Đề tài Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam từ năm 1986 đến 2010

Trên cơ sở kiên trì thực hiện các mục tiêu của CNH, cần xây dựng, thực hiện, hoàn thiện các chính sách theo hướng đảm bảo đồng bộ, có hiệu lực, vừa cụ thể, vừa mềm dẻo. Chú ý các chính sách như: chính sách cơ cấu, chính sách mở cửa và bảo hộ sản xuất trong nước ở mức cần thiết, đảm bảo nguyên liệu cho sản xuất, bảo vệ môi trường và tài nguyên, lao động, việc làm , tiền công và bảo hiểm; thuế, tiền tệ, tín dụng; chuyển giao công nghệ, khuyến khích nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất; duy trì, phát triển các tinh hoa, bản sắc tốt đẹp của dân tộc và đất nước trên các lĩnh vực: Văn hoá, nghệ thuật, lối sống, kinh tế. Đổi mới một cách căn bản hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế. Xoá bỏ sự phân chia nền kinh tế thành kinh tế trung ương và kinh tế địa phương. Tách quyền quản lý với quyền sử dụng và quyền kinh doanh trong các doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước trung ương xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển các ngành. Địa phương cùng với nhà nước quản lý và đảm bảo vấn đề xã hội, môi trường và kết cấu hạ tầng cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

doc32 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6540 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam từ năm 1986 đến 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dần dần xuất hiện và bộc lộ rõ nét vào cuối những năm 1970 và suốt nhưng năm tiếp theo. Có thể nói, chưa bao giờ nền kinh tế đất nước lại lâm vào tính trạng khó khăn như giai đoạn này. Xu thế tự do hóa và quốc tế hóa phát triển mạnh, nhất là trên phương diện thương mại, đầu tư và chuyển giao công nghệ cũng đặt Việt Nam trước những thách thức mới trong quá trình thực hiện CNH, HĐH. Sự hợp tác với các nước kinh tế phát triển tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam có được những công nghệ hiện đại, nguồn nguyên liệu bổ sung, kinh nghiệm công nghiệp hóa… , song cũng đặt Việt Nam trước những cuộc cạnh tranh gay gắt mà nếu không biết nắm bắt cơ hội và khắc phục khó khăn thì sẽ có nguy cơ ngày càng tụt hậu xa so với các nước. Nhiều nước đã chuyể hướng chiến lược CNH từ thay thế nhập khẩu sang hướng xuất khẩu và đã đạt được nhiều thành công. Một loạt các nước công nghiệp mới (NICs) ra đời phản ánh xu thế đúng đắn trong phát triển toàn cầu. Trong khi đó, cũng thời kỳ này mặc dù đã có bước phát triển khả quan hơn so với 1976-1980, song chiến lược và chính sách CNH ở nước ta đã không bắt nhịp được với xu thế thời đại, nặng về hướng nội trong khi sức mua của thị trường thấp, mag tính tự cung tự cấp. Vì vậy, nền kinh tế trì trệ, hiệu quả thấp và hàng hóa thiếu sức cạnh tranh. Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu đã làm mất đi thị trường và sự giúp đỡ to lớn đối với nước ta ( ước tính bình quân 1 tỷ USD/năm, chiếm khoảng 7% GDP). Sự chuyển đổi cơ chế kinh tế của Liên Xô thật sự đã có ảnh hưởng quan trọng đối với công cuộc CNH ở Việt Nam, nó đánh dấu sự từ bỏ con đường CNH theo mô hình chiến lược cũ đã từng tồn tại 25 năm qua. II. Quá trình điều chỉnh chiến lược và chính sách CNH-HĐH ở nước ta từ 1986 đến nay. Đại hội VI (1986) - Trước hình trong nước và quốc tế đó, Đại hội VI (1986) đã nghiêm khắc “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật” về khuyết điểm sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước về lãnh đạo và quản lý kinh tế trong thời kỳ trước và và đề ra chiến lược CNH đất nước cho những năm này là “ ngay từ đầu, chúng ta kết hợp chặt chẽ nông nghiệp với công nghiệp, bao gồm công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng, để từng bước hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Bằng cách đó khắc phục khuyết điểm tách rời công nghiệp với nông nghiệp, hướng công nghiệp nặng phục vụ thiết thực và có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, khắc phục từng bước sự lạc hậu của kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông vận tải trong nền kinh tế nước ta”. Đại hội cũng đề ra chính sách CNH phù hợp hơn. Đại hội xác định rõ: “Bảo đảm cho nông nghiệp, kể cả lâm nghiệp, ngư nghiệp thật sự là mặt trận hàng đầu … Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, tiểu công nghiệp và thủ công nhiệp, đáp ứng cho được nhu cầu về hàng tiêu dùng thông thường, về chế biến nông, lâm, thủy sản … Tiếp tục xây dựng một số cơ sở công nghiệp nặng và kế cấu hạ tầng, trước hết là năng lượng và giao thông vận tải phù hợ với điều kiện thực tế, nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế, quốc phòng trong chặng đường đầu tiên, và chuẩn bị tiền đề cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa trong chặng đường tiếp theo” Trước mặt, cần thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn : lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Ba chương trình này liên quan chặt chẽ đến nhau. Phát triển lương thực – thực phẩm và hàng tiêu dùng là nhằm đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho đời sống nhân dân sau mấy chục năm chiến tranh ác liệt và trong bối cảnh của nền kinh tế còn đang trong tình trạng thiếu hụt hàng hóa nghiêm trọng, góp phần ổn định kinh tế - xã hội. Xác định thứ tự ưu tiên đó đã cho phép phát huy sức mạnh nội lực và tranh thủ sức mạnh từ bên ngoài để phát triển kinh tế - xã hội. Đây là sự thay đổi trong lựa chọn mô hình chiến lược CNH, chuyển từ mô hình hướng nội ( thay thế nhập khẩu ) trước đây bằng mô hình hỗn hợp (hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu). - Những thành tựu đạt được: Sự chuyển hướng trên cùng với nhưng thay đổi cơ chế quản lý kinh tế đã tạo nên nhưng thành tự đáng khích lệ, tạo ra nhưng điều kiện ban đầu quan trọng để triển khai CN hóa trong nhưng năm tiếp theo. Nhưng thành tựu cơ bản là : + Nền kinh tế có bước phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. từ chỗ thiếu lương thực triền miên trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 3, rồi thứ 2 trên thế giới. Các chỉ tiêu 1986 1990 Tốc độ tăng trưởng kinh tế 2,8 5,1 Tốc độ tăng trưởng công nghiệp 10,8 2,3 Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 3 1 Tốc độ tăng giá trị xuất khẩu 13 23,5 (Đơn vị: %) + Hình thành một số mặt hàng xuất khẩu cơ bản như gạo, than đá, dầu mở, lâm hải sản … + Cơ cấu kinh tế 1986: 30,1 – 28,9 – 33% 1990: 38,7 – 22,7 – 38,6% + Cơ cấu CN: nhóm A chiếm 33,5%/1981-1985 xuống 32,9%/1990 Nhóm