Sớm hoàn thiện Quỹ Hỗ trợ tín dụng Xuất khẩu theo đúng các tiêu chí của
Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (1998) để trợ giúp các doanh nghiệp có tiềm
năng thông qua việc cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh tiền vay và cấp tín
dụng qua việc cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh tiền vay và cấp tín dụng xuất
khẩu cho người mua nước ngoài, tiến tới thành lập Ngân hàng Xuất Nhập khẩu.
Nghiên cứu thành lập Quỹ hoặc Công ty Bảo hiểm Xuất khẩu để bảo hiểm rủi ro
thanh toán khi tiếp cận các thị trường mới. Khuyến khích các hiệp hội ngành hàng tự
hình thành các quỹ bảo hiểm đề phòng rủi ro, kể cả trong trường hợp giá thị trường
thế giới biến động. Nhà nước có chính sách thưởng cho các doanh nghiệp, cá nhân
làm tốt công tác xuất khẩu.
45 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2300 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Định hướng phát triển xuất - Nhập khẩu thời kỳ 2001-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
D vào
năm 2005 và 1 tỷ USD vào năm 2010. Chúng ta nên có chính sách thu hút đầu tư nư-
ớc ngoài, hướng về xuất khẩu. Thị trường định hướng đối với xe đạp là EU và Hoa
Kỳ, với các sản phẩm khác là các nước ASEAN, Trung Đông và Châu Phi.
* Sản phẩm nhựa: Kết quả xuất khẩu sản phẩm nhựa trong những năm gần đây
là đáng khích lệ, nước ta đã bắt đầu xuất khẩu sang Campuchia, Lào, Trung Quốc và
các nước Nam á như ấn Độ, Sri Lanka. Mặt hàng chủ yếu là bạt nhựa và đồ nhựa gia
dụng. Trong những năm tới, chúng ta cần có đầu tư thỏa đáng vào khâu chất lượng và
mẫu mã để mở rộng thị phần trên các thị trường hiện có, tăng cường thâm nhập các
thị trường mới như Nhật Bản, EU và Hoa Kỳ. Về sản phẩm, bên cạnh đồ nhựa gia
dụng cần chú ý phát triển nhựa công nghiệp và đồ chơi bằng nhựa. Nếu làm được
những việc này, kim ngạch có thể đạt 200 triệu USD vào năm 2005 và 600 triệu USD
vào năm 2010.
Như vậy, bên cạnh dệt may và giày dép, trong 10 năm tới đây, Việt Nam cần
chú ý phát triển những ngành kết hợp giữa lao động giản đơn với công nghệ trung
bình mà cụ thể là thủ công mỹ nghệ, thực phẩm chế biến, sản phẩm gỗ, hóa phẩm
tiêu dùng, sản phẩm nhựa và sản phẩm cơ khí - điện, phấn đấu đưa kim ngạch của
nhóm hàng mới này lên 4, 5-5 tỷ USD hoặc hơn vào năm 2010. Có thể nói đây là
khâu đột phá của xuất khẩu Việt Nam trong những năm trước mắt (2001-2005).
2.1.4. Nhóm hàng vật liệu xây dựng
Nước ta có nguồn nguyên liệu dồi dào để sản xuất vật liệu xây dựng không
những có thể cung cấp đủ cho nhu cầu trong nước mà còn có khả năng xuất khẩu lớn.
Theo chiến lược phát triển sản xuất xi măng thì các dự án phát triển xi măng
trong vài năm tới có khả năng dư thừa hàng năm khoảng từ 2-3 triệu tấn để xuất
khẩu. Tuy nhiên, do các nhà máy xi măng mới đầu tư, khấu hao lớn nên giá thành sản
xuất còn cao, khả năng cạnh tranh yếu hơn so với xi măng các nước trong khu vực,
do đó khâu then chốt với xi măng là hạ giá thành.
Ngành công nghiệp sản xuất gạch ốp lát và sứ vệ sinh trong nước tuy mới ra đời
nhưng đã sớm hòa nhập vào môi trường cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của các
nước trong khu vực. Về mặt công nghệ, các nhà máy của Việt Nam nhập công nghệ
tiên tiến nên chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn ISO, hoàn toàn có khả năng cạnh
tranh với hàng ngoại. Mặt khác, đây là ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng,
sử dụng tới 80 -87% nguyên liệu (đất sét, thạch cao, bột màu, gas... ) trong nước. Sứ
vệ sinh của Việt Nam đã bắt đầu có mặt trên các thị trường Nhật Bản, Nga,
Myanmar, Bangladesh, Pháp, Ucraina. Đây là những mặt hàng có tiềm năng xuất
khẩu lớn trong tương lai.
Do có nguồn nguyên liệu cát tốt để sản xuất kính, từ nay đến năm 2010, ngành
công nghiệp kính sẽ trở thành ngành công nghiệp vật liệu xây dựng mũi nhọn. Dự
tính năm 2010 năng lực sản xuất đạt 60 triệu m2, đáp ứng đủ cho nhu cầu trong nước
và xuất khẩu. Trong tương lai, chúng ta cần mở rộng thêm thị trường.
2.1.5. Sản phẩm hàm lượng công nghệ và chất xám cao
Đây là ngành hàng mới xuất hiện nhưng đã mang lại kim ngạch xuất khẩu khá
lớn, khoảng 700 triệu USD vào năm 2000. Hạt nhân là hàng điện tử và tin học. Với
xu thế phân công lao động theo chiều sâu trên thế giới hiện nay, Việt Nam hoàn toàn
có khả năng phát triển hơn nữa những mặt hàng này, trước mắt là gia công rồi tiến tới
nội hóa dần. Vấn đề cốt lõi là có cơ chế chính sách khuyến khích, phát triển nguồn
nhân lực. Mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đặt ra cho ngành là 2, 5 tỷ USD vào năm
2005 (riêng phần mềm dự kiến là 350 - 500 triệu USD) và 6-7 tỷ USD vào năm 2010
(riêng phần mềm là 1 tỷ USD). Về thị trường, trong 5 năm cuối của những năm
2001-2010, chúng ta sẽ nhằm vào các nước công nghiệp phát triển (phần mềm) và cả
các nước đang phát triển (phần cứng).
2.2. Cơ cấu dịch vụ xuất khẩu:
Lâu nay chúng ta ít chú trọng tới xuất khẩu dịch vụ. Ước tính thương mại dịch
vụ hai chiều của Việt Nam năm 2000 đạt 3, 2 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 2, 0 tỷ
USD và nhập khẩu đạt 1, 2 tỷ USD.
Các ngành dịch vụ thu ngoại tệ bao gồm nhiều lĩnh vực (theo WTO thì có tới
155 loại hình), nhưng chúng ta sẽ chỉ đề cập tới các loại hình dịch vụ như du lịch,
xuất khẩu lao động, vận tải hàng không, bưu chính viễn thông và dịch vụ ngân hàng.
2.2.1. Xuất khẩu lao động
Trong nhiều năm qua, xuất khẩu lao động là ngành thu ngoại tệ quan trọng.
Bình quân giai đoạn 1996-2000, mỗi năm nước ta đưa ra nước ngoài khoảng 2 vạn
lao động với thời hạn hợp đồng từ 3-5 năm, riêng năm 2000 dự kiến là 3 vạn lao
động. Hiện nay, số người Việt Nam đang lao động tại nước ngoài vào khoảng 9 vạn
người. Với thu nhập bình quân đầu người khoảng 5. 000USD/năm, ước tính kim
ngạch xuất khẩu lao động năm 2000 sẽ đạt 450 triệu USD.
Theo Bộ Lao động Thương binh và Xã hội thì mục tiêu phấn đấu năm 2005 là
xuất khẩu 150-200 ngàn lao động và đến năm 2010 là 1 triệu lao động. Nếu thực hiện
được mục tiêu này, kim ngạch dự kiến sẽ đạt khoảng 1, 5 tỷ USD vào năm 2005 và 4,
5-6 tỷ USD vào năm 2010.
