Đề tài Phát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ tại Việt Nam

MỞ ĐẦU1 1_ Tính cẤp thiẾt cỦa đỀ tài1 2_ MỤc đích nghiên cỨu1 3_ ĐÔi tưỢng và phẠm vi nghiên cỨu2 4_ Phương pháp nghiên cỨu2 5_ NhỮng đóng góp cỦa đỀ tài2 6_ KẾt cẤu bài nghiên cỨu2 Chương 1: Các vẤn đỀ cơ bẢn vỀ thỊ trưỜng trái phiẾu Chính PhỦ3 1.1. KHÁI QUÁT VỀ TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ3 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm trái phiếu Chính Phủ. 3 1.1.1.1. Khái niệm3 1.1.1.2. Đặc điểm của trái phiếu Chính Phủ. 4 1.1.2. Phân loại trái phiếu Chính Phủ. 5 1.1.2.1. Phân loại theo chủ thể ủy quyền phát hành. 5 1.1.2.2. Phân loại theo thời gian đáo hạn. 6 1.1.2.3. Phân loại khác. 6 1.2. THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ11 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của thị trường trái phiếu Chính Phủ. 11 1.2.1.1. Khái niệm, cấu trúc của thị trường tài chính. 11 1.2.1.2. Khái niệm, đặc điểm thị trường trái phiếu Chính Phủ. 12 1.2.2. Phân loại thị trường trái phiếu Chính Phủ. 13 1.2.2.1. Thị trường phát hành trái phiếu Chính Phủ. 13 1.2.2.2. Thị trường giao dịch trái phiếu Chính Phủ. 14 1.2.2.3. Mối liên hệ giữa thị trường phát hành và thị trường giao dịch TPCP15 1.2.3. Phát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ. 16 1.2.3.1. Khái niệm16 1.2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của thị trường TPCP. 16 1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ18 1.3.1. Các nhân tố vĩ mô. 19 1.3.1.1. Nhân tố về sự ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế. 19 1.3.1.2. Nhân tố pháp lý. 20 1.3.1.3. Nhân tố thuộc về mô hình tổ chức thị trường. 21 1.3.1.4. Các nhân tố khác. 21 1.3.2. Các nhân tố vi mô. 23 1.3.2.1. Nhân tố về các tổ chức trung gian tài chính. 23 1.3.2.2. Nhân tố về công chúng đầu tư. 23 1.3.2.3. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước. 23 KẾT LUẬN chương 1. 24 Chương 2: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU Chính PhỦ ở ViỆt Nam . 25 2.1. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TPCP Ở VIỆT NAM25 2.1.1. Giai đoạn trước năm 1990: Giai đoạn chưa hình thành thị trường TPCP25 2.1.2. Giai đoạn 1990 - nay: Giai đoạn bắt đầu hình thành và phát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ. 25 2.1.2.1. Giai đoạn 1990 – 1999. 26 2.1.2.2. Giai đoạn 2000 – 2004. 27 2.2. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ Ở VIỆT NAM28 2.2.1. Thị trường phát hành TPCP. 28 2.2.1.1. Khung pháp lý điều chỉnh. 28 2.2.1.2. Thành viên tham gia. 29 2.2.1.3. Thực trạng hoạt động. 29 2.2.2. Thị trường giao dịch TPCP. 37 2.2.2.1. Khung pháp lý điều chỉnh:37 2.2.2.2. Thành viên tham gia. 39 2.2.2.3. Thực trạng hoạt động thị trường giao dịch TPCP. 42 2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TPTP Ở VIỆT NAM 56 2.3.1. Những kết quả đạt được. 56 2.3.1.1. Về thị trường phát hành. 56 2.3.1.2. Về thị trường giao dịch. 58 2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân. 59 2.3.2.1. Hạn chế. 59 2.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế. 63 KẾT LUẬN chương 2. 66 Chương 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG tpcp Ở VIỆT NAM67 3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TPCP Ở VIỆT NAM . 67 3.1.1. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu vốn đầu tư của Việt Nam trong giai đoạn 2001 – 2010. 67 3.1.1.1. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội67 3.1.1.2. Nhu cầu về vốn đầu tư phục vụ thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010. 69 3.1.2. Định hướng phát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ ở Việt Nam70 3.2. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TPCP Ở VIỆT NAM. 71 3.2.1. Giải pháp vĩ mô. 71 3.2.2. Giải pháp vi mô. 72 KẾT LUẬN chương 3. 79 KẾT LUẬN80

doc84 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3623 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
87.467 5 22 94.253.090 4.284.231 9.786.918.970 444.859.953 6 21 70.095.560 3.337.884 7.341.164.836 349.579.278 7 22 72.015.000 3.273.409 7.556.606.520 343.482.115 8 23 80.109.180 3.483.008 8.386.015.889 364.609.386 9 19 51.954.500 2.734.447 5.312.826.588 279.622.452 10 23 36.854.460 1.602.368 3.780.529.638 164.370.854 11 22 53.470.060 2.430.457 5.411.218.059 245.964.457 12 20 46.416.870 2.320.844 4.518.790.024 225.939.501 ( Nguồn: Báo cáo thường niên 2007- TTGDCK Hà Nội ) Về thông tin thị trường Thông tin thị trường cho giao dịch TPCP tại TTGDCK Hà Nội bao gồm các nhóm chính sau: Thông tin báo cáo từ TTGDCK, các thành viên giao dịch và thông tin đầu vào từ các tổ chức phát hành Thông tin từ hệ thống giao dịch: gồm thông tin cơ bản về trái phiếu; thông tin về tình hình giao dịch đang diễn ra; thông tin tra cứu; thông tin trao đổi (messaging); các tham số giao dịch Thông tin công bố ra công chúng qua các phương tiện: website của TTGDCK Hà Nội (gồm có thông tin giao dịch tổng hợp trực tuyến, bảng giao dịch báo giá trái phiếu trực tuyến, bảng giao dịch thoả thuận trực tuyến, tin tức liên quan đến giao dịch trái phiếu); Bản tin chứng khoán của TTGDCK Hà Nội. Phần mềm hệ thống thông tin trong hệ thống giao dịch thứ cấp cho trái phiếu hiện nay là 1 trong các phân hệ trong hệ thống giao dịch do một công ty phần mềm trong nước thiết kế (Công ty cổ phần FPT). Tuy nhiên, thông tin liên quan đến tình hình giao dịch trái phiếu còn nghèo nàn; thông tin tham khảo về tình hình thị trường tài chính- tiền tệ, kinh tế vĩ mô không được tích hợp. Ngoài ra, còn thiếu các công cụ tính toán, phân tích phục vụ giao dịch các như bảng tính tự động, các định dạng đồ thị phân tích, các mô hình tính toán lợi suất, các công cụ tra cứu. Về hệ thống tin học Hạ tầng mạng, phần cứng thiết bị tại TTGDCK Hà Nội về cơ bản là thống nhất. Tuy nhiên về nghiệp vụ được phân thành 03 hệ thống thành phần như sau: (i) Hệ thống giao dịch: Gồm 04 phân hệ + Phân hệ giao dịch: gồm thỏa thuận và báo giá, cổ phiếu và trái phiếu + Phân hệ thông tin thị trường nội bộ + Phân hệ giám sát + Phân hệ lưu ký-đăng ký-thanh toán bù trừ (đã chuyển giao cho Trung tâm lưu ký). (ii) Hệ thống đấu giá cổ phiếu, đấu thầu trái phiếu (iii) Hệ thống cung cấp thông tin: gồm 02 thành phần chính: + WEBSITE: cung cấp thông tin tổng hợp, public về hoạt động của TTGDCK HÀ NỘI, thông tin giao dịch, đấu giá/ đấu thầu trực tuyến + Phần mềm Inforshow: Cung cấp thông tin giao dịch trực tuyến cho CTCK thành viên, sổ lệnh thỏa thuận, kết quả giao dịch cuối ngày. Giao dịch TPCP qua hệ thống giao dịch trên TTGDCK Hà Nội vẫn cần nhập lệnh tại sàn. Công ty chứng khoán không nhập lệnh trực tiếp từ trụ sở chính mà chuyển lệnh bằng FAX hoặc điện thoại vào sàn cho đại diện giao dịch, sau đó đại diện giao dịch mới nhập lệnh vào hệ thống. Hệ thống chưa cho phép thành viên đưa ra báo giá hai chiều và chưa có khả năng mở rộng giao dịch trực tiếp cho thành viên không