B chiếm 66,5%1981-1985 lên 67,1%/1990 + Luật đầu tư nước ngoài được ban hành ( năm 1987). Vốn FDI ( đăng ký) 1988: 380 triệu USD; năm 1990: 589triệuUSD + Lần đầu tiên sau 30 năm Việt Nam có gạo xuất khẩu. Năm 1989 xuất khẩu 1,4 triệu tấn. Đến năm 2004 đạt hơn 4 triệu tấn (941 triệu USD). Tổng số gạo xuất khẩu của 16 năm đạt hơn 45,14 triệu tấn (10,77 tỷ USD), chiếm 13-16% thị phần gạo thế giới, trong đó có 13 năm đứng thứ 2 TG. + Lạm phát từ mức 3 con số giảm xuống còn 2 con số: Năm 1986: 774,7% Năm 1990: 67,1% Những hạn chế :  Những hạn chế, bất cập của cơ cấu kinh tế (CCKT) có thể nhìn nhận ở một số khía cạnh khách quan, chủ quan sau: Thứ nhất, với CCKT ngành, chúng ta đang ở những bước đi đầu tiên của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, việc bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư phục vụ cho ba chương trình kinh tế là phù hợp với quy luật và thực tiễn, đem lại những kết quả quan trọng bước đầu. Chính vì vậy, những bất cập nảy sinh trong quá trình vận động của CCKT ngành những năm cuối của thập kỷ 80 là sự “ đòi hỏi” chính đáng của qui luật phát triển kinh tế, của lực lượng sản xuất đã phát triển ở trình độ cao hơn. Thứ hai, việc xác định CCKT vùng lãnh thổ “ phải trên cơ sở điều tra, khảo sát, đánh giá đầy đủ về tự nhiên, tiềm năng kinh tế- xã hội, sự phát triển của các ngành kinh tế, mối quan hệ giữa các vùng trong cả nước...”. Như vậy, việc Đại hội VI chưa xác định các vùng kinh tế trên cả nước là sự tuân thủ qui luật phát triển kinh tế và căn cứ vào tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Do vậy, yêu cầu phải xác định các vùng kinh tế sau hơn 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI là phù hợp với sự vận động của thực tiễn khách quan, đòi hỏi chúng ta phải từng bước hòan thiện quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Thứ ba, cơ cấu thành phần kinh tế. Thực tế sau hơn 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, các nghị quyết khoá VI, chúng ta mới chỉ thực sự “cởi trói” cho sức sản xuất trong nông nghiệp nông thôn phát triển, còn trong ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nhất là thương mại dịch vụ thì hầu như “ dậm chân tại chỗ” khi triển khai xuống cơ sở. Như vậy, đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể, trong nhận thức chúng ta vẫn chưa thực sự quán triệt sâu sắc, đầy đủ quan điểm của Đảng về cải tạo để sử dụng các thành phần kinh tế này trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta. Đại hội VII ( năm 1991) Trên cơ sở những thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm đúc rút sau hơn 4 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra, trong đó có việc xác định, xây dựng lại cơ cấu kinh tế đã tạo cơ sở, niềm tin để Đảng ta xác định rõ hơn những mục tiêu, phương châm và biện pháp chỉ đạo phát triển kinh tế- xã hội trong thời gian tới. Đại hội VII của Đảng( 6-1991) nhấn mạnh, trước mắt cần: “Tập trung mọi nỗ lực giải quyết các vắn đề cấp bách nhất về kinh tế, xã hội, trên cơ sở đó thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm 1991- 1995: đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế”. Đường lối Đại hội VII đã xác định rõ hơn về chính sách CNH: “Tập trung phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến; đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; phát triển một số ngành công nghiệp nặng, trước hết là phục vụ cho sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, hàng tiêu và hàng xuất khẩu, đồng thời tạo cơ sở cho những bước phát triển tiếp theo”. Đại hội đã xác định vai trò “ mặt trân hàng đầu” của nông nghiệp, và trên thực tế đầu tư cho nông nghiệp tư ngân sách đã tăng lên ( năm 1995 đạt 3.951 tỷ đồng). Đại hội đề cập đến lĩnh vực dịch vụ kinh tế - kỹ thuật trong việc đáp ứng yêu cầu sản xuất, đời sống và hợp tác quốc tế. Đưa ra chiến lược phát triển kinh tế vùng phù hợp với chiến lược chung cả nước. Như vậy, căn cứ vào những chuyển biến của nền kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế nói riêng, những mục tiêu kinh tế- xã hội của Đại hội VII đề ra đã có bước phát triển hơn so với Đại hội VI, đã đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu quả sản xuất và có tích lũy cho nền kinh tế. Điều này chứng tỏ đường lối đổi mới, xây dựng lại cơ cấu kinh tế của Đại hội VI là hoàn toàn đúng đắn. Để thực hiện những mục tiêu nêu trên, Đại hội VII của Đảng khẳng định: “ phải phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế; đẩy mạnh ba chương trình kinh tế với những nội dung cao hơn trước và từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế mới theo yêu cầu công nghiệp hóa”. Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ được xác định, Đại hội VII đã đề ra những chủ trương, chính sách hoàn thiện cơ cấu kinh tế nhằm bước đầu thúc đẩy cơ cấu kinh tế chuyển dịch trong những năm 1991- 1995: “ khắc phục tính chất tự cấp tự túc, khép kín, chuyển mạnh sang nền kinh tế hàng hóa, gắn thị trường trong nước với ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu nhập khẩu”. Rõ ràng quan điểm của Đảng ta tại Đại hội VII về xây dựng cơ cấu kinh tế đã đặt ra những yêu cầu cao hơn so với Đại hội VI. Nếu như Đại hội VI bước đầu xác lập lại cơ cấu kinh tế phục vụ cho ba chương trình kinh tế nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách về kinh tế- xã hội của đất nước, thì Đại hội VII đề ra chủ trương tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ cấu kinh tế để thúc đẩy cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhằm phục vụ tốt hơn nữa ba chương trình kinh tế và từng bước chuyển từ nền kinh tế tự cấp tự túc khép kín sang kinh tế hàng hóa, sản xuất gắn với thị trường. Thành tựu đạt được: Thực hiện đường lối CNH của Đại hội VII, nến kinh tế đã có bước phát triển cao hơn, có chất lượng hơn, đi vào thực chất hơn so với nhiều năm trước: 1991 1995 Tốc độ tăng trưởng kinh tế 5,8 9,5 Tương ứng công nghiệp tăng 5,3 15,5 Nông nghiệp tăng 2,2 4,8 Xuất khẩu tăng 13,2 34,4 Tỷ lệ lạm phát 67,5 12,7 (Đơn vị: %) + Cơ cấu kinh tế: 1991:40,5 – 23,8 – 35,7% 1995: 27,2 – 28,8 – 44% + Vốn đầu tư cho công nghiệp giai đoạn 1991 – 1995 chiếm 38,4% tổng đầu tư xã hội ( 20,8 tỷ đồng). Vào đầu năm 1990, hệ thống XHCN theo mô hình cũ đã bị sụp đổ, kéo theo đó là nhiều thị trường truyền thống của Việt Nam bị mất đi, gây khó khăn lướn cho nước ta. Tuy vậy, đây cũng là cơ hội để Việt Nam từ bỏ kiểu CNH cổ điển với quan niệm lỗi thời. Hội nghị giữa