2.2.2. Du lịch:
Du lịch là một ngành dịch vụ có ý nghĩa kinh tế xã hội quan trọng. Trong những
năm qua, ngành du lịch đã đạt được nhiều bước tiến đáng ghi nhận. Tuy nhiên, tiềm
năng của ngành còn rất lớn nếu biết khai thác và phát huy tốt những thế mạnh sẵn có.
Theo Tổng cục Du lịch, dự kiến năm 2000 sẽ có khoảng 2 triệu khách du lịch quốc tế
tới Việt Nam với doanh thu ngoại tệ khoảng 500 triệu USD.
Theo chiến lược phát triển của ngành thì tới năm 2005 sẽ phấn đấu thu hút được
3 triệu khách quốc tế với doanh thu xấp xỉ 1 tỷ USD, năm 2010 thu hút 4, 5 triệu
khách đạt 1, 6 tỷ USD.
2.2.3. Vận tải biển và dịch vụ cảng, giao nhận:
Kim ngạch xuất khẩu trong lĩnh vực vận tải biển năm 2000 mới chỉ đạt xấp xỉ
20 triệu USD. Hiện nay đa số các doanh nghiệp của ta lựa chọn điều kiện giao hàng
là CIF hoặc C&F đối với hàng nhập khẩu và FOB đối với hàng xuất khẩu, do vậy
hàng năm ta phải chi một lượng ngoại tệ khá lớn để nhập khẩu dịch vụ vận tải của n-
ước ngoài, đồng thời lại để tuột mất cơ hội thu ngoại tệ khi xuất khẩu. Nguyên nhân
khách quan một phần là do tập quán của doanh nghiệp khi ký kết hợp đồng, nhưng
nguyên nhân chính vẫn là nước ta chưa có một đội tàu đủ mạnh, hoạt động rộng trên
nhiều tuyến và cước phí chưa cạnh tranh. Vì vậy trong thời gian tới, chúng ta cần
tăng cường đầu tư phát triển hệ thống cảng biển, đi đôi với việc gia tăng đội tàu, tận
dụng thế mạnh về vị trí địa lý, hạ giá thành vận chuyển để nâng cao kim ngạch xuất
khẩu, giảm kim ngạch nhập khẩu tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước.
2.2.4. Các ngành dịch vụ khác (ngân hàng, vận tải hàng không, bưu chính viễn
thông, xây dựng, y tế, giáo dục... ):
Kim ngạch xuất khẩu của nhóm này sẽ đạt xấp xỉ 1 tỷ USD năm 2000 trong đó
chiếm tỷ trọng lớn là dịch vụ ngân hàng (thanh toán quốc tế, chuyển tiền, kiều hối),
bưu chính viễn thông và vận tải hàng không. Dự kiến kim ngạch của nhóm này sẽ
tăng khoảng 10%/năm thời kỳ 2001-2010, đạt 1, 6 tỷ USD năm 2005 và 2, 6 tỷ USD
năm 2010.
Ngành dịch vụ phát triển nhiều nhất vào thời kỳ 2001-2010 sẽ là xuất khẩu lao
động, du lịch, bưu chính viễn thông, vận tải và ngân hàng. Định hướng phát triển các
ngành cụ thể được tóm tắt qua bảng dưới đây:
Ngành dịch vụ Kim ngạch năm 2005
(triệu USD)
Kim ngạch năm 2010
(triệu USD)
-Xuất khẩu lao động 1. 500 4. 500
-Du lịch 1. 000 1. 600
-Một số ngành
khác (ngân hàng,
bưu chính viễn
thông, vận tải... )
1. 600
2. 000-2. 500
Tổng kim ngạch
xuất khẩu dịch vụ
4. 100
8. 100-8. 600
Tóm lại, tới năm 2010, kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu được dự kiến như sau:
Nhóm hàng Kim ngạch năm 2010
(triệu USD)
Tỷ trọng % năm
2000 2010
1. Nguyên nhiên liệu 1. 750 20, 1 3 - 3, 5
2. Nông sản, hải sản 8. 000-8. 600 23, 4 16-17
3. Chế biến, chế tạo 20. 000-21. 000 31, 4 40-45
4. Công nghệ cao 7. 000 5, 4 12-14
5. Hàng khác 12. 500 19, 8 23-25
Tổng kim ngạch hàng hóa 48. 000-50. 000 100
Tổng kim ngạch dịch vụ 8. 100-8. 600
2.3. Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu
Đối với hàng nhập khẩu thì phương châm chung là:
- Ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước,
đẩy mạnh xuất khẩu.
- Cố gắng sử dụng vật tư, thiết bị mà trong nước có thể sản xuất được để tiết
kiệm ngoại tệ, nâng cao trình độ sản xuất.
- Hạn chế tới mức tối đa có thể được việc nhập khẩu hàng tiêu dùng.
- Tập trung vào nhập thiết bị hiện đại từ các nước có công nghệ nguồn (Mỹ,
Nhật, Tây Âu), giảm nhanh tiến tới hạn chế nhập thiết bị công nghệ lạc hậu hoặc
công nghệ trung gian.
Nhu cầu nhập khẩu tăng năm 2010 dự kiến như sau:
Nhóm hàng Kim ngạch năm 2010
(triệu USD)
Tỷ trọng % năm
2000 2010
1. Máy móc thiết bị 18. 000 27 36
2. Nguyên nhiên vật liệu 30. 000 69 60
3. Hàng tiêu dùng 2. 000 4 4
Tổng kim ngạch nhập khẩu 50. 000 100 100
Cơ cấu nhập khẩu sẽ chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng nhập khẩu máy,
thiết bị công nghiệp và công nghệ từ 27% năm 2000 lên 36% 2010, giảm tỷ trọng
nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu từ 69% năm 2000 xuống 60% năm 2010, giữ
nguyên tỷ trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng ở mức 4% như hiện nay. Hàng tiêu dùng
nhập khẩu đang được thay thế dần bằng hàng sản xuất trong nước, nhất là vào những
năm cuối thời kỳ 2001-2010.
Nước ta còn đang trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, trình độ phát
triển kinh tế còn thấp, do đó chưa thể xóa bỏ được tình trạng nhập siêu. Mức nhập
siêu cao hay thấp còn tùy thuộc kết quả thực hiện các chính sách đẩy mạnh xuất khẩu
và sử dụng hợp lý các nguồn vốn nhập khẩu. Đồng thời, cần tính tới nhân tố khi mở
cửa thị trường theo cam kết quốc tế, hàng rào quan thuế và phi quan thuế sẽ giảm dần
do đó hàng nước ngoài sẽ dễ xâm nhập thị trường nước ta hơn. Do đó ta cần ra sức
nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nội địa, chủ động đi vào thị trường nước
khác, đổi mới cơ bản phương thức quản lý nhập khẩu. Phương án khả thi là kiềm chế
nhập khẩu, giảm dần tỷ lệ nhập siêu, khống chế nhập siêu hàng năm ở mức không
quá 10% kim ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng xuất nhập và xuất siêu vào cuối thời
kỳ của chiến lược 2001-2010.
Về thị trường nhập khẩu, chúng ta cần chuyển dịch theo hướng giảm thiểu tỷ
trọng của thị trường ASEAN nói riêng, Châu á nói chung xuống còn khoảng 55%
(hiện nay ASEAN đang chiếm tới 30% kim ngạch xuất khẩu của ta, riêng Singapore
là 17-18%, toàn Châu á chiếm xấp xỉ 80%). Tỷ trọng của các thị trường cung ứng
công nghệ nguồn như Nhật, EU, Bắc Mỹ hiện rất thấp (Nhật khoảng 12%, EU
khoảng 10%, Bắc Mỹ chưa đầy 4%), do đó cần nâng dần tỷ trọng của Nhật, EU và
Bắc Mỹ lên trên 30% vào năm 2005 và 40% vào năm 2010.