phải là CTCK. Máy chủ, hạ tầng mạng và phần cứng thiết bị của TTGDCK Hà Nội còn nhiều hạn chế. Hệ thống đuợc xây dựng trên nền tảng hệ điều hành Windows 2003 server, cơ sở dữ liệu Oracle 9i, máy chủ tầm trung Compaq-HP ML 350-370, thiết bị mạng Cisco. Đây đều là những nền tảng công nghệ thông tin cơ bản nhất hiện nay. Về hệ thống thanh toán cho giao dịch TPCP Trước khi Trung tâm Lưu ký Chứng khoán (TTLKCK) đi vào hoạt động kể từ ngày 1/5/2006, hệ thống thanh toán cho giao dịch TPCP vẫn được tiến hành độc lập trên các bộ phận đăng ký-lưu ký và thanh toán bù trừ trên 2 TTGDCK. Kể từ ngày 1/5/2006, hệ thống lưu ký, thanh toán giao dịch trái phiếu trên thị trường tập trung do TTLK quản lý sau khi tiếp nhận chức năng này từ hai TTGDCK. Việc tiếp nhận các nhiệm vụ lưu ký, đăng ký và thanh toán bù trừ, trong đó bao gồm cả hệ thống kĩ thuật từ các TTGDCK được thực hiện trên cơ sở nguyên trạng. Vì vậy, về mặt tổ chức, vận hành, hệ thống lưu ký, thanh toán trái phiếu của TTLK vẫn được tổ chức độc lập như trước đây mà chưa có sự hợp nhất. Theo đó, Trụ sở chính TTLK tại Hà Nội quản lý và vận hành hệ thống lưu ký, thanh toán cho các giao dịch trái phiếu trên TTGDCK Hà Nội; Chi nhánh TTLK tại TP.HCM quản lý và vận hành hệ thống lưu ký, thanh toán cho các giao dịch trái phiếu trên Sở GDCK TP.HCM. Do TPCP vẫn được tổ chức giao dịch tại Sở GDCK và TTGDCK, nên tổ chức hoạt động của hệ thống và điểm đặc thù giữa hai hệ thống thanh toán giao dịch trái phiếu có sự khác nhau. Về cơ bản hoạt động đăng ký, lưu ký TPCP và nguyên tắc thanh toán là tương tự như nhau tại Sở GDCK và TTGDCK, cụ thể là: - Đăng ký trái phiếu: Trái phiếu niêm yết trên Sở GDCK được đăng ký thông tin chi tiết tại Chi nhánh TTLK, bao gồm: thông tin về đơn vị phát hành, loại, số lượng chứng khoán phát hành, lãi suất, thời hạn và thông tin về chủ sở hữu… để làm cơ sở theo dõi và quản lý. - Lưu ký trái phiếu: Nhà đầu tư lưu ký trái phiếu vào Chi nhánh TTLK thông qua các thành viên lưu ký để được giao dịch trên TTGDCK. - Nguyên tắc thanh toán: Thanh toán giao dịch trái phiếu được thực hiện theo nguyên tắc chuyển giao đồng thời thanh toán DVP, thanh toán tiền diễn ra đồng thời và chắc chắn với thanh toán chứng khoán. Do đặc thù của hệ thống nên hoạt động thanh toán tại Sở GDCK và TTGDCK có khác nhau về một số điểm sau: (a) Thanh toán giao dịch trái phiếu tại Sở GDCK TP.HCM: Sau khi giao dịch được thực hiện trên Sở GDCK, giao dịch TPCP sẽ được thanh toán theo kết quả bù trừ đa phương với thời gian thanh toán T+1 (một ngày làm việc sau ngày giao dịch). Về bù trừ giao dịch trái phiếu: Sau khi kết thúc giao dịch, kết quả giao dịch sẽ được chuyển từ hệ thống giao dịch sang hệ thống lưu ký, thanh toán. Giao dịch trái phiếu sẽ được bù trừ đa phương. Kết quả bù trừ tiền được chuyển sang Ngân hàng chỉ định thanh toán (NHĐT&PTVN) Chi nhánh Nam kỳ Khởi nghĩa (tại TP.HCM) để thanh toán tiền. Thanh toán giao dịch trái phiếu: TTLK (Chi nhánh TP.HCM) thanh toán chứng khoán thông qua các tài khoản lưu ký của thành viên lưu ký mở tại TTLK. Ngân hàng chỉ định thanh toán Chi nhánh Nam kỳ Khởi nghĩa thanh toán tiền cho các giao dịch trái phiếu thông qua các tài khoản tiền của thành viên lưu ký và TTLK mở tại Ngân hàng chỉ định. (b) Thanh toán giao dịch trái phiếu tại TTGDCK Hà Nội Phương thức thanh toán: Giao dịch trái phiếu trên TTGDCK Hà Nội được thanh toán theo một trong ba phương thức tuỳ thuộc vào điều kiện giao dịch như sau: (1) Đối với giao dịch thực hiện theo phương thức báo giá: Áp dụng phương thức thanh toán giao dịch bù trừ đa phương. (2) Đối với giao dịch thực hiện theo phương thức thoả thuận: Phương thức thanh toán áp dụng cho các giao dịch thoả thuận có khối lượng giao dịch khác nhau như sau: Loại giao dịch Phương thức thanh toán Giao dịch TPCP với giá trị tính theo mệnh giá <10 tỷ đồng Thanh toán bù trừ đa phương Giao dịch TPCP: với giá trị tính theo mệnh giá ≥ 10 tỷ đồng Lựa chọn 1 trong 3 phương thức: - Thanh toán bù trừ đa phương - Thanh toán bù trừ song phương - Thanh toán trực tiếp Thời gian thanh toán: - Thanh toán bù trừ đa phương: T+3 - Thanh toán bù trừ song phương: T+2 - Thanh toán trực tiếp: T+1-T+3 Bù trừ giao dịch trái phiếu: Sau khi kết thúc giao dịch, kết quả giao dịch sẽ được chuyển từ hệ thống giao dịch sang hệ thống lưu ký, thanh toán. Giao dịch trái phiếu sẽ được phân loại để bù trừ theo lựa chọn về phương thức thanh toán của người đầu tư. Kết quả bù trừ tiền được chuyển sang Ngân hàng chỉ định thanh toán (NHĐT&PTVN) Chi nhánh Hà Thành (tại Hà Nội) để thanh toán tiền. Thanh toán giao dịch trái phiếu: - TTLK (Trụ sở chính) thanh toán chứng khoán thông qua các tài khoản lưu ký của thành viên lưu ký mở tại TTLK. - Ngân hàng chỉ định thanh toán Chi nhánh Hà Thành thanh toán tiền cho các giao dịch trái phiếu thông qua các tài khoản tiền của thành viên lưu ký và TTLK mở tại Ngân hàng chỉ định. (c) Giao dịch qua nghiệp vụ thị trường mở Thị trường mở bắt đầu hoạt động từ 7/2000, hiện tại, thị trường mở có 22 thành viên tham gia, nhưng chỉ có 8 thành viên tham gia thường xuyên; nghiệp vụ thị trường mở mỗi tuần thực hiện 2 phiên giao dịch. Từ tháng 11/2004 NHNN đã tăng định kỳ giao dịch lên 3 phiên/tuần vào các ngày thứ 3, thứ 4 và thứ 5 hàng tuần để đáp ứng nhu cầu thanh toán. Bên cạnh đó NHNN điều chỉnh linh hoạt các kỳ hạn giao dịch từ 7 đến 60 ngày phù hợp với nhu cầu vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng. Trước khi nghị định 141/2003/NĐ-CP ban hành, giao dịch thông qua nghiệp vụ thị trường mở chỉ dành thực hiện việc mua vào và bán ra các giấy tờ có giá ngắn hạn ( trong đó có trái phiếu kho bạc) nhằm thay đổi cơ số tiền tệ trên cơ sở đó tác động đến lượng tiền cung ứng và lãi suất ngắn hạn để nhằm điều hành chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, hiện nay theo quy định mới của nghị định 141/2003/NĐ-CP do Chính Phủ ban hành đã cho phép tất cả các loại trái phiếu Chính Phủ được phép mua, bán trên thị trường tiền tệ hoặc chiết khấu, cầm cố tại NHNN, qua đó sẽ làm tăng tính thanh khoản của trái phiếu Chính Phủ và tạo thuận lợi thu hút thêm các nhà đầu tư tham gia vào thị trường kinh doanh trái phiếu Chính Phủ và chúng ta có thể hy vọng rằng hoạt động giao dịch của trái phiếu Chính Phủ thông qua nghiệp vụ thị trường mở sẽ thực sự sôi động và phát triển một cách mạnh mẽ trong thời gian tới. 2.3. Đánh giá thực trạng thị trường TPCP ở Việt Nam 2.3.1. Những kết quả đạt được 2.3.1.1. Về thị trường phát hành Đối với bất kỳ một quốc gia nào, việc thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đều phụ thuộc rất nhiều vào chính sách huy động vốn và hiệu quả sử dụng vốn. Hiện nay, nước ta đang trong tình trạng thiếu vốn, nên vấn đề huy động và cân đối các nguồn vốn đầu tư lại càng có ý nghĩa quan trọng, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm cho nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng ổn định và bền vững. Chính sách huy động vốn là một bộ phận quan trọng của chính sách tài chính quốc gia, gắn bó mật thiết với chính sách đầu tư phát triển kinh tế, chính sách tiền tệ tín dụng, đồng thời tác động trực tiếp đến các quan hệ phân phối - thu nhập, tích lũy - tiêu dùng trên phạm vi toàn xã hội. Đây là chính sách được ưu tiên hàng đầu của các quốc gia đang phát triển. Trong những năm gần đây, thực hiện chủ trương khai thác tối đa nguồn vốn trong nước (chủ yếu là vốn trong dân cư) để bù đắp thiếu hụt ngân sách và thực hiện các chương trình phát triển công cộng, Việt Nam đã không ngừng tăng cường mở rộng quy mô và đa dạng hóa các hình thức huy động vốn. Bên cạnh các biện pháp huy động vốn có tính truyền thống như : phát hành công trái quốc gia, phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc bằng biện pháp hành chính, trực tiếp thông qua hệ thống kho bạc nhà nước, đã xuất hiện những phương thức huy động vốn thông qua thị trường đấu thầu tín phiếu, trái phiếu qua Ngân hàng nhà nước, qua trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK), bảo lãnh phát hành,... tạo nên những kênh huy động vốn mới cho ngân sách nhà nước. Việc phát hành trái phiếu Chính Phủ (TPCP) trong những năm qua đã đạt được những thành công sau : Thứ nhất, khối lượng vốn huy động bằng biện pháp phát hành TPCP tăng lên qua các năm (trừ năm 2000) đã bù đắp bình quân trên 70% tổng số thiếu hụt ngân sách nhà nước hằng năm, góp phần chấm dứt thời kỳ phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện ngân sách của nước ta chưa ổn định (số bội chi hằng năm khoảng 3,5% GDP). Thứ hai, nhờ có nguồn vốn huy động thông qua phát hành TPCP mà các nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước đã được đáp ứng kịp thời. Đặc biệt, việc phát hành TPCP huy động được hàng tỉ đồng để đầu tư cho các công trình trọng điểm của trung ương và địa phương. Thứ ba, các loại TPCP được phát hành ngày càng đa dạng hơn. Bên cạnh các tín phiếu có kỳ hạn ngắn : 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng còn có trái phiếu có lãi suất cố định, thanh toán một lần khi đáo hạn, trái phiếu không có bảo đảm. Trong những năm gần đây, Nhà nước đã phát hành cả các trái phiếu có kỳ hạn dài : 2 năm, 3 năm, 5 năm ; trái phiếu chiết khấu ; trái phiếu có bảo đảm (như trái phiếu xây dựng đường dây tải điện 500 kV, bảo đảm giá trị theo vàng) ; trái phiếu có lãi suất được điều chỉnh theo mức độ trượt giá trên thị trường (như Công trái xây dựng Tổ quốc kỳ hạn 5 năm, phát hành từ 19 - 5 đến 15-7-1999 được bảo đảm giá trị theo chỉ số trượt giá công bố hàng năm), trái phiếu có lãi suất thả nổi. Điều đáng ghi nhận là TPCP đã góp phần đáp ứng được nhu cầu đầu tư đa dạng của công chúng và tạo điều kiện cho ngân sách nhà nước chủ động hơn trong việc sử dụng vốn vay và bố trí nguồn trả nợ. Thứ tư, Khung pháp lý từng bước được hoàn thiện, tạo điều kiện để thị trường TPCP ngày càng phát triển. Nếu như trước năm 1994 việc phát hành trái phiếu chưa có văn bản nào ở cấp Chính Phủ thì vào năm 1994 trở lại đây hàng loạt các nghị định của Chính Phủ mà điển hình là nghị định 72/CP ngày 26/7/1994; nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998; nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 13/1/2000; và mới đây nhất là nghị định 141/2003/NĐ-CP đi kèm với nó là các quy định, thông tư, hướng dẫn về việc triển khai thực hiện hoạt động phát hành, giao dịch trái phiếu Chính Phủ và hoạt động của TTCK đã tạo cho việc phân định các loại trái phiếu một cách rõ ràng góp phần làm giảm tính bao cấp của Nhà nước đối với các địa phương, làm tăng tính thanh khoản của trái phiếu Chính Phủ. 2.3.1.2. Về thị trường giao dịch Thứ nhất, thị trường thứ cấp ngày càng được củng cố, hoàn thiện và phát triển: Thị trường thứ cấp trái phiếu Chính Phủ đã được hình thành và trở thành một bộ phận của thị trường chứng khoán Việt Nam. Khối lượng trái phiếu, chủng loại trái phiếu Chính Phủ được niêm yết tại TTGDCK ngày càng nhiều về số lượng và phong phú về chủng loại. Ngoài ra, việc cho phép giao dịch trái phiếu Chính Phủ trên thị trường mở sẽ tạo điều kiện để thị trường giao dịch ngày càng phát triển và thu hút thêm được nhiều thành viên tham gia thị trường. Thứ hai, Giao dịch trên thị trường ngày càng hoàn thiện hơn bởi việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào thị trường. Khi đi vào hoạt động, TTGDCK đã đưa các thông tin về chứng khoán lên bảng giao dịch điện tử, thông qua các thông tin trên bảng điện tử nhà đầu tư sẽ có đầy đủ các thông tin cần thiết trước khi ra quyết định đầu tư, hạn chế tối thiểu sai sót có thể xảy ra trong hoạt động niêm yết, giao dịch TPCP trên thị trường; rút ngắn thời gian đầu tư và hướng tới phát triển một thị trường TPCP điện tử trong tương lai gần. Thứ ba, Các dịch vụ hỗ trợ cho khách hàng ngày càng trở nên phong phú và đa dạng hơn. TTGDCK cùng với các công ty chứng khoán đã cung cấp dịch vụ lưu ký, thanh toán bù trừ, đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư như trả lãi định kỳ, cầm cố trái phiếu Chính Phủ trong các quan hệ tín dụng. TPCP được phát hành dưới hình thức ghi sổ nên đã giảm bớt được chi phí in ấn và quản lý ấn chỉ trái phiếu. Ngoài ra, TTGDCK áp dụng hình thức thanh toán bù trừ tập trung nên đã rút ngắn được thời gian thanh toán khi thực hiện các giao dịch, tiết kiệm được các khoản chi phí giao dịch, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư kinh doanh TPCP. 2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1. Hạn chế Cùng với những kết quả nêu trên, việc phát hành TPCP ở Việt Nam trong những năm qua cũng đã bộc lộ không ít những hạn chế, bất cập sau : Một là, Quy mô thị trường còn nhỏ, chưa tương xứng với mức độ ảnh hưởng của thị trường TPCP đến các hoạt động kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. Quy mô của trái phiếu nói chung và trái phiếu chính phủ nói riêng hiện chiếm tỉ lệ rất thấp trong tổng tài sản tài chính cả nước với chỉ bằng 8% so với GDP, con số này khoảng 5 tỷ USD rất nhỏ bé nếu so với mức đủ để đạt tính thanh khoản 100-200 tỷ USD, chưa khai thác thỏa đáng nguồn vốn nhàn rỗi còn khá tiềm tàng trong nền kinh tế. Đối với các nước trong khu vực, tỷ lệ dư nợ TPCP khoảng 20% - 30% GDP như : Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a. Tại các nước phát triển, tỷ lệ này còn cao hơn nhiều (như Mỹ, Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản...). Hai là, Trái phiếu phát hành chưa có tính chuẩn mực. Mặc dù số lượng và loại trái phiếu phát hành có xu hướng ngày càng tăng, nhưng phần lớn trái phiếu đã phát hành chưa được chuẩn hóa về mệnh giá, về ngày phát hành và thời gian đáo hạn nên không đủ tiêu chuẩn tham gia thị trường chứng khoán tập trung. Ở các nước phát triển, tính chuẩn mực của các trái phiếu được phát hành rất cao, ví dụ ở thị trường chứng khoán Mỹ, hầu hết