nhiệm kỳ của BCH Trung ương Đảng Khóa VII ( năm 1994) đã quyết định nền kinh tế nước ta phải “chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, đẩy tới một bước CNH và HĐH đất nước, nhằm tạo thêm nhiều công ăn việc làm, đẩy nhanh tốc đô tăng trưởng kinh tế cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân” Như vậy, Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban chấp hành trung ương khóa VII đã nhấn mạnh thêm nội dung hiện đại hóa và coi CNH, HĐH là con đường tất yếu của sự nghiệp đổi mới nhằm đưa nước ta từ một nước nông nghiệp trờ thành nước công nghiệp. Đại hội Đảng khóa VIII (năm 1996) Trên cơ sở nền kinh tế đã ra khỏi khủng hoảng, đời sống nhân dân được cải thiện, an ninh chính trị được ổn định, Đại hội Đảng lần thứ VIII nhận định, rằng nước ta đã hoàn thành cơ bản việc chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa, và một lần nữa bắt đầu chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa đất nước nhằm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp sau khoảng 25 năm, trong đó những năm trước mắt là phải thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Báo cáo chính trị nêu rõ: “ đặt biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, thủy sản; phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu … Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cấp thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả cao”. Đại hội VII đã dặt quá trình công nghiệp hóa trong tiến trình phát triển chung của nền kinh tế. Điều chỉnh chính sách công nghiệp hóa theo hướng lấy nông nghiệp làm khâu đột phát, coi nông nghiệp kết hợp với công nghiệp chế biến là mặt trận hàng đầu. Tiếp tục thực hiện rông rãi hơn chính sách mở cửa, phát triển kinh tế nhiều thành phần, nâng cao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Gắn liền công nghiệp hóa với hiện đại hóa, lấy khoa học – công nghệ làm động lực, lấy nguồn lực con người làm yếu tố trung tâm của CNH, HĐH. Kết quả đạt được: 1996 2002 Tốc độ tăng trưởng kinh tế 9,3 6,75 Tốc độ tăng trưởng công nghiệp 14,5 10,1 Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 4,4 4 Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu 33,2 24 ( Đơn vị: %) Cơ cấu kinh tế 1996: 27,8 – 29,7 – 42,5% 2000: 24,3 – 36,6 – 39,1% Hạn chế: Tuy nhiên, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam đang đứng trước những thách thức của quá trình hội nhập. một trong những thách thức chính hiện nay là sự gia tăng khoảng cách giàu - nghèo. một trong những giải pháp quan trọng để khắc phục tồn tại này là phải nâng cao chất lượng đào tạo ở nhiều cấp bậc, đầu tư cho giáo dục ở khu vực nông thôn vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần có những biện pháp hữu hiệu để có thể huy động được những lợi thế của kinh tế tư nhân Việc thực hiện kinh tế thị trường đã làm tăng khoảng cách giàu nghèo, tăng ô nhiễm môi trường và các tệ nạn xã hội Nền kinh tế tăng trưởng cao nhưng chỉ số năng lực cạnh tranh ở mức thấp, gây lãng phí tài nguyên Đại hội IX ( năm 2001) - Khẳng định chiến lược CNH, HĐH ở nước ta lúc này là xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, trong đó tập trung mọi nguồn lực để đưa nông nghiệp phát triển lên một trình độ cao hơn. Báo cáo chính trị viết: “Tăng cường sự chỉ đạo và nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới … Công nghiệp vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động vừa đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao” Hội nghị BCH TƯ lần thứ năm (2002) đã cụ thể hóa chính sách CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của Đại hội IX, chỉ rõ mục tiêu tổng quát và lâu dài của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là: “Xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, QHSX phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại”. Để thực hiện mục tiêu đó, Hội nghị xác định: trong thời kỳ 2001-2010, là tập trung mọi nguồn lực để thực hiện một bước cơ bản mục tiêu tổng quá và lâu dài trên, với các chủ trương lớn là: + Phát triển LLSX, CDCCKT nông nghiệp, nông thôn. + Xây dựng QHXS phù hợp + Phát triển KCHT và độ thị hóa nông thôn + Xây dựng đời sống văn hóa – xã hội và phát triển nguốn nhân lực Những kết quả đạt được: 2001 2004 Tốc độ tăng trưởng kinh tế 6,84 7,7 Tốc độ tăng công nghiệp 14,2 16 Tốc độ tăng nông nghiệp 4,4 5,4 Tốc độ tăng xuất khẩu 4,5 26 Cơ cấu kinh tế 2001: 23 – 38 – 39% -Tăng sản phẩm thu nhập quốc dân Khác hẳn với tình hình kinh tế xã hội của thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, dưới ánh sáng đổi mới toàn diện nền kinh tế của Đảng, công cuộc CNH,HĐH đất nước trong thời gian hơn 10 năm qua nước ta đã thu được một số thành tựu có ý nghĩa bước ngoặt Trong lĩnh vực kinh tế, mức tăng trưởng GDP bình quân hơn 8% /năm. Trong tất cả các khu vực sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ đều tăng trưởngcao , lương thực không chỉ đủ ăn mà còn đủ gạo xuất khẩu, đứng thứ 2 thế giới. Ngoại thương tăng trưởng mạnh, lạm phát được kiềm chế .... - Đời sống kinh tế xã hội được cải thiện, uy tín quốc tế tăng lên + Sự kết hợp giữa nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài trong quá trình CNH-HĐH trong điều kiện quốc tế và khu vực có nhiều biến đổi. Cùng với quá trình chuyển sang kinh tế thị trường, CNH-HĐH còn gắn liền với việc mở cửa, hội nhập quốc tế và khu vực. Sự hiện diện của các nguồn vốn nước ngoài, bao gồm các nguồn vốn đầu tư ( vốn ODA, FDI ), công nghệ kĩ thuật, kĩ năng quản lý và kinh doanh, thị trường tiêu thụ hàng hoá sản phẩm hàng hoá, dịch vụ... đã chẳng những góp phầnquan trọng vào mức tăng trưởng GDP mà còn tạo ra sự năng động trong đời sống xã hội vốn trước đây rất trì trệ. + Trên cơ sở tăng trưởng kinh tế, đời sống xã hội còn nhiều chuyển biến tích cực, mức sống của nhân dân tăng lên rõ rệt. Tình hình an ninh chính trị ổn định,quan hệ đối ngoại được mở rộng, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế từng bước được nâng lên. Niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước ngày càng được củng cố. Mặt khác, sự thay đổi cơ chế kinh tế đánh dấu sự đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được thực tiễn cuộc sống và kết quả nêu trên kiểm chứng là đúng đắn, công cuộc đổi mới là hợp lòng dân, là đúng xu thế phát triển kháchquan của thời đại và hoà nhập vào cộng đồng quốc tế. 2004: 21,8- 40,1 – 38,1% Hạn chế: Nền kinh tế vẫn nằm ở nhóm nước kinh tế đang phát triển. Trong cơ cấu kinh tế, nông