Về phương thức quản lý nhập khẩu, chúng ta cần chủ động thay đổi theo hướng
tăng cường sử dụng các công cụ phi thuế như các hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ
sinh, môi trường... , hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đối, thuế mùa vụ, thuế chống
phá giá, chống trợ cấp, công bố lộ trình rõ ràng cho việc dỡ bỏ hàng rào bảo hộ, khắc
phục triệt để những bất hợp lý trong chính sách bảo hộ, cân đối lại đối tượng bảo hộ
theo hướng trước hết chú trọng bảo hộ nông sản, giảm dần tỷ trọng của thuế nhập
khẩu trong cơ cấu nguồn thu ngân sách, cải cách biểu thuế và cải cách công tác thu
thuế để giảm dần, tiến tới xóa bỏ chế độ tính thuế theo giá tối thiểu và tích cực xúc
tiến việc xếp sắp lại các doanh nghiệp, đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để
nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của từng ngành hàng.
2.4. Cơ cấu dịch vụ nhập khẩu
Các ngành dịch vụ mà Việt Nam phải chi trả ngoại tệ chủ yếu là dịch vụ tài
chính (bảo hiểm, kiểm toán... ), ngân hàng (thanh toán, chuyển tiền... ), bưu chính
viễn thông, vận tải (hàng không, đường thủy), thuê chuyên gia nước ngoài, du lịch,
du học....Tổng giá trị nhập khẩu dịch vụ năm 2000 ước tính vào khoảng 1, 2 tỷ USD.
Dự kiến nhập khẩu dịch vụ tăng khoảng 10, 5% trong thời kỳ 2001-2010, đạt giá trị
2, 02 tỷ USD năm 2005 và 3, 4 tỷ USD năm 2010.
Tuy nhiên, trong việc hoạch định chiến lược xuất nhập khẩu dịch vụ thời kỳ
2001-2010, Việt Nam cần tính tới yếu tố hội nhập quốc tế trong đó có hội nhập về
dịch vụ. Nếu Việt Nam gia nhập WTO trong giai đoạn này thì lĩnh vực dịch vụ cũng
sẽ phải từng bước mở cửa theo những nguyên tắc của Hiệp định chung về Thương
mại Dịch vụ (GATS), tạo điều kiện cho các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài mở
rộng hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Điều này chắc chắn đặt các ngành dịch vụ
của nước ta trước sự cạnh tranh gay gắt và sẽ ảnh hưởng mạnh tới kim ngạch nhập
khẩu dịch vụ của ta.
3. Về thị trường xuất - nhập khẩu
Một trong những khâu then chốt của Chiến lược phát triển xuất - nhập khẩu đến
năm 2010 là mở rộng và đa dạng hoá thị trường. Quan điểm chủ đạo là:
- Tích cực, chủ động tranh thủ mở rộng thị trường, nhất là sau khi tham gia
WTO.
- Đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ với các đối tác.
- Mở rộng tối đa việc tiếp cận các thị trường có sức mua lớn, các thị trường
cung ứng công nghệ nguồn.
- Tìm kiếm các thị trường mới ở Mỹ Latinh, Châu Phi.
Xuất phát từ các phương châm chung nói trên, có thể tính đến vị trí của các thị
trường như sau:
3.1. Khu vực Châu á- Thái Bình Dương:
Tiếp tục coi trọng khu vực này trong 10 năm tới vì ở gần ta, có dung lượng lớn,
phát triển tương đối năng động. Thị trường trọng điểm tại khu vực này sẽ là các nước
ASEAN, Trung Quốc (cả Hồng Kông), Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc.
ASEAN là một thị trường khá lớn, lâu nay chiếm khoảng trên dưới 1/3 kim
ngạch buôn bán của nước ta. Sắp tới, khi AFTA hình thành, ta càng có thêm điều
kiện xuất khẩu vào thị trường này. Hơn nữa, ASEAN có nhiều mặt hàng giống ta,
đều hướng ra các thị trường khác là chính chứ chưa phải là buôn bán trong khu vực là
chính. Trong những năm tới, khả năng xuất khẩu gạo, dầu thô cho khu vực này sẽ
giảm, trong khi đó với việc áp dụng biểu thuế AFTA, hàng của ASEAN có điều kiện
thuận lợi hơn trong việc đi vào thị trường ta, do đó càng phải ra sức phấn đấu gia
tăng khả năng cạnh tranh để đi vào thị trường ASEAN, cải thiện cán cân thương mại.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần tích cực, chủ động tận dụng thuận lợi do cơ
chế AFTA mở ra để gia tăng xuất khẩu sang các thị trường này, từ đó tăng kim ngạch
nhưng giảm về tỷ trọng, hạn chế nhập siêu. Ngoài ra, cần khai thác tốt thị trường Lào
và Campuchia.
Mặt hàng trọng tâm cần được đẩy mạnh xuất khẩu sẽ là gạo, linh kiện vi tính,
một vài sản phẩm cơ khí (đối với các nước ngoài Đông Dương) và hoá phẩm tiêu
dùng, thực phẩm chế biến, sản phẩm nhựa, hàng bách hoá (đối với Lào và
Campuchia). Về nhập khẩu, mặt hàng chủ yếu từ thị trường này sẽ là nguyên liệu sản
xuất dầu thực vật, phân bón, linh kiện vi tính - cơ khí - điện tử, xăng dầu, sắt thép,
tân dược và một số chủng loại máy móc, thiết bị, phụ tùng.
Trung Quốc là một thị trường lớn. Ta cần tích cực, chủ động hơn trong việc
thúc đẩy buôn bán với Trung Quốc mà hướng chính là các tỉnh Hoa Nam và Tây
Nam Trung Quốc, phấn đấu đưa kim ngạch lên khoảng 3-4 tỷ USD. Một trong những
phương cách là tranh thủ thoả thuận ở cấp Chính phủ về trao đổi một số mặt hàng với
số lượng lớn, trên cơ sở ổn định, thúc đẩy buôn bán chính ngạch. Bên cạnh đó cần coi
trọng buôn bán biên mậu, tận dụng phương thức này để gia tăng xuất khẩu trên cơ sở
hình thành sự điều hành tập trung và nhịp nhàng. Đồng thời, cần chú trọng thị trường
Hồng Kông- một thị trường tiêu thụ lớn và vốn là một khâu trung chuyển quan trọng.
Mặt hàng chủ yếu đi vào hai thị trường này sẽ là hải sản, cao su, rau hoa quả, thực
phẩm chế biến và hoá phẩm tiêu dùng. Hàng nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc sẽ là
hoá chất, thuốc trừ sâu, một số chủng loại phân bón, chất dẻo nguyên liệu, bông, sắt
thép, máy móc, thiết bị và phụ tùng.
Tỷ trọng xuất khẩu vào Nhật Bản phải được cải thiện. Ta và Nhật cần có sự trao
đổi, bàn bạc để đi đến ký kết thoả thuận về việc Nhật Bản dành cho hàng hoá của
Việt Nam qui chế MFN đầy đủ. Các doanh nghiệp cần tăng cường tìm hiểu các thông
tin có liên quan đến phương thức phân phối, thủ tục xin dấu chứng nhận chất lượng
JIS, JAS và Ecomark cũng như chế độ xác nhận trước về thực phẩm nhập khẩu của
Nhật. Ngoài ra, chúng ta cần hết sức quan tâm đến thu hút vốn đầu tư từ Nhật Bản.
Trong những năm tới mặt hàng chủ lực xuất khẩu sang Nhật Bản sẽ là hải sản,
hàng dệt may, giày dép và sản phẩm da, than đá cao su, cà phê, rau quả, thực phẩm
chế biến, chè, đồ gốm sứ và sản phẩm gỗ. Mặt hàng chủ yếu nhập khẩu sẽ là máy
móc, thiết bị công nghệ cao, chất dẻo nguyên liệu, linh kiện điện tử tin học cơ khí,
thuốc trừ sâu và nguyên liệu, sắt thép, nguyên phụ liệu dệt- may - da.