các trái phiếu có mệnh giá thống nhất là 1000 USD. Ba là, Tính thanh khoản kém, thị trường giao dịch còn chưa phát triển. Thời gian gần đây, các phương thức phát hành trái phiếu đã được đa dạng hơn, tuy nhiên, vẫn còn những bất cập trong cơ chế phát hành, nhất là phát hành qua TTGDCK làm ảnh hưởng đến mục tiêu huy động vốn và phát triển thị trường. Việc xác định lãi suất chỉ đạo đôi khi chưa căn cứ vào tình hình biến động của nền kinh tế, không phản ánh xác thực tình hình thị trường; Hình thức trái phiếu chưa phong phú. Mặc dù TPCP là loại công cụ tài chính có độ an toàn cao (được bảo đảm bằng ngân sách quốc gia), nhưng nó chưa thực sự giữ vai trò chủ đạo trong các giao dịch chứng khoán. Thực tế cho thấy, khối lượng TPCP đã niêm yết là khá lớn, nhưng hoạt động giao dịch lại kém sôi động. Ở nhiều phiên giao dịch không có lệnh đặt mua, bán và không có giao dịch. Khối lượng giao dịch TPCP trong các phiên có giao dịch cũng rất thấp (có phiên chỉ có 10 trái phiếu), trừ những phiên có giao dịch thỏa thuận giữa các nhà đầu tư có tổ chức. Bốn là, đối tượng tham gia thị trường trái phiếu còn rất hạn chế, đặc biệt là thiếu các nhà đầu tư có tổ chức như các quỹ hưu trí, quỹ đầu tư, công ty chứng khoán.... Trên thị trường trái phiếu hiện nay, tại TTGDCK Hà Nội mới có 63 thành viên tham gia đấu thầu, song số lượng thành viên tham gia thường xuyên không nhiều đã gây khó khăn cho các thành viên đấu thầu tích cực trong việc tìm kiếm khách hàng, gia tăng lợi nhuận từ nguồn phí đấu thầu. Các doanh nghiệp hầu hết chưa tham gia với mục đích quản lý vốn khả dụng một cách linh hoạt. TPCP phần lớn được phát hành thông qua hình thức đấu thầu hoặc bảo lãnh phát hành đều được các ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm...nắm giữ cho tới khi đáo hạn. Các tổ chức này mua TPCP nhằm mục đích giải quyết tình trạng ứ đọng vốn và cũng như để đầu tư dài hạn. Do vậy, khi chưa cần nguồn vốn cho những phương án đầu tư có hiệu quả hay các mục đích khác, thì các tổ chức này không có nhu cầu bán lại TPCP. Năm là, thị trường trái phiếu còn thiếu một cơ cấu lãi suất chuẩn. Với uy tín của Chính Phủ, các loại TPCP từ ngắn hạn đến dài hạn nếu được phát hành một cách đều đặn căn cứ vào một kế hoạch tổng thể sẽ tạo nên một đường cong lãi suất chuẩn cho thị trường tiền tệ cũng như thị trường chứng khoán. Đó chính là những mức lãi suất tổng hợp do cung cầu quyết định. Tuy nhiên, trong thực tế lãi suất trúng thầu tại các phiên đấu thầu bị giới hạn bởi lãi suất trần của Bộ Tài Chính, do đó lãi suất trúng thầu chưa thực sự được xác định trên cơ sở cung cầu vốn trên thị trường, chưa tạo ra cơ chế cạnh tranh lãi suất giữa các thành viên đấu thầu. Do vậy, lãi suất TPCP vẫn chưa được coi là lãi suất tham chiếu cho thị trường. Sáu là, chưa có cơ chế khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tài chính tham gia mua sơ cấp TPCP (lãi suất bị khống chế, phí bảo lãnh phát hành thấp, không được thế chấp TPCP do Quỹ HTPT phát hành để tái cấp vốn tại NHTW...). Bảy là, công tác kế hoạch hoá phát hành trái phiếu chưa tốt, lịch biểu thiết kế cho các phương thức phát hành chưa hợp lý và chưa khoa học; các đợt phát hành theo các phương thức khác nhau nhiều khi chồng chéo dẫn đến hiệu quả không cao. Tám là, thị trường hiện nay còn thiếu sự đa dạng kỳ hạn của các TPCP cũng như các công cụ nợ khác để giúp hình thành lãi suất thị trường của các công cụ nợ. Hầu hết trái phiếu phát hành qua hình thức đấu thầu là trái phiếu trung, dài hạn (kỳ hạn 5, 10 và 15 năm) thiếu các trái phiếu có kỳ hạn ngắn hơn như 2 năm, 3 năm. Vì vậy lượng vốn đầu tư của thành viên đấu thầu là tổ chức tín dụng vào trái phiếu vẫn còn hạn chế do chưa có trái phiếu kỳ hạn ngắn phù hợp với nguồn vốn. Chín là, vai trò tư vấn đầu tư của các công ty chứng khoán trong thời gian qua còn rất hạn chế, chưa thực hiện được chức năng của người tạo thị trường. Như đã nêu ở phần trên, hoạt động tư vấn của các công ty chứng khoán mới chỉ mang tính chất hướng dẫn người đầu tư thực hiện đúng các thủ tục mua bán chứng khoán, mà chưa thực sự tư vấn cho họ biết cách đầu tư vốn của mình như thế nào cho có hiệu quả. Nếu các công ty chứng khoán thực hiện tốt nghiệp vụ này thì sẽ có tác dụng quan trọng trong việc phân luồng đầu tư, chuyển bớt được phần nào nhu cầu đầu tư cổ phiếu sang trái phiếu, làm giảm áp lực tăng giá cổ phiếu trong thời gian qua. Mười là, Thị trường chưa có một tổ chức định mức tín nhiệm nào. Hoạt động định mức tín nhiệm được coi là rất cần thiết cho việc phát triển thị trường trái phiếu đặc biệt là thị trường thứ cấp. Các chủ thể tham gia thị trường khó có thể nhận ra rủi ro lãi suất tiềm tàng (tức là giá) của một trái phiếu nếu không có hoạt động định mức tín nhiệm. Điều này sẽ buộc các nhà đầu tư muốn mua phải làm các bước như: tự phân tích chi phí đầu tư trái phiếu một cách tốn kém; mua trái phiếu không định hướng; và cuối cùng có thể là không mua. Với sự ra đời của công ty định mức tín nhiệm, nhà đầu tư có nhu cầu mua trái phiếu có thể thông qua đánh giá của công ty này để chọn được doanh nghiệp vừa có khả năng mang lại lợi nhuận cao vừa đảm bảo tính an toàn Như vậy, thực tế thị trường TPCP đã diễn ra không như mong đợi của các nhà hoạch định chính sách và tổ chức thị trường. Việc phát hành TPCP nhằm mục đích tạo nguồn hàng hóa chính cho thị trường chứng khoán tập trung của Việt Nam trong giai đoạn đầu và nhằm kéo người đầu tư khỏi "cơn khát" cổ phiếu, giảm bớt "nóng" cho thị trường đã thực hiện không mấy kết quả. 2.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế (a) Nguyên nhân vĩ mô Môi trường kinh tế vĩ mô vẫn chưa thuận lợi cho thị trường TPCP phát triển. Mặc dù nền kinh tế trong giai đoạn đổi mới có sự tăng trưởng khá nhưng Việt Nam vẫn nằm trong nhóm những nước nghèo, thu nhập bình quân đầu người còn thấp, lạm phát tăng cao tuy đã được kiềm chế nhưng tình hình lạm phát ở Việt Nam vẫn ở mức cao, sự mất cân đối trong cơ cấu các ngành kinh tế còn rất cao, thị trường tài chính chưa phát triển… những điều này khiến cho việc thu hút các nhà đầu tư lớn tham gia vào thị trường TPCP còn gặp nhiều khó khăn. Do đó làm cho thị trường TPCP kém phát triển, dẫn đến hạn chế trong việc thu hút vốn để phục vụ đầu tư phát triển của Chính Phủ. Hệ thống pháp luật còn chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ. Văn bản pháp quy cao nhất về phát hành và giao dịch TPCP hiện mới chỉ dừng lại ở Nghị định của Chính Phủ mà chưa được xây dựng thành luật. Việc ban hành các văn bản pháp quy còn hạn chế, chưa đồng bộ làm cho việc vận hành thị trường gặp nhiều khó khăn và gây cản trở các thành viên tham gia thị trường, đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức, các nhà tạo lập thị trường chuyên nghiệp… Mô hình tổ chức thị trường TPCP chưa phù hợp. Hiện nay, các giao dịch TPCP chủ yếu diễn ra trên TTGDCK trong khi đó vẫn còn rất nhiều