
b.Tiếng Anh 
15. Donald Sull, Why Good Companies Go Bad, Harvard Business Review, 
2008 
16. Michael E. Porter, On Competition, 1998. 
17. Michael E.Porter, What is strategy?, 2006. 
18. Philip Kotler, Marketing Management, 2003. 
19. Robert S. Kaplan &David P. Norton, Having Trouble with Your Strategy? 
Then Map It, 2007. 
20. Stephen P. Robbins, Mary Coulter, Rolf Bergman and Ian Stagg, 
Management, 2006. 
II - Các trang Webs 
21.
quan-ly-chien-luoc-nguon-nha-2.html 
22. 
23.
q2.html 
24. 
25. 
26. 
27. 
28. 
29. 
30. 
31.
Itemid=29 
32.
97ed8c4495a6 
106 
33. 
34. 
35. 
36. 
37. 
38. 
39.
.aspx 
40. 
41. 
42.
865eb2289740 
43. 
44.
s_id=442 
45.
strategy-wii.html 
46. 
47. 
48.  
49. 
50.
88&sec=business 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 4245_645.pdf 4245_645.pdf