Giải pháp tăng doanh thu tại Công ty cổ phần giầy Thăng Long

Trong những năm qua, Công ty Cổ phần Giầy Thăng Long đã không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa mẫu mã, chủng loại sản phẩm, đầu tư máy móc thiết bị tiên tiến, đào tạo tay nghề cho người lao động, tìm các nguyên vật liệu đầu vào với giá rẻ để tạo ra những sản phẩm có mẫu mã đẹp, chất lượng đáp ứng nhu cầu của thị trường. Mặt khác, Công ty đã có nhiều biện pháp thực hiện tiết kiệm chi phí sản xuất đã góp phần không nhỏ vào kết quả sản xuất, kinh doanh của công ty.

doc34 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2972 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp tăng doanh thu tại Công ty cổ phần giầy Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năng tiêu thụ sản phẩm. Các kỹ thuật chủ yếu được áp dụng bao gồm: +Quảng cáo, giới thiệu sản phẩm: Do quảng cáo có hiệu quả, doanh nghiệp cần chú ý lựa chọn phương tiện quảng cáo, vị trí đặt quảng cáo, thời điểm và hình thức quảng cáo sao cho thu hút sự chú ý của khách hàng. Quảng cáo phải hấp dẫn, độc đáo có lượng thông tin cao, đồng thời phải đảm bảo tính trung thực.Chi phí quảng cáo thường khá lớn bởi vậy các doanh nghiệp cần phải nghiêm túc tính toán chi phí và hiệu quả mang lại của quảng cáo. +Tham gia hội chợ, triển lãm kinh tế kỹ thuật: Tại hội chợ, triển lãm, khả năng thu hút khách hàng đông hơn và nhiều tầng lớp khác nhau. Khả năng tiếp xúc giao dịch và ký hợp đồng cũng được mở rộng hơn. Để việc tham gia hội chợ thu được kết quả cao, các doanh nghiệp cần chuẩn bị chu đáo cho các khâu như: Chọn sản phẩm tham gia, loại và địa điểm hội chợ, các điều kiện về đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất kỹ thuật và các điều kiện cần thiết khác. +Tổ chức tiếp xúc với khách hàng thông qua việc mở các giải thưởng, tặng quà, tổ chức hội nghị khách hàng. +Cung cấp các dịch vụ sau bán hàng như: hoạt động bảo hành sản phẩm hướng dẫn khách hàng sử dụng sản phẩm, cung ứng các phụ tùng thay thế… 1.3.6 Chủ động mở rộng thị trường tìm kiếm khách hàng mới. Muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, một doanh nghiệp không thể bằng lòng với những khách hàng hiện tại mà phải chủ động tìm kiếm thị trường mới, khách hàng mới. Bộ phận khách hàng tiềm năng này sẽ tạo cho doanh nghiệp một cơ hội để tăng doanh thu lên gấp nhiều lần mở rộng khả năng phát triển mới cho các doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào là người đầu tiên khai thác vào bộ phận khách hàng tiềm năng sẽ không có đối thủ cạnh tranh và có khả năng mở rộng nhanh chóng thị trường của mình. Quá trình thâm nhập vào thị trường mới đòi hỏi doanh nghiệp phải nghiên cứu lý tưởng về đặc điểm của thị trường, đặc điểm của khách hàng. Doanh nghiệp cần biết những đặc điểm chính mà thị trường yêu cầu về sản phẩm về số lượng người mua, người bán tham gia vào thị trường, vị trí địa lý của thị trường, hệ thống thông tin, tình hình an ninh trật tự…Các thông tin hữu ích này sẽ giúp doanh nghiệp dự toán được chính xác về những yêu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm để có chiến lược và biện pháp cụ thể. 1.3.7 Tăng cường công tác quản lý lao động, vật tư hàng hoá và tiền vốn. Trên cơ sỏ nhu cầu cong tác ở doanh nghiệp cần tuyển dụng và bố trí cán bộ công nhân viên hợp lý, phù hợp với trình độ và khả năng của từng người nghiên cứu xác định mức lương thoả đáng, chế độ thưởng phạt rõ ràng, công bằng trên cơ sỏ đó thực hiện nghiêm kỷ luật lao động. Tổ chức quản lý chặt chẽ vật tư, thành phẩm, hàng hoá, thực hiện tốt việc phân công, phân cấp quản lý trên cơ sở đó phát hiện kịp thời những vật tư kém, mất phẩm chất, giảm hao hụt, đảm bảo an toàn vật tư thành phẩm, hàng hoá về cả số lượng lẫn chất lượng… Mặt khác, cần tổ chức quản lý chặt chẽ tiền mặt, vốn trong thanh toán, tích cực đôn đốc đối chiếu và thu hồi công nợ dây dưa, nợ khó đòi, khoản lỗ ngoài doanh nghiệp. Áp dụng những biện pháp có hiệu quả để không ngừng tăng nhanh vòng quay của vốn. 1.