giao dịch ngoài sàn với khối lượng lớn chưa được tổ chức quản lý. Tại các nước phát triển các giao dịch TPCP được tổ chức chủ yếu trên thị trường phi chính thức. (b) Nguyên nhân vi mô Sự phối hợp của các cơ quan quản lý còn nhiều bất cập. Các văn bản về phân định trách nhiệm của các cơ quan quản lý còn chưa rõ rang dẫn đên việc tổ chức phối hợp chưa cao, thiếu tính hiệu quả. Sự gắn kết trong việc tổ chức phát hành còn yếu dẫn đến việc có thời điểm cả kho bạc nhà nước và quỹ HTPT cùng nhau phát hành, điều này đã dẫn đến sự thất bại của các đợt phát hành. Công tác xây dựng kế hoạch chưa tốt dẫn đến hiệu quả thu hút vốn còn thấp. Một trong những công việc hết sức quan trọng có ảnh hưởng đến sự thành công của chiến lược huy động vốn đó là công tác kế hoạch hóa; song công tác này hiện nay còn chưa được quan tâm đúng mức, mới chỉ xây dựng kế hoạch hàng năm, quý, tháng chưa có chiến lược tổng thể về huy động vốn thông qua hình thức TPCP. Do công tác kế hoạch hóa NSNN còn hạn chế nên dẫn đến phát hành trái phiếu còn thụ động, thời điểm phát hành đôi lúc còn trùng nhau, chưa phù hợp với khả năng cung ứng vốn của nền kinh tế, dẫn đến lãi suất chưa thật chuẩn, đôi lúc còn khá cao không sát với tình hình thực tế. Thiếu nhà tạo lập thị trường, nhà đầu tư kinh doanh trái phiếu chuyên nghiệp. Hiện nay, các nhà đầu tư có tổ chức chủ yếu là các NHTM, các công ty bảo hiểm tham gia đấu thầu trái phiếu hoặc bảo lãnh phát hành thường nắm giữ trái phiếu cho đến khi đáo hạn, chứ không đưa trái phiếu Chính Phủ ra giao dịch và họ coi đây là công cụ đầu tư dài hạn. Hoạt động quản lý phát hành và giao dịch TPCP còn nhiều bất cập. Mặc dù đã có nghị định 141/2003/NĐ-CP và pháp lệnh số 12/1999/PL-UBTVQH10 về phát hành công trái xây dựng tổ quốc làm khung pháp lý chuẩn cho việc phát hành và giao dịch TPCP trên thị trường, nhưng việc tổ chức quản lý thị trường TPCP và sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong quá trình hoạch định chính sách còn nhiều vấn đề bất cập. Về điều hành lãi suất, lãi suất TPCP chưa phải là lãi suất chuẩn để tham chiếu. Lãi suất TPCP là do Bộ Tài Chính công bố cho từng đợt phát hành cụ thể, thường là thấp hơn lãi suất huy động vốn cùng kỳ hạn của các NHTM. Thiếu cơ chế lãi suất chuẩn: ở Việt Nam hiện nay, cơ chế xác định lãi suất rất không chuẩn khi trái phiếu Chính Phủ nhiều khi còn cạnh tranh cả với lãi suất ngân hàng, trong khi đó lãi suất trái phiếu Chính Phủ đáng ra phải là lãi suất chuẩn trên thị trường, bởi nó có độ rủi ro bằng không. Ở các nước phát triển, trên các trang báo kinh tế ấn bản hàng ngày luôn có cột lãi suất trái phiếu Chính Phủ với rất nhiều kỳ hạn khác nhau làm cơ sở để các nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư của mình. Nhưng đó là ở nước ngoài, còn hiện tại với trái phiếu Chính Phủ ở Việt Nam, ngoài vấn đề về lãi suất thì kỳ hạn cũng còn rất ít, chủ yếu là các loại trái phiếu có kỳ hạn 5 năm, khó có thể xây dựng được căn cứ lãi suất trên thị trường. Hệ thống công nghệ tin học được áp dụng hiện nay trên thị trường chứng khoán còn nhiều hạn chế: Thường xuyên xảy ra sự cố như thể hiện thông tin sai lệch, mất dữ liệu trên bảng điện tử, dữ liệu không hiển thị hoặc hiển thị chập chờn……gây khó khăn cho việc ra quyết định đầu tư của các nhà đầu tư. Nếu không đầu tư phát triển công nghệ tin học thì khi thị trường ngày càng phát triển hệ thống tin học cũ không thể quản lý và vận hành tốt được, từ đó trực tiếp gây thiệt hại đến nhà đầu tư trên thị trường, kìm hãm sự phát triển của thị trường. Một hạn chế nữa là nguồn nhân lực có kỹ năng cho thị trường cũng rất yếu kém. Vấn đề gặp phải trong quá trình phát triển thị trường vốn và tài chính ở Việt Nam đều được nhìn nhận rõ là khâu nhân lực. Giải quyết vấn đề này đòi hỏi mất rất nhiều thời gian và công sức. Kết luận chương 2 Trái phiếu Chính Phủ đã trở thành hàng hóa có chất lượng cao trên thị trường chứng khoán. Mặc dù khối lượng phát hành và giao dịch chưa nhiều, quy mô thị trường còn chưa phản ánh hết tiềm năng, việc phát hành TPCP để huy động vốn còn nhiều bất cập nhưng thị trường TPCP cũng đã góp một phần không nhỏ trong việc phát triển thị trường chứng khoán ngày hôm nay. Để phát huy được vai trò của thị trường TPCP đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, huy động nguồn lực tài chính trong xã hội phục vụ đầu tư phát triển, chúng ta cần có cái nhìn mới trong việc phát triển thị trường TPCP để nó trở thành một bộ phận quan trọng cảu thị trường tài chính. Từ thực trạng của thị trường TPCP ở Việt Nam hiện nay, chúng ta tìm ra được những mặt hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó, để từ đó nghiên cứu và đưa ra những giải pháp phù hợp với điều kiện, bối cảnh cụ thể của Việt Nam nhằm huy động tối đa nguồn vốn đáp ứng kịp thời nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế - xã hội đất nước của Chính Phủ trong giai đoạn tới. Chương 3: Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ ở Việt Nam 3.1. Định hướng phát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ ở Việt Nam. 3.1.1. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu vốn đầu tư của Việt Nam trong giai đoạn 2001 – 2010 3.1.1.1. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Mục tiêu tổng quát của Chiến lược 10 năm 2001 - 2010 được Nghị quyết đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất,văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lựckhoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”. Các mục tiêu cụ thể của Chiến lược là: - Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế; đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, một phần đáng kể nhu cầu sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu. Ổn định kinh tế vĩ mô; cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh và tăng dự trữ ngoại tệ; bội chi ngân sách, lạm phát, nợ nước ngoài được kiểm soát trong giới hạn an toàn và tác động tích cực đến tăng trưởng. Tích lũy nội bộ nền kinh tế đạt trên 30% GDP. Nhịp độ tăng xuất khẩu gấp trên 2 lần nhịp độ tăng GDP. Tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp 16 - 17%, công nghiệp 40 - 41%, dịch vụ 42 - 43%. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn khoảng 50%. - Nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta. Tốc độ tăng dân số đến năm 2010 còn 1,1%. Xoá hộ đói, giảm nhanh hộ nghèo. Giải quyết việc làm ở cả thành thị và nông thôn (thất nghiệp ở thành thị dưới 5%, quỹ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn khoảng 80-85%); nâng tỷ lệ người lao động được đào tạo nghề lên khoảng 40%. Trẻ em đến tuổi đi học đều được đến trường; hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong cả nước. Người có bệnh được chữa trị; giảm tỷ lệ trẻ em (dưới 5 tuổi) suy dinh dưỡng xuống khoảng 20%; tăng tuổi thọ trung bình lên 71 tuổi. Chất lượng đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần được nâng lên rõ rệt trong môi trường xã hội an toàn, lành mạnh; môi trường tự nhiên được bảo vệ và cải thiện. - Năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ đủ khả năng ứng dụng các công nghệ hiện đại, tiếp cận trình độ thế giới và tự phát triển trên một số lĩnh vực, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá. - Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và có bước đi trước. Hệ thống giao thông bảo đảm lưu thông an toàn, thông suốt quanh năm và hiện đại hoá một bước. Mạng lưới giao thông nông thôn được mở rộng và nâng cấp. Hệ thống đê xung yếu được củng cố vững chắc; hệ thống thủy nông phát triển và phần lớn được kiên cố hóa. Hầu hết các xã được sử dụng điện, điện thoại và các dịch vụ bưu chính - viễn thông cơ bản, có trạm xá, trường học kiên cố, nơi sinh hoạt văn hóa, thể thao. Bảo đảm về cơ bản cơ sở vật chất cho học sinh phổ thông học cả ngày tại trường. Có đủ giường bệnh cho bệnh nhân. - Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được tăng cường, chi phối các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; doanh nghiệp nhà nước được đổi mới, phát triển, sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đều phát triển mạnh và lâu dài. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản và vận hành thông suốt, có hiệu quả. Để tạo được những mục tiêu chiến lược nêu trên, yếu tố quyết định đầu tiên là phải tạo lập đọc nguồn vốn để đầu tư cho nền kinh tế. Phải có giải pháp tích cực nhằm huy động một cách có hiệu quả nhất các nguồn lực tài chính cả trong và ngoài nước. Muốn vậy, chúng ta cần dự báo và tiến tới lập kế hoạch về nhu cầu vốn giành cho đầu tư phục vụ chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã đặt ra. 3.1.1.2. Nhu cầu về vốn đầu tư phục vụ thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 Theo dự báo của các chuyên gia kinh tế, với hệ số ICOR của Việt Nam trong giai đoạn này là khoảng 4 – 4,2 và như vậy tổng nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2001 – 2010 ước khoảng 2.150 – 2.170 nghìn tỷ đồng ( tương đương khoảng 150 – 160 tỷ USD ), trong đó nguồn vốn trong nước chiếm khoảng 65% và vốn từ nước ngoài chiểm khoảng 35%. Theo dự báo tốc độ đầu tư bình quân hàng năm từ 10 – 12%, nâng tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội đạt mức 30 – 32% GDP. Muốn đạt được điều này thì bộ chi ngân sách giai đoạn này phải được khống chế ở mức thấp hơn hoặc bằng 5% GDP, đồng thời việc huy động vốn thông qua việc phát hành trái phiếu Chính Phủ phải đảm bảo được việc bù đắp cho bội chi NSNN và đáp ứng được đòi hỏi về nhu cầu vốn phục vụ cho đầu tư phát triển mà Chính Phủ đã đặt ra. 3.1.2. Định hướng phát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ ở Việt Nam Mục tiêu phát triển của thị trường trái phiếu Chính Phủ tại Việt Nam là nhằm khai thác một cách có hiệu quả nhất các nguồn vốn trong và ngoài nước phục vụ cho kế hoạch chi tiêu và phát triển của Nhà nước. Định hướng phát triển thị trường TPCP phải nằm trong định hướng chung về trái phiếu thị trường tài chính và nó gắn chặt với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội nói chung. Thị trường TPCP phải gắn chặt và giữ vai trò quan trọng trong thị trường chứng khoán, đặc biệt là trong giai đoạn mới thiết lập, xây dựng thị trường giao dịch chứng khoán tập trung qua SGDCK và thị trường phi tập trung, từ đó tăng khối lượng huy động qua hình thức TPCP. Thị trường TPCP phải phát triển tương xứng với đòi hỏi của nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu về vốn trong giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Chiến lược phát triển thị trường TPCP dựa trên các yếu tố sau: Trong mục tiêu phát triển thị trường cần phân định rõ mục tiêu ngắn hạn, mục tiêu dài hạn. Trước hết là đáp ứng đủ nhu cầu về vốn để cân đối NSNN và phát triển kinh tế theo định hướng chung với chi phí thấp nhất. Ngoài ra, cần thiết lập và quản lý thị trường vốn, thị trường chứng khoán nhằm đáp ứng các mục tiêu cụ thể của chính sách tài khóa. Phát triển thị trường sơ cấp và thứ cấp: phát hành thường xuyên và hợp lý số lượng TPCP ra thị trường, trong đó đặc biệt chú ý đến các phương thức phát hành hiện đại theo hình thức bán buôn để thúc đẩy giao dịch trên thị trường thứ cấp; cần phát triển thị trường thứ cấp trên cả thị trường tập trung và phi tập trung Xây dựng chiến lược quản lý nợ tốt: Nhằm nâng cao tính thanh khoản của trái phiếu Chính Phủ, lịch phát hành trái phiếu Chính Phủ phải được công bố rõ rang, tạo ra chuẩn mực cho thị trường bằng cách tái phát hành một cách có hệ thống trái phiếu có cùng ngày đáo hạn. Xây dựng một khung pháp lý đồng bộ nhằm huy động một cách có hiệu quả các nguồn vốn và tạo điều kiện để thu hút được nhiều đối tượng thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia vào thị trường TPCP. 3.2. Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ ở Việt Nam. 3.2.1. Giải pháp vĩ mô Xây dựng một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định: Việc ổn định về kinh tế vĩ mô là yếu tố quan trọng để từ đó thực hiện các giải pháp nhằm phát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ. Khi nền kinh tế vĩ mô ổn định, thu nhập và tiết kiệm của người dân sẽ tăng lên từ đó nhu cầu đầu tư trung và dài hạn cũng tăng theo, đây chính là cơ hội để tăng lượng cầu trái phiếu Chính Phủ. Nếu có môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, lãi suất trên thị trường vốn, tỷ giá hối đoái và lạm phát được kiểm soát sẽ là điểm đến hấp dẫn đối với nhà đầu tư và là điều kiện lý tưởng để huy động vốn thông qua việc phát hành trái phiếu Chính Phủ. Do vậy, Chính Phủ cần thực hiện ngay một số biện pháp như: Kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý, duy trì một mặt bằng lãi suất ổn định tạo điều kiện cho các nhà đầu tư điều chỉnh các danh mục đầu tư của họ. Hoàn thiện hệ thống các quy định về pháp luật cho thị trường trái phiếu Chính Phủ: Muốn thực hiện các giải pháp nhằm hoàn thiện thị trường TPCP thì điều kiện tiên quyết là phải xây dựng một hệ thống các quy định pháp luật thống nhất. Việc xây dựng khung pháp lý cho thị trường TPCP cần tập trung vào việc thiết lập các khuôn khổ pháp lý về thị trường chứng khoán , thị trường phát hành và giao dịch chứng khoán; xây dựng hành lang pháp lý cho thị trường chứng khoán hoạt động là nhân tố quan trọng tạo nên sự ổn định của thị trường, tránh những bất ổn và gian lận đáng tiếc trong hoạt động giao dịch chứng khoán. Ngoài ra, trong quá trình hoàn thiện các quy định pháp luật cần có sự phân định rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành đối với việc quản lý, giám sát hoạt động vay nợ của Nhà nước thông qua phát hành trái phiếu Chính Phủ. Hoàn thiện cấu trúc tổ chức thị trường: Việc hoàn thiện cấu trúc tổ chức thị trường cần thực hiện theo 2 hướng: Hình thành riêng một khu vực dành cho niêm yết và giao dịch TPCP trên TTGDCK. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư khi tham gia giao dịch và các nhà quản lý thị trường khi quản lý, giám sát các giao dịch. Nhanh chóng thành lập thị trường OTC, khi thị trường OTC đi vào hoạt động sẽ cho phép nhà đầu tư giao dịch với khối lượng lớn, phương thức giao dịch dễ dàng qua thương lượng và hệ thống báo giá, từ đó tạo động lực khuyến khích các nhà đầu tư chuyên nghiệp tham gia thị trường và thực hiện chức năng tạo lập thị trường. 3.2.2. Giải pháp vi mô Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý thị trường: xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy hướng dẫn việc phát hành trái phiếu Chính Phủ, tổ chức tốt hoạt động của thị trường phát hành và thị trường giao dịch TPCP, xây dựng các chính sách có liên quan như chính sách lãi suất, chính sách kế toán kiểm toán….để khuyến khích hoạt động đầu tư, mua bán lại TPCP. Nâng cao chất lượng công tác kế hoạch hóa: Công tác kế hoạch hóa là sự kết hợp của công tác dự báo, xây dựng kế hoạch chiến lược trong huy động các nguồn vốn và thành lập cơ quan quản lý nợ quốc gia. Công tác dự báo và xây dựng kế hoạch chiến lược cần dựa trên các căn cứ: Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của từng giai đoạn. Tình hình thực hiện và cân đối ngân sách nhà nước Nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển các công trình trung ương Tình hình hoạt động của thị trường Hoàn thiện công tác thống kê, hạch toán kế toán: Việc thống kê hạch toán kế toán cần được thay đổi cho phù hợp với từng hình thức mới của trái phiếu như trái phiếu ghi sổ, trả lãi trước, trả lãi định kỳ, trả lãi sau…đồng thời theo dõi được các hình thức phát hành mới như bảo lãnh phát hành, đại lý, đấu thầu đại lý về TPCP. Bên cạnh đó, đối với nhà phát hành cần xây dựng một chế độ thống kê, hạch toán kế toán cho các trung gian tài chính như: ngân hàng đầu tư, CTCK, để theo dõi quản lý thị trường TPCP từ khâu phát hành đến khâu giao dịch và thanh toán trái phiếu. Đẩy mạnh việc tham gia của các nhà tạo lập thị trường, các nhà đầu tư chuyên nghiệp: Muốn phát triển thị trường TPCP thì điều đầu tiên là phải phát triển các nhà đầu tư có tổ chức, các trung gian tài chính bao gồm: các CTCK, NHTM, CTBH, Quỹ đầu tư…..Đối với cá nhân việc mua bán trái phiếu chủ yếu là hưởng lãi suất nên nhu cầu mua đi bán lại là rất ít. Tuy nhiên, các trung gian tài chính chưa thực hiện nghiệp vụ thực sự của các nhà tạo lập thị trường, đó là việc yết giá, số lượng mua và bán trái phiếu. Thêm vào đó, việc thiếu các công cụ phái sinh trên thị trường trái phiếu như hoán đổi, quyền lựa chọn, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai khiến cho Việt Nam chưa có các nhà tạo lập thị trường theo đúng nghĩa. Dưới đây là một số giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh sự tham gia của các nhà đầu tư chuyên nghiệp: Cấp giấy phép thành lập các công ty chứng khoán nước ngoài, cho phép tổ chức, cá nhân người nước ngoài mua TPCP. Trong thời gian đầu cần thực hiện chính sách miễn giảm thuế từ lãi trái phiếu để ta thu hút được nguồn vốn Khuyến khích thành lập CTCK, quỹ đầu tư chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư… Tạo lập thị trường cho một số ngân hàng có quy mô vốn lớn. dần dần hình thành các tổ chức chuyên nghiệp thực hiện chức năng tạo lập thị trường. Thành lập thêm các công ty bảo hiểm trong nước và nước ngoài đáp ứng nhu cầu bảo hiểm của dân cư khi đời sống vật chất ngày càng được cải thiện và nâng cao, đồng thời huy động một khối lượng vốn đáng kể cho đầu tư phát triển. Hoàn thiện phương thức phát hành, hình thức TPCP: Về phương thức phát hành: việc phát hành TPCP được thực hiện theo phương thức : đấu thầu trái phiếu qua TTGDCK, đại lý và bảo lãnh phát hành. Tuy nhiên do các loại trái phiếu còn chưa đa dạng, cơ chế phát hành, thanh toán chưa linh hoạt thuận tiện cho người mua nên khối lượng vốn huy động còn hạn chế. Do đó, trong thời gian tới cần tiếp tục đổi mới theo hướng sau: Chỉ phát hành trái phiếu kỳ hạn dài : 5 năm, 10 năm, 15 năm, 20 năm… bảo đảm nâng dần tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn huy động cho ngâ sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển. Áp dụng hình thức đấu thầu kết hợp với bảo lãnh phát hành: trong một đợt bảo lãnh phát hành, thực hiện đấu thầu để xác định lãi suất và khối lượng trúng thầu, trường hợp khối lượng trúng thầu không đủ mức dự kiến các tổ chức có trách nhiệm mua phần còn lại. Tiếp tục áp dụng hình thức đấu thầu cạnh tranh và không cạnh tranh, tạo điều kiện cho các thành viên chưa có kinh nghiệm tham gia thị trường. Về hình thức trái phiếu: tiếp tục phát hành TPCP dưới hình thức chứng chỉ, đồng thời mở rộng việc phát hành dưới hình thức ghi sổ, bảo lãnh phát hành , tiến tới chỉ phát hành trái phiếu dưới hình thức ghi sổ. Tuy nhiên, cho dù dưới hình thức nào thì mệnh giá TPCP nên thống nhất ở một vài mức nhất định. Về việc mở rộng phương thức phát hành TPCP: mở rộng và đẩy mạnh phương thức đấu thầu TPCP qua thị trường chứng khoán tập trung, bởi giá bán của trái phiếu theo hình thức này được hình thành qua cạnh tranh nên mang tính thị trường cao. Ngoài ra, phát hành theo hình thức này thì các nhà đầu tư nhỏ lẻ cũng được tham gia đấu thầu, thông qua các thành viên được phép tham gia thị trường đấu thầu như các công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư…. Đa dạng hóa các loại TPCP: Việc sử dụng vốn từ nguồn TPCP với kỳ hạn trung và dài hạn mới có hiệu quả và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như thời gian xây dựng một dự án nói riêng. Ngoài ra, những trái phiếu có thời gian đáo hạn dài sẽ khuyến khích giao dịch trên thị trường, góp phần phát triển thị trường chứng khoán. Việc đa dạng hóa các hình thức trái phiếu có ý nghĩa rất quan trọng do nó có khả năng khai thác tối đa mọi nguồn vốn trong xã hội, mở ra nhiều hình thức trái phiếu cho nhà đầu tư lựa chọn để phù hợp với từng điều kiện nhất định và làm phong phú thêm cho thị trường chứng khoán. Loại tiền huy động: Bên cạnh việc huy động bằng tiền Việt Nam, cần đẩy mạnh phát hành TPCP bằng ngoại tệ thu hút nguồn vốn ngoại tệ nhàn rỗi trong xã hội, đặc biệt là nguồn ngoại tệ của hệ thống ngân hàng và dân cư để đầu tư vào những dự án cụ thể có khả năng thu hồi vốn cao như: đầu tư vào các nhà máy thủy điện , nhà máy lọc dầu, các công trình cơ sở hạ tầng…. Xây dựng phương pháp xác định lãi suất TPCP thành lãi suất chuẩn của thị trường trái phiếu: Lãi suất là nhân tố quan trọng tác động đến khả năng huy động vốn, lãi suất TPCP cũng như các công cụ lãi suất khác đều rất nhạy cảm, đặc biệt là lãi suất trung và dài hạn. Đối với Việt Nam đang trong quá trình hình thành và phát triển, một thị trường trái phiếu hoạt động hiệu quả thì cần phải xây dựng đường cong lãi suất chuẩn dựa trên lãi suất của các loại TPCP có các kỳ hạn khác nhau. Do đó, cần