Hàn Quốc là thị trường nhập khẩu lớn trong khu vực. Tuy nhiên, ta vẫn nhập
siêu lớn, hàng xuất của ta vẫn chưa có chỗ đứng vững chắc trên thị trường này. Trong
thời gian tới, để đẩy mạnh xuất khẩu sang Hàn Quốc, chúng ta cần kiên trì thuyết
phục nước này mở cửa thị trường. Cần chú trọng tới một nhân tố mới là Nam - Bắc
Triều Tiên cải thiện quan hệ, Hàn Quốc sẽ quan tâm nhiều hơn tới Bắc Triều Tiên
nhưng mặt khác, tình hình Bắc Triều Tiên được cải thiện cũng mở ra khả năng gia
tăng buôn bán với Bắc Triều Tiên mà cho tới nay hầu như không có.
Mục tiêu đặt ra là duy trì và đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu dệt may, hải sản,
giày dép, cà phê, rau quả, than đá, dược liệu vào thị trường nông sản. Mặt hàng nhập
khẩu chủ yếu từ thị trường này có thể là máy móc, thiết bị, phụ tùng, phương tiện vận
tải, chất dẻo nguyên liệu, linh kiện điện tử - tin học - cơ khí, phân bón, sắt thép, tân
dược và nguyên phụ liệu dệt - may - da.
Đài Loan là bạn hàng xuất khẩu quan trọng. Mục tiêu chủ yếu trong thời gian
tới là đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng như sản phẩm gỗ, hải sản, cao su, dệt may,
giày dép, rau quả và chè. Sau năm 2000 có thể có thêm các sản phẩm như cơ khí và
điện gia dụng do cơ sở có vốn đầu tư của Đài Loan sản xuất tại Việt Nam có thể tăng
phù hợp với xu thế dịch chuyển sản xuất như đã nêu ở trên. Hàng nhập từ Đài Loan
có thể là linh kiện điện tử - vi tính - cơ khí, máy móc, thiết bị, phụ tùng, nguyên phụ
liệu dệt may - da, sắt thép.
3.2. Khu vực Châu Âu
Chiến lược thâm nhập và mở rộng thị phần tại Châu Âu được xác định trên cơ
sở chia Châu Âu thành 2 khu vực cơ bản: Tây âu và Đông âu.
Tại Tây Âu, trọng tâm sẽ là EU mà chủ yếu là các thị trường lớn như Đức, Anh,
Pháp và Italia. Kim ngạch xuất khẩu sang EU tăng rất nhanh trong thời kỳ 1991 -
1999. Trong các quốc gia EU, Đức là bạn hàng quan trọng thứ 4 của Việt Nam, Anh
là nước thứ 9, Pháp và Hà Lan đứng thứ 12 và 13. Hàng hoá xuất sang EU chủ yếu là
giầy dép, dệt may, cà phê, hải sản, cao su, than đá, điều nhân và rau quả. Để phát
triển hơn nữa xuất khẩu sang EU, đáp ứng được đòi hỏi cao về chất lượng và luật lệ
phức tạp ở EU, chúng ta cần tăng cường thu thập và phổ biến thông tin cho các doanh
nghiệp, chú trọng nâng cao chất lượng hàng hoá, nhất là hải sản và thực phẩm chế
biến, tranh thủ việc EU coi Việt Nam là "nước có nền kinh tế thị trường” để bảo đảm
cho hàng hóa Việt Nam được đối xử bình đẳng với hàng hoá các nước khác khi EU
điều tra và thi hành các biện pháp chống bán phá giá, tranh thủ EU nâng mức chuyển
hạn ngạch giữa các nước ASEAN, chuẩn bị điều kiện gia tăng cạnh tranh trong việc
thâm nhập thị trường này sau khi bỏ hạn ngạch vào năm 2005.
Nhìn chung, nhiều mặt hàng có thể tăng xuất khẩu vào EU nhưng trọng tâm vẫn
sẽ là dệt may, giày dép, hải sản, rau hoa quả, cao su, sản phẩm nhựa, sản phẩm gỗ, và
sản phẩm cơ khí. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ thị trường này sẽ là máy móc, thiết
bị công nghệ cao, máy chế biến thực phẩm, phương tiện vận tải, máy bay, hoá chất,
tân dược, nguyên phụ liệu dệt - may- da.
Quan hệ thương mại với các nước Đông Âu và SNG, nhất là liên bang Nga có
thể và cần được khôi phục bởi đây là thị trường có nhiều tiềm năng. Ta cần thay đổi
nhận thức về việc họ “dễ tính”, người tiêu dùng ở đây đã được tiếp cận với hàng hoá
nhiều nước có chất lượng cao hơn hàng hoá của ta. Nhiều nước, trong đó có Trung
Quốc, đã xâm nhập mạnh mẽ vào khu vực này.
Toàn bộ tình hình đòi hỏi ta phải coi họ như những thị trường nhiều tiềm năng
nhưng cũng yêu cầu hàng hoá có sức cạnh tranh cao, đều vận hành theo cơ chế thị tr-
ường với một số đặc thù của giai đoạn chuyển đổi. Theo hướng đó, Nhà nước cần có
chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp thâm nhập thị trường này. Quỹ hỗ trợ tín
dụng xuất khẩu cần được ra đời sớm để bảo lãnh tín dụng xuất khẩu cho người xuất
khẩu hàng hoá vào Nga và Đông Âu theo phương thức "Nhà nước và doanh nghiệp
cùng làm”, xây dựng một số trung tâm tiêu thụ hàng hoá, hỗ trợ tận dụng cộng đồng
người Việt để đưa hàng vào Nga và Đông Âu, tạo một số cơ sở sản xuất tại chỗ...
Trọng tâm về hàng hoá xuất khẩu sẽ là cao su, chè, thực phẩm chế biến, rau
quả, hoá phẩm tiêu dùng, dệt may, giày dép và thủ công mỹ nghệ. Hàng nhập khẩu
chủ yếu sẽ là thiết bị năng lượng, thiết bị mỏ, hàng quốc phòng, phân bón, sắt thép,
phương tiện vận tải, lúa mỳ và tân dược.
3.3. Khu vực Bắc Mỹ
Trọng tâm tại khu vực này là thị trường Hoa Kỳ. Đây là nước nhập khẩu lớn
hàng đầu thế giới (mỗi năm nhập khẩu tới trên 1000 tỷ USD hàng hoá) với nhu cầu
rất đa dạng, nắm những đỉnh cao về khoa học - công nghệ, công nghệ nguồn. Hiệp
định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết và phê chuẩn sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho xuất khẩu hàng hoá của ta, đồng thời thúc đẩy các nước đầu tư vào Việt Nam
để xuất sang Hoa Kỳ.
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu vào Hoa Kỳ sẽ là dệt may, giày dép, sản phẩm
nhựa, sản phẩm cơ khí - điện, sản phẩm gỗ, thủ công mỹ nghệ, hải sản, cà phê, hạt
tiêu, nhân điều, chè, gia vị, rau quả và thực phẩm chế biến. Mặt hàng nhập khẩu chủ
yếu là máy móc, thiết bị công nghệ cao, phần mềm, máy bay, phương tiện vận tải,
hoá chất, tân dược, sản phẩm cao su, chất dẻo nguyên liệu, lúa mỳ và nguyên liệu sản
xuất thức ăn gia súc.
Các ngành hàng trên, nhất là chế biến gỗ, chế biến thực phẩm, sản xuất đồ nhựa
cần bắt tay ngay vào việc nghiên cứu thị trường Hoa Kỳ để thâm nhập và đẩy mạnh
xuất khẩu. Riêng một số ngành như dệt may, giày dép, chế biến hải sản đã dành sự
quan tâm khá thích đáng trong việc nghiên cứu thị trường Mỹ từ trước khi ký kết
Hiệp định nên hầu như đã ở thế sẵn sàng để xuất phát.
3.4. Châu Đại Dương
Trọng tâm tại khu vực châu Đại Dương là Australia và New Zealand. Quan hệ
thương mại với hai thị trường này phát triển tốt trong những năm gần đây chứng tỏ
tiềm năng không nhỏ nhưng mức khai thác vẫn còn thấp. Do đó, cần kiên trì tìm
kiếm, tạo lập và củng cố quan hệ bạn hàng. Hàng hoá đi vào khu vực này chủ yếu sẽ
là dầu thô, dệt may, giày dép thủ công mỹ nghệ, sản phẩm nhựa, sản phẩm gỗ và sản
phẩm cơ khí điện. Hàng nhập khẩu chủ yếu sẽ là máy móc, thiết bị, sắt thép, lúa mỳ,
bột mỳ, sữa nguyên liệu và tân dược.