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI KHẢ NĂNG TĂNG DOANH THU CỦA DOANH NGHIỆP. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển như hiện nay, để có thể tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhằm đạt được mức doanh thu mong muốn các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Trong các nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu, có những nhân tố bên trong doanh nghiệp và cũng có những nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. Tất cả những nhân tố đó có thể tác động có lợi hay bất lợi đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 1.4.1 Nhân tố chủ quan. Theo công thức xác định doanh thu hoạt động kinh doanh, ngoài nhân tố thuế ta còn thấy có hai nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu là: Thứ nhất: Khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ. Giả sử trường hợp giá bán không đổi thì khối lượng sản phẩm tiêu thụ có ảnh hưởng trực tiếp đối với doanh thu bán hàng trong kỳ. Sản lượng sản xuất nhiều phù hợp với nhu cầu thị trường thì sẽ tiêu thụ hết. Ngược lại, khối lượng sản xuất ra nhiều vượt quá nhu cầu thị trường cũng gây ra hiện tượng tồn đọng sản phẩm. Do vậy, đối với mỗi doanh nghiệp việc tăng hay giảm khối lượng sản phẩm sản xuất cần phải được xác định trên cơ sở nghiên cứu thị trường và khả năng sản xuất của doanh nghiệp. Như vậy trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi thì khối lượng hàng hoá bán ra tăng lên sẽ làm cho doanh thu tăng và kéo theo lợi nhuận tăng. Do đó khi lập phương án kinh doanh, doanh nghiệp phải lựa chọn mặt hàng kinh doanh phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng để họ đón nhận và chấp nhận thanh toán. Ngoài ra doanh nghiệp cũng còn cần phải lưu ý vấn đề có đủ khả năng về tài chính, nhân lực, kỹ thuật để kinh doanh mặt hàng đó. Thứ hai: Giá bán sản phẩm. Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm hàng hoá và nó biến động xoay quanh giá trị sản phẩm hàng hoá đó, đồng thời biểu hiện tổng hợp các quan hệ kinh tế như cung - cầu hàng hoá, tích luỹ và tiêu dùng, cạnh tranh trên thị trường. Giá cả chính là giá trị tiền tệ của một sản phẩm khi nó được giao dịch trên thị trường, đó là khoản tiền phải bỏ ra để đổi lấy một hàng hoá, hay dịch vụ nhất định. Giá cả sản phẩm có tác động lớn tới quá trình tiêu thụ sản phẩm. Xác định giá cho sản phẩm hay dịch vụ trong kinh doanh có vị trí đặc biệt quan trọng đây là công việc doanh nghiệp không thể làm tuỳ tiện được. Vì thế có thể nói rằng bất cứ một doanh nghiệp nào thực hiện tốt chính sách giá cả sẽ dễ dàng tiêu thụ được sản phẩm, thu được tiền hàng nhanh. Khi một doanh nghiệp định giá bán sản phẩm hay cung ứng dịch vụ phải cân nhắc sao cho giá bán đó có thể đạt được một mức bán nào đó cao nhất có thể. Theo đuổi mục tiêu này các doanh nghiệp thường nghĩ rằng doanh số bán cao sẽ đồng nghĩa với việc lợi nhận cao. Nhưng trên thực tế không phải khi nào doanh số bán cao cũng có nghĩa là lợi nhuận cao, mà đôi khi còn ngược lại. Để tối đa doanh số bán, người ta nghiên cứu mối quan hệ giữa giá cả sản phẩm với lượng bán trên thị trường biểu hiện ở hệ số co giãn của cầu theo giá. Thứ ba: Chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là một yếu tố sống còn đối với cả doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp kinh doanh. Hàng hoá có chất lượng cao thường được bán với giá cao, doanh nghiệp có sản phẩm tốt, người tiêu dùng dễ chấp nhận mua. Trên