nghiệp vẫn chiếm 76,2% (2002), nền kinh tế vẫn chủ yếu bao gồm các doanh nghiệp nhỏ và vừa.Các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kém hiệu quả. Đại hội X - Quan điểm của Đại hội X - Đảng cộng sản Việt Nam về công nghiệp hóa + Phát triển nhanh hơn công nghiệp và xây dựng theo hướng nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh và hiện đại hoá Phát huy sức mạnh của tất cả các thành phần kinh tế, đa dạng hoá hình thức sở hữu và quy mô để phát triển công nghiệp và xây dựng với cơ cấu ngành nghề phù hợp với nguồn lực, lợi thế và thị trường ở các vùng, các địa phương. Nâng cao sức cạnh tranh, hàm lượng khoa học công nghệ và tỉ trọng giá trị tăng thêm, giá trị nội địa trong sản phẩm công nghiệp và xây dựng. Phát triển công nghiệp và xây dựng gắn với phát triển dịch vụ, phát triển đô thị và bảo vệ môi trường. Phấn đấu đạt tốc độ tăng giá trị tăng thêm trong công nghiệp và xây dựng 10 - 10,2%/năm. + Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội theo hướng hiện đại Trên cơ sở bổ sung, hoàn chỉnh quy hoạch, Nhà nước ưu tiên dành vốn ngân sách và huy động các nguồn lực khác để đẩy nhanh việc xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng trong từng vùng và trên cả nước, xem đây là một khâu đột phá để phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay và chuẩn bị cho bước tiếp theo. Khuyến khích, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia phát triển lĩnh vực này. Chú trọng các công trình quan trọng, thiết yếu, phát huy nhanh tác dụng. Khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí. Tập trung huy động các nguồn lực để ưu tiên hoàn chỉnh một bước cơ bản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, đường sông, đường sắt, đường biển, đường hàng không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới các công trình thuỷ lợi có nhu cầu cấp bách, gắn với phát triển thuỷ điện, đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, nước sinh hoạt của dân cư và giảm nhẹ thiên tai. Chúng ta chủ trương đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Phải phát triển toàn diện nông nghiệp, chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương. Trong việc phát triển công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, chúng ta khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế. Khuyến khích, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển mạnh các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu tư của các tập đoàn kinh tế và các công ty xuyên quốc gia. Chúng ta chủ trương phát triển kinh tế vùng thông qua các chính sách phù hợp tạo điều kiện cho các vùng trong cả nước cùng phát triển, đồng thời tạo sự liên kết giữa các vùng và nội vùng; phát triển kinh tế biển theo một chiến lược toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, sớm đưa nước ta thành một quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế. Phát triển khoa học và công nghệ ở nước ta phải phù hợp xu thế phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới. Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ Khuyến khích, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển mạnh các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu tư của các tập đoàn kinh tế lớn nước ngoài và các công ty lớn xuyên quốc gia. Thúc đẩy phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực, tác động lan toả đến các vùng khác; đồng thời tạo điều kiện phát triển nhanh hơn cho các vùng kinh tế đang còn nhiều khó khăn, đặc biệt là các vùng biên giới, hải đảo, Tây Nguyên, Tây Nam, Tây Bắc. Phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm đến năm 2010 có nguồn nhân lực với cơ cấu đồng bộ và chất lượng cao; tỉ lệ lao động trong khu vực nông nghiệp còn dưới 50% lực lượng lao động xã hội. Phát triển khoa học và công nghệ phù hợp xu thế phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học và công nghệ. Lựa chọn và đi ngay vào công nghệ hiện đại ở một số lĩnh vực then chốt. Chú trọng phát triển công nghệ cao để tạo đột phá và công nghệ sử dụng nhiều lao động để giải quyết việc làm. Bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên Tăng cường quản lý tài nguyên quốc gia, nhất là các tài nguyên đất, nước, khoáng sản và rừng. - Thành tựu Công nghiệp và xây dựng liên tục tăng trưởng cao, giá trị tăng thêm tăng 10,2%/năm. Công nghiệp có bước chuyển biến tích cực về cơ cấu sản xuất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 16%/năm (kế hoạch 13,1%), cao hơn 1,9%/năm so với 5 năm trước. Cả nước đã có trên 100 khu công nghiệp, khu chế xuất, nhiều khu hoạt động có hiệu quả; tỉ lệ công nghiệp chế tác, cơ khí chế tạo và nội địa hoá sản phẩm tăng. Công nghiệp ở nông thôn và miền núi tăng trưởng cao hơn tốc độ trung bình của cả nước. Một số sản phẩm công nghiệp đã cạnh tranh được trên thị trường trong và ngoài nước. Ngành xây dựng tăng trưởng 10,7%/năm, năng lực xây dựng tăng khá nhanh và có bước tiến đáng kể theo hướng hiện đại; việc xây dựng đô thị, xây dựng nhà ở đạt nhiều kết quả, hàng năm đưa thêm vào sử dụng khoảng 20 triệu m2. Về cơ cấu ngành, tỉ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng từ 36,7% năm 2000 lên 41% năm 2005 (kế hoạch 38 - 39%); tỉ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản đã giảm từ 24,5% xuống còn 20,9% (kế hoạch 20 - 21%); tỉ trọng dịch vụ ở mức 38,1% (kế hoạch 41 - 42%). Trong từng ngành kinh tế đã có những chuyển dịch tích cực về cơ cấu sản xuất, cơ cấu công nghệ theo hướng tiến bộ, hiệu quả, gắn sản xuất với thị trường. Cơ cấu kinh tế vùng đã có bước điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng vùng; các vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, khu kinh tế và vùng sản xuất chuyên môn hoá cây trồng, vật nuôi đang phát triển khá nhanh, đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tỉ trọng lao động của ngành công nghiệp và xây dựng trong tổng số lao động xã hội tăng từ 12,1% năm 2000 lên 17,9% năm 2005; lao động trong các ngành dịch vụ tăng từ 19,7% lên 25,3%; lao động trong các ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 68,2% xuống còn 56,8%. Tỉ trọng lao động đã qua đào tạo tăng từ 20% năm 2000 lên 25% năm 2005. Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Khu vực kinh tế nhà nước đang được tổ chức lại, đổi mới và chiếm 38,4% GDP, chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt và tập trung hơn vào những lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế. Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; trong đó, kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát triển khá đa dạng (đóng góp khoảng 6,8% GDP). Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9% GDP, là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thương quốc tế. Vốn đầu tư toàn xã hội tăng khá nhanh, vượt mức dự kiến trên 30% so với kế hoạch, (gấp 2 lần so với 5 năm trước). Vốn đầu tư của dân tăng nhanh; tỉ lệ vốn đầu tư phát triển so với GDP tăng từ 35,4% năm 2001 lên gần 39% năm 2005. Vốn đầu tư trong nước chiếm 72% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Đầu tư đã tập trung hơn cho những mục tiêu quan trọng. Lĩnh vực kinh tế chiếm 70% tổng vốn đầu tư toàn xã hội (nông, lâm nghiệp và thủy sản trên 13%, công nghiệp và xây dựng trên 44%, giao thông, bưu điện trên 12%); lĩnh vực xã hội chiếm gần 27% (nhà ở, cấp thoát nước, công trình công cộng khác gần 14%, giáo dục, đào tạo gần 4%, y tế - xã hội trên 2%, văn hoá, thể thao gần 2%, khoa học và công nghệ trên 1%). Quy mô vốn đầu tư ở các vùng đều tăng; vùng nghèo, xã nghèo được Nhà nước quan tâm đầu tư nhiều hơn. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đã tập trung cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển nguồn nhân lực, xoá đói, giảm nghèo, hỗ trợ các vùng khó khăn (đầu tư cho nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 22,2%; giao thông vận tải, bưu điện 27%; giáo dục, đào tạo 8,9%; y tế - xã hội 6,9%; văn hóa, thể thao 4,3%; khoa học và công nghệ 3,1%). Vốn đầu tư của doanh nghiệp tăng nhanh, không chỉ phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ mà còn tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng đô thị. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục được duy trì và tăng thêm, tạo nhiều công trình kết cấu hạ tầng và sản phẩm xuất khẩu. Đầu tư đã làm tăng đáng kể năng lực sản xuất, kinh doanh, tạo nhiều sản phẩm có sức cạnh tranh, hoàn thành và đưa vào sử dụng nhiều công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, trong đó có nhiều công trình lớn, tăng cường tiềm lực và cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế. - Hạn chế Tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp hơn so với khả năng và thấp hơn nhiều nước trong khu vực ở thời kỳ đầu công nghiệp hoá. Qui mô nền kinh tế còn nhỏ, thu nhập bình quân đầu người thấp. Chưa thực hiện thật tốt việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Môi trường ở nhiều nơi bị ô nhiễm nặng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống. Nguồn lực của đất nước chưa được sử dụng có hiệu quả cao, tài nguyên, đất đai và các nguồn vốn của Nhà nước còn bị lãng phí, thất thoát nghiêm trọng. Các nguồn lực trong dân còn nhiều tiềm năng chưa được phát huy. Về chuyển dịch cơ cấu ngành: Mặc dù có tốc độ tăng cao trong những năm gần đây, nhưng tỉ trọng dịch vụ trong GDP còn thấp, các loại dịch vụ cao cấp, có giá trị tăng thêm lớn chưa phát triển mạnh. Trong nông nghiệp, sản xuất chưa gắn kết chặt chẽ và có hiệu quả cao với thị trường; việc đưa khoa học, công nghệ vào sản xuất còn chậm; công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn vẫn còn lúng túng. Trong công nghiệp, ít sản phẩm có hàm lượng công nghệ và tri thức cao; công nghiệp công nghệ cao phát triển chậm; một số sản phẩm công nghiệp có sản lượng lớn còn mang tính gia công, lắp ráp, giá trị nội địa tăng chậm; công nghiệp bổ trợ kém phát triển; tốc độ đổi mới công nghệ còn chậm. Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được các thế mạnh để đi nhanh hơn vào cơ cấu kinh tế hiện đại. Chính sách hỗ trợ các vùng kém phát triển chưa đáp ứng được yêu cầu. Sự liên kết vùng chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả thấp. Các thành phần kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Chưa tạo được đầy đủ môi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; chưa khai thác tốt các nguồn lực trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài để đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Việc sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước còn chậm, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước còn thấp. Kinh tế tư nhân chưa được tạo đủ điều kiện thuận lợi để phát triển, quy mô còn nhỏ, sức cạnh tranh còn yếu và chưa được quản lý tốt. Kinh tế tập thể kém hấp dẫn và phát triển chậm, còn nhiều lúng túng. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, việc thu hút đầu tư nước ngoài còn kém so với một số nước trong khu vực. Tỉ trọng lao động trong nông nghiệp còn cao. Lao động thiếu việc làm và không có việc làm còn nhiều. Tỉ lệ lao động qua đào tạo rất thấp. Cơ cấu đầu tư chưa thật hợp lý, chưa hướng mạnh vào đầu tư chiều sâu, vào các ngành có giá trị tăng thêm cao và tạo nhiều việc làm. Đầu tư từ ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước còn dàn trải, thất thoát, hiệu quả thấp. Một số công trình lớn, quan trọng cấp quốc gia không hoàn thành theo kế hoạch. Năng lực sản xuất của một số ngành và sản phẩm quan trọng, thiết yếu tăng chậm. Công tác qui hoạch chất lượng thấp, quản lý còn kém và chưa phù hợp với cơ chế thị trường. Tuy đã có cố gắng đầu tư, song kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu, hạn chế sự phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống đường bộ chưa hoàn chỉnh, chất lượng thấp, nhiều nơi còn bị tắc nghẽn; chưa bảo đảm giao thông thông suốt trong mùa mưa ở các khu vực thường bị ngập lụt và miền núi. Hệ thống cảng biển, đường sắt, hàng không còn bất cập về năng lực vận chuyển, khả năng kho bãi, về thông tin, quản lý; chi phí dịch vụ vận tải còn cao. Hệ thống thuỷ lợi chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp và nông thôn; các hồ chứa nước ở khu vực miền Trung, Tây Nguyên và miền núi chưa được đầu tư hoàn chỉnh; chất lượng một số công trình thấp, hiệu quả sử dụng kém. Các công trình thuỷ lợi tập trung nhiều cho sản xuất lúa, chưa phục vụ tốt cho phát triển cây công nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. Hệ thống thuỷ lợi ở đồng bằng Sông Cửu Long đầu tư thiếu đồng bộ, còn nhiều yếu kém, bất cập. Quản lý nguồn nước còn bị buông lỏng. Hệ thống điện vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cả về nguồn điện, lưới điện và chất lượng; tỉ lệ tổn thất còn cao. Một số công trình điện không hoàn thành đúng kế hoạch, gây thiếu điện trong thời gian cao điểm và khi có hạn hán nghiêm trọng. Hạ tầng bưu chính, viễn thông vẫn thiếu đồng bộ; chất lượng dịch vụ còn thấp; giá dịch vụ còn cao; hoạt động bưu chính - viễn thông ở vùng sâu, vùng xa chưa đáp ứng yêu cầu. Kết cấu hạ tầng đô thị phát triển chậm, chất lượng quy hoạch đô thị thấp. Hệ thống cấp nước kém phát triển. Thiết bị xử lý nước lạc hậu, chất lượng nước kém; quản lý đô thị kém. Hệ thống phân phối nước và nguồn nước nhiều nơi chưa được đầu tư đồng bộ. Hệ thống xử lý chất thải sinh hoạt và chất thải công nghiệp vừa thiếu, vừa kém chất lượng; chưa ngăn chặn được tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng. Hạ tầng cho giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục, thể thao còn thiếu, chưa đồng bộ và chất lượng thấp. Trình độ công nghệ trong nhiều ngành còn lạc hậu; việc chuyển giao công nghệ còn rất chậm. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của các tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ còn thiếu, lạc hậu, chưa đồng bộ và sử dụng kém hiệu quả. III. Đánh giá quá trình thực hiện CNH-HĐH từ 1986 đến nay 3.1 Thành tích và thắng lợi a.Tăng sản phẩm thu nhập quốc dân Khác hẳn với tình hình kinh tế xã hội của thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, dưới ánh sáng đổi mới toàn diện nền kinh tế của Đảng, công cuộc CNH,HĐH đất nước trong thời gian hơn 10 năm qua nước ta đã thu được một số thành tựu có ý nghĩa bước ngoặt Trong lĩnh vực kinh tế, mức tăng trưởng GDP bình quân hơn 8% /năm. Trong tất cả các khu vực sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ đều tăng trưởng cao, lương thực không chỉ đủ ăn mà còn đủ gạo xuất khẩu, đứng thứ 2 thế giới. Ngoại thương tăng trưởng mạnh, lạm phát được kiềm chế .... b.Đời sống kinh tế xã hội được cải thiện, uy tín quốc tế tăng lên -Sự kết hợp giữa nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài trong quá trình CNH-HĐH trong điều kiện quốc tế và khu vực có nhiều biến đổi. Cùng với quá trình chuyển sang kinh tế thị trường, CNH-HĐH còn gắn liền với việc mở cửa, hội nhập quốc tế và khu vực. Sự hiện diện của các nguồn vốn nước ngoài, bao gồm các nguồn vốn đầu tư ( vốn ODA, FDI ), công nghệ kĩ thuật, kĩ năng quản lý và kinh doanh, thị trường tiêu thụ hàng hoá sản phẩm hàng hoá, dịch vụ... đã chẳng những góp phần quan trọng vào mức tăng trưởng GDP mà còn tạo ra sự năng động trong đời sống xã hội vốn trước đây rất trì trệ. -Trên cơ sở tăng trưởng kinh tế, đời sống xã hội còn nhiều chuyển biến tích cực, mức sống của nhân dân tăng lên rõ rệt. Tình hình an ninh chính trị ổn định, quan hệ đối ngoại được mở rộng, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế từng bước được nâng lên. Niềm tin của nhân dân vào sự lãng đạo của Đảng và quản lý của nhà nước ngày càng được củng cố. Mặt khác, sự thay đổi cơ chế kinh tế đánh dấu sự đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được thực tiễn cuộc sống và kết quả nêu trên kiểm chứng là đúng đắn, công cuộc đổi mới là hợp lòng dân, là đúng xu thế phát triển khách quan của thời đại và hoà nhập vào cộng đồng quốc tế. -Sự phát triển cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tích cực: Tổng sản phẩm, tức giá trị tuyệt đối của sản phẩm nông nghiệp không ngừng được tăng lên, nhưng tỷ trọng GDP giảm dần. Nông thôn của nước ta sẽ dần chuyển biến thành nông thôn của một nước công nghiệp. Đời sống của nhân dân được cải thiện và nâng cao, rút ngắn khoảng cách tói đa với đô thị. 3.2 Những hạn chế chủ yếu Bên cạnh những thành tựu và thắng lợi đạt được, sự nghiệp CNH-HĐH ở nước ta còn có những hạn chế. Điều này được thể hiện ở các mặt chủ yếu: - CNH chưa tạo điều kiện cho phát triển kinh tế-xã hội nhanh, bền vững và có hiệu quả. Sau khi vượt qua cơn suy thoái (1988-1990), từ năm 1991, 1992.1993 nền kinh tế đi vào trạng thái phát triển với những thành tựu đáng ghi nhận. Nhưng những thành tựu đó được tạo nên nhờ có tác động của cơ chế và chính sách mạnh hơn, lớn hơn, nhanh hơn, nhạy hơn so với tác động của công nghiệp hoá. Phát triển như vậy là thành tích lớn, nhưng chưa bền vững. Công nghiệp hoá tác động rất yếu đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ và có hiệu quả. Bên cạnh những thành tựu và thắng lợi đạt được, sự nghiệp CNH-HĐH ở nước ta còn có những hạn chế. Điều này được thể hiện ở các mặt chủ yếu: - CNH chưa tạo điều kiện cho phát triển kinh tế-xã hội nhanh, bền vững và có hiệu quả. Đạt được những thành tựu về phát triển kinh tế-xã hội trước năm 1986 phần quan trọng là nhờ vào sự giúp đỡ, viện trợ từ Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu. Sự phát triển kinh tế trong những năm này nặng về qui mô, hình thức, thiên về công nghiệp nặng, xem nhẹ nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, kết cấu hạ tầng, đi vào hướng nội, phát triểntheo chiều rộng là chính và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Điều đó tất yếu dẫn đến kết quả là mặc dù nền kinh tế có tăng trưởng nhưng với tỷ lệ thấp và bấp bênh, có tăng trưởng nhưng hiệu quả thấp. Tốc độ tăng bình quân hàng năm của thu nhập quốc dân thời kỳ (1976-1980): 0,4% và thời kỳ 1981-1985 : 6,4%, trong khi đó tốc độ tăng bình quân của vốn đầu tư của Nhà nước ở 2 thời kỳ đó là:5,6% và 9,2%. Sau khi vượt qua cơn suy thoái (1988-1990), từ năm 1991, 1992.1993 nền kinh tế đi vào trạng thái phát triển với những thành tựu đáng ghi nhận. Nhưng những thành tựu đó được tạo nên nhờ có tác động của cơ chế và chính sách mạnh hơn, lớn hơn, nhanh hơn, nhạy hơn so với tác động của công nghiệp hoá. Phát triển như vậy là thành tích lớn, nhưng chưa bền vững. - Công nghiệp hoá tác động rất yếu đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ và có hiệu quả. Trải qua hơn 30 năm tiến hành CNH, cơ cấu nền kinh tế nước ta chuyển dịch rất chậm và đến nay về cơ bản vẫn là cơ cấu lạc hậu, không năng động, hiệu quả kém, chứa đựng nhiều bất hợp lý và mất cân đối chưa tạo điều kiện cho phát triển nhanh, bền vững và có hiệu quả. Trong cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp vẫn là ngành tạo ra phần lớn thu nhập quốc dân và chiếm đại bộ phận lao động xã hội. Nông nghiệp chưa thoát khỏi tình trạng độc canh, sản xuất nhỏ tự cung, tự cấp, tỷ suất hàng hoá thấp và ít hiệu quả, kỹ thuật canh tác lạc hậu, năng suất thấp. Công nghiệp và dịch vụ còn nhỏ bé, rời rạc, lạc hậu. Công nghiệp chế biến còn nhỏ bé, ở trình độ thấp, hiệu quả kém. Xuất khẩu sản phẩm thô (dầu thô, than, thiếc, gỗ tròn, gạo, thuỷ sản...) chiếm tỷ trọng áp đảo trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Trong khoảng thời gian trên, các