3.5. Trung Cận Đông, Nam á, Châu Phi và Mỹ Latinh
Hàng hoá của Việt Nam hiện đã xuất hiện trên các thị trường này nhưng chủ
yếu là qua thương nhân nước thứ ba, kim ngạch do ta xuất trực tiếp còn khá nhỏ bé.
Một điểm cần lưu ý là toàn bộ các nước trong khu vực, kể cả những nước đã từng
phát triển theo đường lối kế hoạch hóa tập trung, đều đã áp dụng cơ chế thị trường và
hiện đang có sự gắn kết với nhau thông qua việc hình thành các liên kết kinh tế khu
vực như khối liên minh quan thuế Nam Châu Phi, khối các nước sử dụng đồng Franc
ở Tây Phi, khối Maghreb tại Bắc Phi, khối các nước vùng Vịnh, Hiệp hội SAFTA...
Thương mại giữa các nước trong khối được áp dụng những ưu đãi đặc biệt. Vì lý do
đó, trong chiến lược thâm nhập thị trường, chúng ta cần chọn thị trường trọng điểm
cho từng khối và lấy đó làm bàn đạp để tiến vào các nước trong khối.
Tóm lại, trong thời gian tới, bên cạnh việc tiếp tục củng cố và tăng cường chỗ
đứng tại các thị trường đã có, chúng ta nên gia tăng sự có mặt tại thị trường Trung
Quốc, Nga, mở ra thị trường Mỹ, châu Phi và trong chừng mực nào đó là thị trường
Mỹ Latinh.
Chương III
Hệ thống các chính sách và biện pháp hỗ trợ
để thực hiện định hướng phát triển
xuất nhập khẩu 2001-2010
Để đạt các mục tiêu và chỉ tiêu nêu trên cần thực hiện đồng bộ hệ thống các
chính sách, biện pháp, trong đó có thể có hai khâu then chốt:
Một là, có chính sách đầu tư thỏa đáng không chỉ nhằm gia tăng sản lượng mà
cần chú trọng nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm (và cả dịch
vụ) xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và hàng hóa -
dịch vụ Việt Nam.
Hai là, trên cơ sở kiên trì chính sách mở cửa, chủ động hội nhập vào nền kinh tế
khu vực và thế giới, mở rộng và đa dạng hóa thị trường.
Từ nhận thức như vậy, Bộ Thương mại đề xuất các chính sách và biện pháp
phát triển xuất - nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ như sau:
I. Chính sách đầu tư và chuyển đổi cơ cấu hàng hóa - dịch vụ
1. Về hàng hóa
Để đạt được những mục tiêu đề ra, một khâu có ý nghĩa quyết định là chính
sách đầu tư. Phù hợp với đòi hỏi của tình hình, chính sách đầu tư nên được thực hiện
theo các hướng sau:
1.1. Cần dành ưu tiên cao cho các ngành sản xuất hàng xuất khẩu, còn đối với
các ngành thay thế nhập khẩu mà năng lực sản xuất trong nước đã đáp ứng nhu cầu
thì không nên tăng thêm đầu tư, kể cả đầu tư nước ngoài. Trong đầu tư nên tập trung
vào các ngành hàng chủ lực và các dự án nâng cao cấp độ chế biến, từ đó nâng cao
khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Có chính sách ưu đãi, đặc biệt là về thuế, để thúc
đẩy các doanh nghiệp sử dụng ngày càng nhiều sản phẩm trong nước, nâng cao hàm
lượng nội địa của sản phẩm.
Việt Nam nên tính tới việc thành lập Ngân hàng Dữ liệu Công nghệ Quốc gia
để cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp, tạo lập thị trường công nghệ để các sản
phẩm khoa học - công nghệ được trả giá đúng mức và lưu thông bình thường như
một dạng hàng hóa đặc biệt, khuyến khích việc ký hợp đồng giữa các doanh nghiệp
với các cơ sở nghiên cứu khoa học, thi hành nghiêm túc các quy định của luật pháp
về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, áp dụng chế độ đăng ký và kiểm tra chất lượng
bắt buộc đối với một số mặt hàng xuất khẩu để thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm
hơn nữa đến vấn đề công nghệ, đặc biệt là công nghệ sạch.
1.2. Đối với nông sản, chú trọng việc đầu tư đổi mới giống cây trồng, công nghệ
từ đó nâng cao chất lượng, hiêu quả và sức cạnh tranh, phù hợp với nhu cầu trên thị
trường đi đôi với việc chú trọng đầu tư vào khâu sau thu hoạch mà hiện nay còn rất
hạn chế.
1.3. Đặc biệt quan tâm đầu tư trực tiếp cho hoạt động xuất khẩu như các cảng,
kho tàng, kể cả kho ngoại quan, các trung tâm thương mại ở nước ngoài, các hoạt
động xúc tiến thương mại (tham gia triển lãm, hội chợ, cử đoàn đi nước ngoài tìm
hiểu thị trường, tìm kiếm đối tác, thu thập và cung cấp thông tin, hướng dẫn cho các
doanh nghiệp về luật lệ, tiêu chuẩn, mẫu mã thị trường đòi hỏi... ), đặc biệt cần hỗ trợ
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng về tài chính, nhân lực và thông
tin, chú trọng đầu tư đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là cán bộ quản lý.
1.4. Cần hết sức chú trọng cải thiện môi trường đầu tư một cách đồng bộ để
tăng sức hấp dẫn đối với cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp của nước ngoài,
nhất là trong lĩnh vực sản xuất để xuất khẩu. Tích cực, chủ động điều chỉnh Luật Đầu
tư nước ngoài theo quy định của WTO về TRIMS, giảm dần, tiến tới xóa bỏ sự phân
biệt về chính sách giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Duy trì môi trường
đầu tư ổn định để tạo tâm lý tin tưởng cho các nhà đầu tư. Phát triển hợp lý các khu
chế xuất, khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài gia tăng xuất khẩu. Mở rộng thị
trường để lôi kéo các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư ở nước ta, xuất sang các thị tr-
ường có dung lượng lớn.
1.5. Nguồn đầu tư nên được xác định là: Nhà nước tập trung cho những khâu
đòi hỏi vốn lớn, có tác dụng cho nhiều doanh nghiệp như nghiên cứu khoa học, xây
dựng hạ tầng, kho bãi, bến cảng, thành lập các trung tâm thương mại và kho ngoại
quan ở nước ngoài... Trong các khâu còn lại, Nhà nước chỉ ban hành các chính sách
ưu đãi để khuyến khích cá nhân và doanh nghiệp chủ động đầu tư sản xuất, kinh
doanh, hạn chế tới mức thấp nhất, nhanh chóng tiến tới xóa bỏ hoàn toàn cơ chế "xin
- cho", bao cấp trực tiếp hoặc gián tiếp.
2. Về dịch vụ
Để đạt mục tiêu tăng trưởng bình quân 15% trong thời kỳ 2001-2010, đưa kim
ngạch xuất khẩu dịch vụ lên 8, 1 tỷ USD vào năm 2010 và đồng thời xuất siêu 4, 7 tỷ
USD về dịch vụ, Việt Nam cần tập trung mọi nguồn lực nâng cao sức cạnh tranh của
mọi ngành dịch vụ, tận dụng cơ hội cũng như đối phó với những thách thức do hội
nhập quốc tế đem lại. Do tính chất đa ngành trong lĩnh vực dịch vụ nên mỗi ngành
đều cần có hệ thống chính sách, giải pháp riêng để thực hiện mục tiêu của mình. Nhìn
chung, các giải pháp lớn để phát triển xuất khẩu dịch vụ là:
2.1. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng:
Sức cạnh tranh của nhiều ngành dịch vụ như bưu chính viễn thông, vận tải hàng
không, vận tải biển, du lịch... phụ thuộc nhiều vào điều kiện cơ sở hạ tầng và trình độ
công nghệ, vì vậy cần tiếp tục có chính sách tự mình hoặc thu hút đầu tư nước ngoài
phát triển cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật như đường xá, hệ thống sân bay, cảng biển,
công nghệ viễn thông, hệ thống khách sạn và khu du lịch... đủ tiêu chuẩn quốc tế
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế nói chung và dịch vụ nói riêng.