một định hướng cho việc xác định đường cong lãi suất, hay lãi suất chuẩn cho thị trường trái phiếu như: Có sự phối hợp giữa NHNN, Bộ Tài Chính, UBCKNN trong việc xác định lãi suất và điều chỉnh lãi suất cơ bản, biên độ theo từng thời kỳ, trên cơ sở đó có hướng dẫn chỉ đạo thị trường về lãi suất thị trường. Xây dựng một cơ chế lãi suất linh hoạt, tuy nhiên vẫn phải có lãi suất chỉ đạo để tính lãi suất đặt thầu tập trung hơn. Cải tiến cơ chế công bố lãi suất theo nguyên tắc: lãi suất dài hạn cao hơn ngắn hạn, lãi suất buôn cao hơn bán lẻ Ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ: Với tốc độ phát triển của thị trường chứng khoán như hiện nay thì việc áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào thị trường là vô cùng quan trọng. Giao dịch ngày càng lớn thì càng cần có hệ thống thông tin hiện đại đủ sức cung cấp thông tin và quản lý thị trường. Cần xây dựng chương trình tin học phục vụ công tác quản lý TPCP nhằm cung cấp thông tin quản lý về tình hình thị trường TPCP, đáp ứng các nhu cầu thanh toán trái phiếu trên diện rộng. Thiết lập hệ thống tin học phục vụ cho giao dịch TPCP trên thị trường tập trung, để điều hành quá trình mua bán của các nhà đầu tư, các nhà môi giới và nhà quản lý thị trường. Đồng thời ứng dụng công nghệ tin học vào nghiệp vụ thanh toán và lưu ký chứng khoán. Tăng cường bồi dưỡng và đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ, nâng cao kiến thức của công chúng về lĩnh vực huy động vốn: tổ chức đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ là công tác huy động vốn, đặc biệt là nhóm cán bộ xây dựng chiến lược huy động vốn. Đối với cán bộ lãnh đạo: cần tham gia các khóa học ngắn hạn, hội thảo về tài chính công, chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách huy động vốn…. giúp cho các cán bộ này được cập nhật kiến thức thường xuyên. Đồng thời, cần tổ chức các đượt giám sát, đi thực tế học hỏi các nước kinh tế phát triển hoặc các nước trong khu vực có điều kiện hoàn cảnh tương tự để nghiên cứu vận dụng vào thực tế Việt Nam. Đối với cán bộ xây dựng chính sách, chế độ: tổ chức tập huấn ngắn hạn, hội thảo chuyên sâu về lĩnh vực tài chính công và huy động vốn giúp cho nhóm cán bộ này củng cố cập nhật kiên thức, phục vụ cho nghiên cứu, xây dựng chính sách, chế độ. Đối với cán bộ trực tiếp làm nhiệm vụ phát hành thanh toán trái phiếu: thường xuyên tham gia các khóa đào tạo nghiệp vụ giúp cho các cán bộ này có thể tiếp cận với những phương thức phát hành mới, phục vụ nhanh chóng, thuận tiện cho người dân, nâng cao hiệu quả của công tác huy động vốn. Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về lĩnh vực huy động vốn cho các đối tượng là đông đảo các tầng lớp nhân dân để phát hiện các sáng kiến, giải pháp tăng cường huy động nguồn vốn trong dân cho đầu tư phát triển. Đẩy mạnh hoạt động của thị trường giao dịch: hoạt động của thị trường giao dịch có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng huy động vốn trên thị trường sơ cấp. Hiện tại tính thanh khoản của TPCP ở Việt Nam còn thấy và đây là trở ngại lớn nhất đối với sự phát triển của thị trường TPCP. Muốn thị trường giao dịch phát triển ta cần giải quyết các vấn đề sau: Nhanh chóng triển khai thị trường phi tập trung, xây dựng khuôn khổ pháp lý và cơ chế hoạt động cho thị trường này. Đối với các loại trái phiếu Chính Phủ chưa đáp ứng được các điều kiện để được niêm yết giao dịch trên trung tâm chứng khoán sẽ có cơ hội được giao dịch trên thị trường phi tập trung Tăng cường hơn nữa việc thực hiện các thỏa thuận mua lại ( REPO) đối với trái phiếu Chính Phủ nhằm nâng cao tính thanh khoản của TPCP, thông qua đó các nhà đầu tư sử dụng linh hoạt các nguồn vốn, góp phần ổn định và phát triển thị trường TPCP. Cần thành lập công ty lưu ký và thanh toán bù trừ độc lập, trên cơ sở tách nghiệp vụ lưu ký và thanh toán bù trừ ra khỏi trung tâm giao dịch chứng khoán. Tiếp tục có chính sách ưu đãi về thuế đối với hoạt động kinh doanh TPCP. Chính phủ cần áp dụng chính sách ưu đãi miễn thuế thu nhập cho mọi đối tượng đầu tư vào TPCP, việc miễn thuế có thể được thực hiện đến khi thị trường tương đối phát triển. Kết luận chương 3 Xuất phát từ những phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, chương 3 đã đưa ra những quan điểm, định hướng phát triển và giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển thị trường TPCP ở Việt Nam trong thời gian tới phù hợp với các thông lệ quốc tế để từng bước đưa Việt Nam hội nhập với thị trường tài chính quốc tế. KẾT LUẬN Thị trường trái phiếu Chính Phủ có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Đây không chỉ là một kênh dẫn vốn hữu hiệu cho nền kinh tế mà còn tạo ra sự đa dạng hoá các công cụ đầu tư trên thị trường vốn, cho phép các nhà đầu tư có thêm lựa chọn đầu tư ít rủi ro hơn. Trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu và vận dụng các lý luận về kinh tế tài chính, chuyên đề đã thực hiện được các mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là: Chương 1 đã khái quát những vấn đề cơ bản về TPCP và thị trường TPCP, các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường TPCP Chương 2, Nêu nên thực trạng thị trường trái phiếu Chính Phủ ở Việt Nam hiện nay. Qua đó chỉ ra những kết quả đạt được cũng như những hạn chế và nguyên nhân của thị trường trái phiếu Chính Phủ ở Việt Nam trong thời gian qua Chương 3, Từ những mặt hạn chế đã nêu ở chương 2 đưa ra những định hướng nhằm từng bước hoàn thiện thị trường trái phiếu Chính Phủ ở Việt Nam, đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển thị trường TPCP ở Việt Nam trong thời gian tới. Thị trường TPCP là một lĩnh vực hết sức phong phú và không ngừng phát triển cả về lý luận cũng như thực tiễn, những kết quả nghiên cứu của chuyên đề chỉ là một số đóng góp nhỏ và chưa thể bao quát được toàn bộ các khía cạnh của thị trường. Do vậy, Chắc chắn còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu để không ngừng hoàn thiện và phát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ ở Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO * * * Chiến lược tài chính – tiền tệ Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010,(2002), Bộ Tài Chính TS. Đào Lê Minh- chủ biên (2002), Giáo trình “ những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán ”, NXB chính trị quốc gia TS. Trần Đăng Khâm (2007), Giáo trình “ Thị trường chứng khoán phân tích cơ bản ”, NXB ĐH Kinh tế quốc dân TS. Lê Thị Mai Linh- chủ biên(2003), Giáo trình “ phân tích và đầu tư chứng khoán”, NXB chính trị quốc gia Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, Báo cáo thường niên 2006, 2007; Số liệu thống kê giao dịch 2006, 2007 Website: Website: Website: Website: Website: Website: Và một số website khác. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhát triển thị trường trái phiếu Chính Phủ tại Việt Nam.DOC
Luận văn liên quan