nước đang phát triển ở Đông á và khu vực có sự chuyển dịch nhanh hơn. Công nghiệp tác động tới nông nghiệp vừa chưa đủ lực (chỉ đáp ứng 10% nhu cầu phân bón...) và cũng chưa đúng hướng (chưa chú ý đến chế biến, bảo quản nông, lâm, hải sản). Kết cấu hạ tầng thấp kém và xuống cấp. Với cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu như vậy thì nền kinh tế không thể tăng trưởng nhanh, đất nước không thể nhanh chóng vượt ra khỏi tình trạng một nước: nghèo, chậm phát triển. - Công nghiệp hoá chưa đẩy nhanh và có hiệu quả quá trình nâng cao trình độ kỹ thuật và đổi mới công nghệ trong sản xuất-kinh doanh, đời sống. Trong nhận thức và chủ trương, Đảng và Nhà nước đã coi "Cách mạng kỹ thuật là thực chất của công nghiệp hoá", "Cách mạng khoa học-kỹ thuật là then chốt", "Khoa học và công nghệ là động lực của đổi mới". Nhưng do thiếu cơ chế và chính sách tích ứng về kinh tế và khuyến khích nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ nên trong nhiều năm, việc đổi mới công nghệ và nâng cao trình độ, kỹ thuật diễn ra rất chậm và hiệu quả kém. Chuyển sang cơ chế thị trường, tốc độ đổi mới có nhanh hơn, cách thức đổi mới tiến bộ hơn, hợp lý hơn và đem lại hiệu quả hơn. Việc đổi mới công nghệ chủ yếu do doanh nghiệp tự lo liệu và đảm nhận-tự chọn mục tiêu, mức độ, cách thức đổi mới, tự cân đối tài chính cho đổi mới. Do vậy, đổi mới sôi động hơn, thiết thực hơn, có địa chỉ cụ thể và có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, sự đổi mới còn lẻ tẻ, cục bộ, từng phần chưa tạo ra sự thay đổi căn bản về chất, sự thay đổi đồng bộ và mang tính phổ biến. Trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực sản xuất dịch vụ còn rất lạc hậu. Tình trạng kỹ thuật, công nghệ như vậy tất yếu dẫn đến: Chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao, ít có khả năng đổi mới sản phẩm. Nói cách khác, khả năng cạnh tranh của sản phẩm kém và kéo theo đó là gặp khó khăn về thị trường, vốn và tăng trưởng. 3.3 Phương hướng và biện pháp thúc đẩy CNH-HĐH tiến lên CNXH 3.3.1 Phương hướng - Phát triển các ngành kinh tế quốc dân dựa trên cơ sở kinh tế và công nghệ ngày càng hiện đại + Công nghiệp hoá là phạm trù lịch sử. Nhiệm vụ công nghiệp hoá chỉ được hoàn thành khi nào đất nước ta đủ sức vượt ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển để trở thành một nước giàu, hiện đại, phát triển. Hiện nay đất nước ta đang ở thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá. Mục tiêu công nghiệp hoá ở thời kỳ này là đưa nền kinh tế "ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI" + Nâng cao trình độ trang bị kỹ thuật và đổi mới công nghệ trong tất cả các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ nhằm tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ với chất lượng tốt hơn, chi phí thấp hơn, lợi nhuận cao hơn, tạo ra nhiều việc làm hơn. - Phát triển đồng thời cả 3 lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ trong một hệ thống mở với cơ cấu năng động, có hiệu quả và chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH + Nông nghiệp là khâu đột phá cần được phát triển theo hướng đa dạng hoá, có năng suất chất lượng hiệu quả ngày càng cao, có độ bền vững về kinh tế và sinh thái nhằm thực hiện mục tiêu dùng trong nước, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, sảnphẩm cho xuất khẩu và tạo ra thị trường rộng lớn cho tiêu thụ sản phẩm của công nghiệp và dịch vụ . + Để phát huy vai trò công nghiệp đối với nông nghiệp và các ngành KTQD trong chặng đường đầu của quá trình CNH, hướng phát triển của công nghiệp là : Phát triển công nghiệp chế biến gắn bó với nông-lâm-ngư nghiệp để đáp ứng nhu cầu trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu, phát huy lợi thế sinh thái , bải vệ môi trường và tài nguyên. Phát triển công nghiệp chế biến theo hướng chiến lược là: Đi từ sơ chế là chủ yếu, tiến tới tinh chế là chủ yều và thực hiện chế biến sử dụng tổng hợp nguyên liệu. Giảm dần và tiến tới chấm dứt xuất khẩu sản phẩm dưới dạng nguyên liệu thô. Phát triển mạnh công nghiệp hàng tiêu dùng để thoả mãn nhu cầu các loại hàng thông thường, tăng mức đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao cử nhân dân và đẩy mạnh xuất khẩu tạo nhiều việc làm, tạo nguồn tích luỹ ban đầu cho CNH + Ưu tiên phát triển đi trước các ngành xây dựng kết cấu họ tầng kỹ thuật ( đường, cầu cống, điện, nước) phục vụ cho sản xuất và đời sống. Vì trong công nghiệp xây dựng CNXH của nước ta để kiện toàn các bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội suy đến cùng cũng phụ thuộc vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng của xã hội . + Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng CNH không chỉ đơn giản là thay đổi tốc độ và tỷ trọng của công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ trong cơ cấu chung của nền KTQD, trong đó cần tăng tỷ trọng và tốc độ phát triển công nghiệp, dịch vụ mà là phải tạo ra sự thay đổi về chất lượng cơ cấu và trình độ phát triển của mỗi ngành. Nông nghiệp phải chuyển từ độc canh lúa là chủ yếu sang đa sạng hoá theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng,hiệu quả ngày cang cao, Công nghiệp chuyển từ khai thác và sơ chế là chủ yếu với hiệu quả thấp sang một nền công nghiệp đa ngành và có hiệu quả kinh tế- xã hội cao, trong đó công nghiệp chế biến là chủ yếu với hiệu quả thấp sang một nèn công nghiệp đa ngành và có hiệu quả kinh tế - xã hội cao, trong đó công nghiệp chế biến cần được phát triển nhanh hưn các ngành khác. Dịch vụ:Phát triển có hệ thông, theo hướng văn minh, hiện đại. 3.3.2 Biện pháp : - Biện pháp chủ yếu nhằm phát triển công nghệ theo hướng CNH-HĐH * Ổn định và mở rộng quy mô thị trường công nghệ +Trong điều kiện " năng lực nghiên cứu triển khai, đánh giá, lựa chọn công nghệ còn nhiều hạn chế "(nghị quyết trung ương 7) và phù hợp với quy luật chung của nhiều nước đang phát triển, trong môi trường thuận lợi nhất cho việc nhập khẩu công nghệ. Trong bối cảnh hiện nay ở nước ta, cần chú ý về đầu tư nước ngoài, về chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam. +Như vậy khuyến khích nhập và bảo hộ nâng đỡ công nghệ sản xuất trong nước là 2 mặt không thể tách rời của cùng một vấn đề. Đây cũng phải là một quan điểm cơ bản trong thiết kế đồng bộ chính sách và biện pháp kích thích cung về công nghệ. * Đổi mới chính sách và cơ chế khuyến khích đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ hoạt động phục vụ trực tiếp cho sản xuất