2.2. Chuyên nghiệp hóa, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của dịch vụ:
Dịch vụ ngày càng phát triển nhanh chóng cả chiều rộng lẫn chiều sâu và rất đa
dạng. Bên cạnh đó, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những thách thức mới,
môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn do sự xuất hiện của nhiều nhà cung
ứng dịch vụ nước ngoài. Các hình thức bảo hộ đối với nhiều ngành dịch vụ sẽ phải
giảm dần theo các nguyên tắc mở cửa thị trường và đối xử quốc gia (NT) của Hiệp
định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS). Vì vậy, mỗi ngành dịch vụ đều phải
phấn đấu chuyên nghiệp hoá phương thức kinh doanh, nâng cao chất lượng dịch vụ
theo tiêu chuẩn quốc tế để có thể phát triển trong quá trình hội nhập.
2.3. Mở rộng các loại hình dịch vụ xuất khẩu, phương thức xuất khẩu và thị
trường xuất khẩu:
Ngoài việc phát triển các loại hình xuất khẩu dịch vụ hiện có, trong thời gian tới
cần chú trọng thêm những ngành còn nhiều tiềm năng như y tế, giáo dục, xây dựng,
kiểm toán, bảo hiểm... Trong lĩnh vực vận tải và giao nhận cần tận dụng thế mạnh về
vị trí địa lý của Việt Nam nằm ở ngã ba đường vận tải quốc tế để phát triển các dịch
vụ tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu, chuyển tải, quá cảnh....Ngoài ra, chúng ta cần đa
dạng hoá các phương thức kinh doanh và mở rộng thị trường xuất khẩu để tạo điều
kiện nâng cao giá trị xuất khẩu, chuẩn bị kỹ lưỡng phương án cam kết về dịch vụ,
nhất là trong khuôn khổ đàm pháp gia nhập WTO để trên cơ sở đó hoạch định và
từng bước hoàn thiện môi trường pháp lý, cơ chế chính sách trong lĩnh vực dịch vụ.
II. Các giải pháp về thị trường
Để chủ động thâm nhập thị trường quốc tế, duy trì và mở rộng thị phần trên các
thị trường quen thuộc, khai thác thêm các thị trường mới, bảo đảm cơ cấu thị trường
hợp lý theo nguyên tắc đa phương hoá các đối tác, Việt Nam cần đổi mới công tác thị
trường ở tầm vĩ mô và vi mô theo các hướng sau:
1. Phát triển mạnh công tác thị trường ở cả tầm vĩ mô và vi mô, khắc phục đồng
thời hai biểu hiện "ỷ lại vào Nhà nước" và "phó mặc cho doanh nghiệp". Đẩy mạnh
đàm phán thương mại song phương và đa phương để tạo hành lang pháp lý cho các
doanh nghiệp, cụ thể là đàm phán mở cửa thị trường mới, đàm phán để tiến tới
thương mại cân bằng với những thị trường mà ta thường xuyên nhập siêu, đàm phán
để thống nhất hoá các tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật và đàm phán để nới
lỏng các hàng rào phi quan thuế. Công tác thị trường xuất khẩu và thị trường nhập
khẩu được gắn kết chặt chẽ với nhau để vừa tăng cường sức mạnh trong đàm phán
quốc tế, vừa góp phần chuyển dần nhập khẩu của các doanh nghiệp từ thị trường
nhập siêu (châu á) sang thị trường xuất siêu (Bắc Mỹ và Tây Âu).
2. Tăng cường mạnh mẽ công tác thông tin về các thị trường: từ tình hình chung
cho tới các cơ chế chính sách của các nước, dự báo các chiều hướng cung- cầu hàng
hoá và dịch vụ...
3. Chú trọng thu hút đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia và của các nhà sản
xuất "chìa khoá trao tay" (đặc biệt là trong lĩnh vực điện tử và công nghệ thông tin)
đề vừa bảo đảm thị trường xuất khẩu thông qua hệ thống phân phối toàn cầu, vừa góp
phần chuẩn bị tiền đề cho thời kỳ sau là thời kỳ đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm có
hàm lượng chất xám và hàm lượng công nghệ cao.
4. Tăng cường các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trên thị
trường ngoài. Xoá bỏ thủ tục cấp phép thành lập văn phòng đại diện tại nước ngoài
và đơn giản hoá thủ tục mở tài khoản để phục vụ giao dịch trên thị trường ngoài.
5. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến xuất khẩu, tăng cường
công tác thu thập và phổ biến thông tin cũng như công tác dự báo để định hướng cho
hoạt động sản xuất, xuất khẩu. Nghiên cứu thành lập Quỹ xúc tiến thương mại có sự
đóng góp của các doanh nghiệp để tiến hành hỗ trợ doanh nghiệp trong các hoạt động
hội chợ, trưng bày, triển lãm... Tăng cường nghiên cứu các chương trình xuất khẩu
trọng điểm để đẩy mạnh tiểu thụ nông sản hàng hoá cho dân, từ điều tra, quy hoạch
đến tổ chức sản xuất, tổ chức tiêu thụ. Có chế độ khuyến khích thoả đáng (như miễn
giảm thuế thu nhập cá nhân, cho phép tính vào chi phí khi tính thuế thu nhập doanh
nghiệp... ) đối với các tổ chức và cá nhân, bao gồm cả các cơ quan đại diện ngoại
giao, ngoại thương của ta ở nước ngoài tham gia các hoạt động môi giới, trợ giúp tiếp
cận và thâm nhập thị trường quốc tế...
6. Đối với những mặt hàng mà ta giữ thị phần lớn trên thị trường quốc tế (như
gạo, cà phê, hạt tiêu... ), chúng ta cần tăng cường áp dụng các biện pháp như thông
tin chiến lược, chiến thuật, kiềm chế tốc độ bán ra, tham gia các kế hoạch quốc tế về
điều tiết nguồn cung trong điều kiện có thể... để tác động vào thị trường và giá cả
theo hướng có lợi cho ta.
7. ở tầm vĩ mô, các doanh nghiệp có trách nhiệm dựa vào khung pháp lý và các
chính sách khuyến khích của Nhà nước để tổ chức tiếp cận và phân tích, khai thác
các thông tin; trực tiếp và thường xuyên tiếp xúc với thị trường thế giới thông qua hội
thảo khoa học, hội chợ triển lãm, đẩy mạnh tiếp thị để kịp thời nắm bắt xu thế thị trư-
ờng, bám sát các thay đổi trong sản xuất và kinh doanh, tự mình chủ động lo tìm bạn
hàng, thị trường, tự mình lo tổ chức sản xuất và xuất khẩu theo nhu cầu và thị hiếu
của thị trường, đặc biệt chú trọng giữ "chữ tín" trong kinh doanh để duy trì chỗ đứng
trên thị trường, phối hợp với nhau trong việc đi tìm và quan hệ với bạn hàng.
III. Hoàn thiện môi trường pháp lý và đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách
xuất - nhập khẩu
Để tạo điều kiện cho việc thực hiện thành công những nhiệm vụ trọng tâm trong
thời gian từ này đến năm 2010, Việt Nam cần hoàn thiện môi trường pháp lý, đồng
thời tiếp tục đổi mới, bổ xung và hoàn thiện cơ chế chính sách xuất- nhập khẩu cho
phù hợp với điều kiện thực tế theo hướng:
1. Điều chỉnh các quy định không còn phù hợp hoặc chưa được rõ, trước hết là
Luật Thương mại, Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích Đầu tư trong nước.