ở tất cả mọi khât, mọi lĩnh vực, và địa bàn. Theo số liệu thống kê năm 1992thì 94,4% số cán bọ khoa học công nghệ ở nước ta làm viẹc tại các cơ quan trung ương, 5,4%ở cơ quan tỉnh và 0,4%làm việc tại huyện. Trong đó 89,3%cán bộ khoa học công nghệ làm việc ở các cơ quan trung ướng ở thành phố, đô thị. Nguyên nhân chính là cơ chế hiện tại hầu như không khuyến khích cán bộ khoa học công nghệ làm vẹc ở những khâu, địa bàn trực tiếp cắn với sản xuất. Theo túnh toán thì để thực hiện các mục tiêu CNH-HĐH phải xúc tiến tổ chức lại lực lượng khoa học công nghệcủa đất nướn đến năm 2000 có tới 50% càn bộ khoa học công nghệ trực tiếp tại khu vực doanh nghiệp. * Nhà nước tập trung xây dựng một số khu công nghệ cao và các trung tâm ứng dụng công nghệ mới. Đó chính là hạt nhân cơ sở nghiên cứu thử nghiệm thích nghi và ứng dụng công nghệ phù hợp với kiều kiện cụ thể của đất nước, của địa phương và là một nguồn phát triển cung cấp công nghệ cao cho các hướng phát triển sản xuất ưu tiên của nền kinh tế. - Giải pháp huy động vốn phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH và sử dụng vốn có hiệu quả : a. Giải pháp huy động vốn Huy động vốn trong nước: Vốn trong nước có thể huy động qua nhiều kênh như: ngân sách nhà nước, doanh nghiệp, ngân hàng, dân cư...Trong đó nguồn vốn trong dân cư và doanh nghiệp và quan trọng nhất bởi vì khu vực này là nơi tạo ra và tích luỹ vồn là nguồn nguyên thuỷ để tạo ra vốn cho ngân sách và cho hệ thống tính dụng . Để huy động vốn trong nước phục vụ cho nhu cầu CNH-HĐH thì ngoài việc tạo ra các diều kiện cơ bản như hoàn thiện cơ sở pháp lý, bảo vện quyền lợi của người đầu tư, khống ché lạm phát và giữ mức thâm hụt ngân sách thấp, khuyến khích đầu tư trong nước. Để thực hiện được điêù đó cần cần thực hiện tốt các giải pháp sau: +Coi tiết kiệm là quốc sách, chính sách tiết kiệm phải đượcquán triệt trong cả lĩnh vực sản xuất vật chất và tiêu dùng trong cả khu vực nhà nước các doanh nghệp và các tầng lớp dân cư. Chính phủ cần áp dụng một loạu các biện pháp về ngân sách thuế khoá, kiểm soát nhập khẩu, dành nguông vốn lớn cho CNH-HĐH cụ thể tăng thuế đánh vào hàng xa xỉ không cần thiết, không phù hợp với hoàn cảnh kinh tế nhiện nay. +Thực hiẹn tắt chặt trong chi tiêu tiền của ngân sách nhà nước, thực hiện nguyên tắc tốc độ tăng chi tiêu dùng thường xuyên của ngân sách nhà nước phải nhỏ hơn tốc độ tăng GDP và nhỏ hơn tốc độ tăng chi cho đầu tư. Huy động vốn ngoài nước: Tranh thủ vốn nước ngoài có vị trí rất quan trọng đối với qua trình CNH-HĐH của nước ta. Để đảm bảo thắng lợi trong cạnh tranh vốn và công nghệ, vấn đề cơ bản đặt ra là phải tăng sức hấp dẫn của môi trương đầu tư ở Việt Nam so với các nước trong khu vực, các giải pháp tập trung là: +Hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan đến đầu tư nước ngoài làm cho luật lện của ta có nội dung thông nhất, dễ hiểu, dễ áp dụng và gàn gũi với thông lệ quốc tế. +Cải thiện tình hình phổ biến thông tin cho các nhà đầu tư, cải cách hệ thống thuế cho phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời với việc mở rộng ký hiệp định tránh đánh thuế trùng với các nước. +Cải thiện họ tầng cơ sở:giao thông, bưu chính viển thông, điện lực...để đáp ứng cho các nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh. Xóa bỏ các thủ tục hành chính đang gây phiền hà cho việc đăng ký đầu tư, thực hiện cơ chế "một cửa"tiếp nhận và xét duyệt các dự án đầu tư. +Các dự án vay nợ phả được thẩm định và có sự đánh giá chặt chẽ về mọi mặt nhất là khả năng sinh lời, để đảm bảo trả gốc và lãi đúng thời hạn. Lựa chọn đưng loại tài trợ thích hợp, tranh thủ nhiều loại tài trợ khác nhau. Có định hướng đúng và cụ thể cho từng khoản tài trợ, phải có người chịu trách nhiệm đến cùng đối với từng khoản tài trợ. b. Sử dụng vốn có hiệu quả: Bên cạnh việc tạo vốn đòi hỏi phải sử dụng vốn có hiệu quả. Muốn làm được điều này, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp sau: - Những năm trước mắt, nước ta cần hướng ưu tiên đầu tư cho việc cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế, trước hết là điện năng, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông. Việc đầu tư này có ý nghĩa sống còn bởi vì cơ sở hạ tầng nghèo nàn, yếu kém sẽ gây trở ngại lớn cho sự ngiệp CNH-HĐH nền kinh tế. - Cần sớm xác định và lựa chọn các ngành công nghiệp mũi nhọn có ưu nghĩa quan trọng và tập trung đầu tư vốn cho các ngành công nghiệp này nhằm khai thác mọi tiềm năng về nguyên vật liệu, tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động...để tạo ra những sản phẩm có hiệu quả kinh tế cao, có lợi thế so sánh trên thị trường quốc tế. - Chú trọng đầu tư cho CNH-HĐH nông nghiệp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Hiện nay, 80% dân số nước ta sống trên các địa bàn nông thôn, nơi mà các tài nguyên trí tuệ, nhân lực, vật lực, vốn và môi trường sống đang hứa hẹn có sức cộng sinh hết sức to lớn. - Đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao vai trò của Nhà nước đối với sự nghiệp CNH-HĐH nhanh và có hiệu quả Phát huy vai trò của quản lý nhà nước trong: Định hướng, điều tiết, tạo môi trường, điều kiện cho sản xuất-kinh doanh, kiểm tra, kiểm soát thông qua sử dụng có hiệu quả và hiệu lực các công cụ và phương pháp quản lý nhà nước. Trên cơ sở kiên trì thực hiện các mục tiêu của CNH, cần xây dựng, thực hiện, hoàn thiện các chính sách theo hướng đảm bảo đồng bộ, có hiệu lực, vừa cụ thể, vừa mềm dẻo. Chú ý các chính sách như: chính sách cơ cấu, chính sách mở cửa và bảo hộ sản xuất trong nước ở mức cần thiết, đảm bảo nguyên liệu cho sản xuất, bảo vệ môi trường và tài nguyên, lao động, việc làm , tiền công và bảo hiểm; thuế, tiền tệ, tín dụng; chuyển giao công nghệ, khuyến khích nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất; duy trì, phát triển các tinh hoa, bản sắc tốt đẹp của dân tộc và đất nước trên các lĩnh vực: Văn hoá, nghệ thuật, lối sống, kinh tế. Đổi mới một cách căn bản hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế. Xoá bỏ sự phân chia nền kinh tế thành kinh tế trung ương và kinh tế địa phương. Tách quyền quản lý với quyền sử dụng và quyền kinh doanh trong các doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước trung ương xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển các ngành. Địa phương cùng với nhà nước quản lý và đảm bảo vấn đề xã hội, môi trường và kết cấu hạ tầng cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam từ năm 1986 đến 2010.doc