Về Luật Thương mại, cần mở rộng phạm vi điều chỉnh cho phù hợp với các quy định
của WTO. Về Luật Đầu tư nước ngoài, cần đưa thêm các quy định để bảo đảm
nguyên tắc đối xử quốc gia (National Treatment) trong các lĩnh vực có liên quan đến
thương mại, dịch vụ. Về Luật Khuyến khích Đầu tư trong nước, cần quy định lại rõ
hơn về ngành nghề khuyến khích đầu tư để khắc phục tình trạng không rõ ràng giữa
"thay thế nhập khẩu" và "định hướng xuất khẩu". Có lộ trình thống nhất hai luật đầu
tư này thành một bộ luật chung về khuyến khích đầu tư.
2. Ban hành các văn bản luật mới để điều chỉnh các quan hệ kinh tế mới phát
sinh trên phương diện quốc tế và quốc gia như văn bản pháp luật về Tối huệ quốc
(MFN) và Đối xử quốc gia (NT), Luật Cạnh tranh và Chống độc quyền, Luật Chống
bán phá giá và Chống trợ cấp, Luật Phòng vệ Khẩn cấp, Luật Chống chuyển giá
(transfer pricing) - một chính sách rất quan trọng đối với việc thu hút có hiệu quả
nguồn vốn đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia.
Điều chỉnh hoặc ban hành mới các quy định dưới luật để xử lý linh hoạt các
mảng kinh doanh đang ngày càng trở nên quan trọng nhưng chưa đủ khung pháp lý
như các lĩnh vực dịch vụ, xuất khẩu tại chỗ (bán hàng thu ngoại tệ mạnh, bán hàng
miễn thuế, giao hàng xuất khẩu trên lãnh thổ Việt Nam để tiếp tục sản xuất thành sản
phẩm xuất khẩu... ), buôn bán biên giới và buôn bán duyên hải, kinh doanh tạm nhập
tái xuất và chuyển khẩu... Đặc biệt chú trọng khuyến khích đi đôi với việc quản lý
các dịch vụ tái xuất, chuyển khẩu và kho ngoại quan để tận dụng ưu thế về vị trí địa
lý, tăng thu ngoại tệ.
3. Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn hàng hoá - dịch vụ xuất khẩu cho phù hợp
với đòi hỏi của thị trường, nâng dần sức cạnh tranh.
4. Trong hoạt động kinh doanh xuất- nhập khẩu, Việt Nam cần kiên trì chính
sách nhiều thành phần, trong đó kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo. Hạn chế
dần, tiến tới xoá bỏ tình trạng độc quyền, mở rộng đầu mối kinh doanh xuất- nhập
khẩu, khuyến khích kinh tế ngoài quốc doanh tham gia xuất - nhập khẩu, hỗ trợ các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, bảo đảm sự bình đẳng trong việc tiếp cận các nhân tố đầu
vào (vốn, tín dụng, đất đai, lao động) cũng như trong việc nhận hỗ trợ đầu tư, kinh
doanh từ phía Nhà nước.
5. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại theo hư-
ớng xoá bỏ các thủ tục phiền hà, và phấn đấu ổn định môi trường pháp lý để tạo tâm
lý tin tưởng cho các doanh nghiệp, khuyến khích họ chấp nhận bỏ vốn đầu tư lâu dài.
Phấn đấu làm cho chính sách thuế, đặc biệt là chính sách thuế xuất nhập khẩu có định
hướng nhất quán để không gây khó khăn cho doanh nghiệp trong tính toán hiệu quả
kinh doanh. Giảm dần, tiến tới ngừng áp dụng các lệnh cấm, lệnh ngừng nhập khẩu
tạm thời. Tăng cường tính đồng bộ của cơ chế chính sách, áp dụng thí điểm mô hình
liên kết 4 bên trong xây dựng các đề án phát triển sản xuất và xuất khẩu (doanh
nghiệp liên kết với trường, viện nghiên cứu, các tổ chức tài chính và các cơ quan
quản lý nhà nước).
6. Tiếp cận các phương thức kinh doanh mới như buôn bán trên thị trường giao
dịch hàng hoá (Commodity Exchange), trong đó có thị trường hàng hoá giao ngay và
thị trường kỳ hạn (Future, Forward, Options) để vừa trực tiếp tham gia điều tiết giá
quốc tế, vừa tận dụng được tính chất phòng ngừa rủi ro của các thị trường này. Từ
nay đến năm 2010 phấn đấu hình thành thị trường giao ngay và thị trường kỳ hạn tại
Việt Nam đối với một số mặt hàng xuất khẩu quan trọng (có thể lấy gạo hoặc cà phê
làm thí điểm). Cần đặc biệt lưu tâm tiếp cận và phát triển thương mại điện tử, trong
đó có việc tạo dựng khung pháp lý cho hình thức thương mại đặc thù này.
7. Điều hành lãi suất, tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt để vừa bảo đảm sự ổn
định kinh tế- xã hội trong nước, vừa có lợi cho xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu.
IV. Về hội nhập quốc tế
1. Tạo dựng sự nhất trí cao, quyết tâm lớn trong việc hội nhập vào nền kinh tế
khu vực và quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ
nghĩa để giành những ưu đãi về thương mại, từ đó mở rộng thị trường, tiêu thụ sản
phẩm, thúc đẩy sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động.
2. Xây dựng một lộ trình hợp lý, phù hợp với điều kiện của ta và với cam kết
quốc tế về giảm quan thuế, thuế hoá đi đôi với việc xoá bỏ hàng rào phi quan thuế, áp
dụng chế độ đãi ngộ quốc gia, lịch trình bảo hộ... công bố công khai để các ngành có
hướng bố trí sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh. Điều cấp bách là xây đựng lộ
trình tổng thể tham gia AFTA, đi đôi với việc tích cực, chủ động xây dựng lộ trình
đàm phán với WTO. Thể theo các lộ trình đó, có chương trình điều chỉnh, sửa đổi,
xây dựng các văn bản pháp quy tương ứng.
3. Chủ động thay đổi về căn bản phương thức quản lý nhập khẩu. Tăng cường
sử dụng các công cụ phi thuế như các hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, môi
trường... , hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đối, thuế mùa vụ, thuế chống phá giá,
chống trợ cấp. Giảm dần tỷ trọng của thuế nhập khẩu trong cơ cấu nguồn thu ngân
sách. Cải cách biểu thuế và cải cách công tác thu thuế để giảm dần, tiến tới xoá bỏ
chế độ tính thuế theo giá tối thiểu.
4. Tích cực xúc tiến việc xếp sắp lại các doanh nghiệp, đổi mới công nghệ,
phương thức quản lý để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của từng ngành hàng,
công bố lộ trình rõ ràng cho việc dỡ bỏ hàng rào bảo hộ, khắc phục triệt để những bất
hợp lý trong chính sách bảo hộ, cân đối lại đối tượng bảo hộ theo hướng trước hết
chú trọng bảo hộ nông sản.
5. Tận dụng các thể chế ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và kém phát
triển trong đàm phán song phương và đa phương, cùng các nước đang phát triển đấu
tranh cho lợi ích của các nước nghèo. Nắm bắt và tận dụng xu thế "khu vực hoá" để
bắt tay với từng thị trường (hoặc khu vực thị trường) riêng lẻ, vừa tạo thị trường xuất
khẩu ổn định, vừa làm quen dần với hội nhập kinh tế toàn cầu (WTO).
6. Nhà nước tăng cường phổ biến kiến thức cho xã hội về hội nhập. Các doanh
nghiệp chủ động tích cực tìm hiểu để tận dụng những thuận lợi mới do quá trình hội
nhập đem lai đồng thời ứng phó thắng lợi với những thách thức nảy sinh.
V. Về đào tạo cán bộ
Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới và khu vực (như Nhật Bản,
Singapore... ) cho thấy công tác đào tạo là một trong những nhân tố quyết định thành
công đối với sự phát triển của đất nước. Ngày nay, nhân tố này lại càng có ý nghĩa
quan trọng trong bối cảnh nền kinh tế tri thức đang hình thành và ảnh hưởng sâu rộng
tới tư duy quản lý, tư duy kinh tế và phương thức sản xuất, kinh doanh. Vì vậy để
thực hiện thành công những mục tiêu chiến lược đã đề ra, vấn đề tạo dựng được một
đội ngũ cán bộ, doanh nhân có năng lực và một đội ngũ công nhân lành nghề tham
gia công tác xuất nhập khẩu đóng vai trò hết sức quan trọng.
Có thể nói tư duy kinh doanh, nghiệp vụ và phương thức kinh doanh của các
doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung mới ở trình độ thấp, có khoảng cách khá xa so
với trình độ thế giới. Hơn thế nữa, với mục tiêu chiến lược là tăng trưởng xấp xỉ 14%
năm thì nhu cầu về công nhân lành nghề (may mặc, lắp ráp điện tử, cơ khí... ) sẽ rất
lớn. Cứ xuất khẩu 1 tỷ USD hàng may mặc hoặc giày dép thì cần tới 300. 000-400.
000 công nhân, cứ xuất khẩu 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ thì cần thêm 3000-
4000 công nhân... Vì vậy, song song với việc đào tạo một đội ngũ cán bộ, đội ngũ
doanh nhân có năng lực, Việt Nam phải chú trọng tạo dựng một đội ngũ công nhân
đủ về số lượng, thạo về tay nghề để thực hiện chiến lược xuất nhập khẩu.
Nhà nước cần nghiên cứu tổ chức những lớp đào tạo và bồi dưỡng giám đốc để
hình thành dần đội ngũ doanh nhân có năng lực, có khả năng xử lý linh hoạt, đồng
thời cần có chính sách khuyến khích doanh nhân giỏi, đặc biệt là trong khu vực
doanh nghiệp nhà nước. Nếu cần, có thể xem xét lại chế độ tiền lương cho người
đứng đầu các doanh nghiệp Nhà nước.
VI. Tổ chức thực hiện
Để thực hiện thành công những mục tiêu chiến lược đã đề ra, cần tiến hành các
biện pháp sau:
1. Các Bộ, ngành và các địa phương cần sớm hình thành chiến lược phát triển
xuất khẩu của ngành và địa phương mình.
2. Tăng cường và làm sáng rõ hơn trách nhiệm và mối quan hệ phối hợp giữa
các Bộ và các địa phương trong các khâu quy hoạch, tổ chức sản xuất, tổ chức tiêu
thụ. Xem xét khả năng xây dựng một số chương trình xuất khẩu trọng điểm với sự
tham gia của các bộ, ngành, địa phương hữu quan với một cơ quan chỉ đạo tập trung.
Tăng cường quan hệ hợp tác, phối hợp giữa các Bộ với các tổ chức đại diện doanh
nghiệp (như Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các Hiệp hội ngành
hàng... ).
3. Xây dựng đề án cải tiến một cách cơ bản và tăng cường mạnh mẽ công tác
thông tin dự báo và thông tin thị trường để giúp các cơ quan nhà nước xây dựng quy
hoạch, hình thành chính sách, điều hành, các doanh nghiệp kinh doanh, trong đó có
việc hiện đại hóa hệ thống thông tin thương mại trong cả nước.
4. Củng cố hệ thống xúc tiến thương mại (ở cả Trung ương và địa phương),
trong đó có việc hình thành và phát triển Cục Xúc tiến Thương mại, cơ quan chịu
trách nhiệm xây dựng khung pháp lý và thực hiện sự quản lý nhà nước, điều hòa,
phối hợp công tác xúc tiến thương mại trong cả nước. Từng bước hình thành các
trung tâm thương mại Việt Nam ở nước ngoài. Ban hành quy chế thưởng cho các cá
nhân, doanh nghiệp mở rộng được thị trường, tìm thêm được đối tác. Tạo điều kiện
và hỗ trợ cho các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt trong việc thành lập
các trung tâm thương mại, kho ngoại quan... để giới thiệu, đưa nguyên liệu, hàng hóa
sang và tổ chức sản xuất hàng hóa xuất khẩu ngay tại thị trường đó.
5. Mở rộng việc hình thành và củng cố vai trò của các hiệp hội ngành hàng để
tăng cường tính tổ chức và tính tập thể trong môi trường cạnh tranh. Khắc phục xu
hướng "quốc doanh hóa hiệp hội", khẳng định nguyên tắc cơ bản của các hiệp hội là
nguyên tắc"mở", quy tụ tất cả các doanh nghiệp có chung quyền lợi, bất kể thành
phần kinh tế, bất kể quy mô. Khuyến khích các hiệp hội tự thành lập quỹ phòng ngừa
rủi ro và tham gia các hiệp hội ngành hàng quốc tế để phối hợp hành động, ổn định
giá cả.
6. Sớm hoàn thiện Quỹ Hỗ trợ tín dụng Xuất khẩu theo đúng các tiêu chí của
Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (1998) để trợ giúp các doanh nghiệp có tiềm
năng thông qua việc cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh tiền vay và cấp tín
dụng qua việc cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh tiền vay và cấp tín dụng xuất
khẩu cho người mua nước ngoài, tiến tới thành lập Ngân hàng Xuất Nhập khẩu.
Nghiên cứu thành lập Quỹ hoặc Công ty Bảo hiểm Xuất khẩu để bảo hiểm rủi ro
thanh toán khi tiếp cận các thị trường mới. Khuyến khích các hiệp hội ngành hàng tự
hình thành các quỹ bảo hiểm đề phòng rủi ro, kể cả trong trường hợp giá thị trường
thế giới biến động. Nhà nước có chính sách thưởng cho các doanh nghiệp, cá nhân
làm tốt công tác xuất khẩu.
7. Thiết kế mạng lưới các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài, kể cả
Tham tán thương mại phục vụ thiết thực cho việc mở rộng quan hệ kinh tế và thị trư-
ờng tiêu thụ sản phẩm, tăng cường trách nhiệm của các bộ phận đó đối với việc cung
cấp thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm bạn hàng. Khuyến khích và hỗ trợ cho
các doanh nghiệp mở văn phòng đại diện ở bên ngoài để tiếp thị, xúc tiến xuất khẩu.
8. Hình thành mạng lưới người Việt sinh sống ở nước ngoài làm đại lý tiêu thụ
hàng hóa cho Việt Nam.
9. Lập chương trình đào tạo cán bộ, công nhân lành nghề phục vụ cho hoạt
động xuất - nhập khẩu thời gian tới.
Mục lục
Lời nói đầu ......................................................................................................... 2
Chương I: Đánh giá tổng quát hoạt động xuất - nhập khẩu thời kỳ 1991-
2000 ................................................................................................. 3
I. Những thành tựu đã đạt được ............................................................................. 3
II. Những vấn đề tồn tại ............................................................................................. 4
Chương II: Định hướng phát triển xuất - nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 ....... 7
I. Tình hình trong nước, thế giới và những thuận lợi, khó khăn đặt ra cho
hoạt động xuất nhập khẩu .................................................................................... 7
1. Về thuận lợi: .................................................................................................... 8
2. Về khó khăn, thách thức:................................................................................ 8
II. Mục tiêu và quan điểm phát triển xuất - nhập khẩu ......................................... 9
III. Các chỉ tiêu cụ thể ............................................................................................... 12
1. Về quy mô và tốc độ tăng trưởng .................................................................. 12
2. Về cơ cấu hàng hóa xuất - nhập khẩu và cơ cấu dịch vụ ........................... 14
3. Về thị trường xuất - nhập khẩu .................................................................... 27
Chương III: Hệ thống các chính sách và biện pháp hỗ trợ để thực hiện định
hướng phát triển xuất nhập khẩu 2001-2010 ............................. 33
I. Chính sách đầu tư và chuyển đổi cơ cấu hàng hóa - dịch vụ .......................... 33
1. Về hàng hóa ................................................................................................... 33
2. Về dịch vụ ...................................................................................................... 35
II. Các giải pháp về thị trường ................................................................................ 36
III. Hoàn thiện môi trường pháp lý và đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách
xuất - nhập khẩu ................................................................................................. 38
IV. Về hội nhập quốc tế ............................................................................................. 40
V. Về đào tạo cán bộ ................................................................................................ 41
VI. Tổ chức thực hiện ................................................................................................ 42
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 61012_2633.pdf