thị trường có rất nhiều sản phẩm cùng loại, người tiêu dùng không chỉ lựa chọn hàng có giá rẻ mà còn lựa chọn những hàng có chất lượng tốt. Do đó, chất lượng hàng hoá là nhân tố kích thích tiêu thụ và mở rộng thị phần trong cạnh tranh với các đối thủ khác. Thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cho thấy cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm luôn là cạnh tranh sắc bén có hiệu quả và lâu bền nhất, chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng giá trị sản phẩm cũng như uy tín cho doanh nghiệp. Bên cạnh việc cần đảm bảo chất lượng tốt thì đổi mới sản phẩm cũng là một vấn đề cần quan tâm. Nếu doanh nghiệp đổi mới sản phẩm thành công sẽ tạo ra nhu cầu mới cho người tiêu dùng, sản phẩm đó sẽ thay thế rất nhanh chóng những sản phẩm khác, khi đó doanh nghiệp sẽ tăng doanh thu. Thứ tư: Kết cấu hàng hoá tiêu thụ. Kết cấu sản phẩm tiêu thụ là tỷ trọng về từng loại sản phẩm chiếm trong tổng số sản phẩm sản xuất, tiêu thụ. Kết cấu mặt hàng tiêu thụ thay đổi có thể làm thay đổi doanh thu tiêu thụ. Mỗi loại sản phẩm đều có tác dụng nhất định trong việc làm thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng cao, ngày càng phong phú, do đó để tòn tại và phát triển thì doanh nghiệp phải đưa ra một kết cấu mặt hàng tiêu thụ phù hợp nhất để đáp ứng tối đa nhất nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng, từ đó sẽ làm tăng khối lượng tiêu thụ và làm tăng doanh thu. Nếu doanh nghiệp tăng tỷ trọng bán ra những mặt hàng có giá bán cao, giảm tỷ trọng những sản phẩm có giá bán thấp thì dù tổng khói lượng sản phẩm tiêu thụ và đơn giá không đỏi nhưng tổng doanh thu tiêu thụ sẽ tăng lên và ngược lại. Nhưng dù thay đổi kết cấu mặt hàng tiêu thụ thế nào đi chăng nữa thì cũng phải đảm bảo kế hoạch sản xuất những mặt hàng mà doanh nghiệp đã ký hợp đồng. Thứ năm: Sự phù hợp thị hiếu của người tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường nhu cầu của khách hàng rất đa dạng nhưng họ luôn muốn chọn cho mình một hàng hoá phù hợp với thị hiếu như: mẫu mã, màu sắc, mùi vị…do đó doanh nghiệp cạnh tranh nhau cả về hàng cung ứng phù hợp với thị hiếu của hách hàng. Nếu doanh nghiệp nào làm tốt điều đó sẽ chiếm được thị phần cao và có được doanh thu lớn. Hơn nữa, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện, họ không những đòi hỏi hàng có chất lượng mà còn phải hàng hoá hợp thị hiếu. Ngày nay có những khách hàng sẵn sàng trả giá cao hơn cho mặt hàng hợp thị hiếu của họ. Trước tình hình đó đòi hỏi các doanh nghiệp không ngừng đổi mới sản phẩm trên cơ sở điều tra nhu cầu và thị hiếu mặt hàng và phải sẵn sàng đưa ra thị trường hàng hoá mới để kích thích tác động mở rộng thị trường. Trong kinh doanh, ngoài bán hàng trực tiếp thu tiền ra, việc ký kết hợp đồng tỉêu thụ cần làm rõ nghĩa vụ thanh toán của bên mua hàng. Thanh toán chậm sẽ làm cho vốn của doanh nghiệp chậm thu hồi và thiếu vốn để kinh doanh. Do đó khi ký kết hợp đồng tiêu thụ phải lựa chọn khách hàng có khả năng thanh toán và quy định chặt chẽ các điều khoản thanh toán doanh nghiệp còn phải biết quản lý các khoản thu và chi các hợp đồng thanh toán. Thứ sáu: Kết cấu, mẫu mã hàng hoá. Khi sản xuât, có thể có những mặt hàng sản xuất tương đối giản đơn, chi phí tương đối thấp nhưng giá bán tương đối cao nhưng cũng có những mặt hàng tuy sản xuất phức tạp, chi phí tương đối cao nhưng giá bán lại thấp. Do đó, việc thay đổi kết cấu mặt hàng sản xuất cũng ảnh hưởng đến doanh thu bán hàng. Kết cấu hàng hoá và mẫu mã hàng hoá càng phù hợp với thị hiếu khách hàng, doanh thu càng nhiều. Ngược lại doanh thu sẽ ít. Thứ bẩy: Thể thức thanh toán. Nếu sử dụng các thể thức thanh toán thu được tiền ngay như thanh toán bằng séc, thanh toán bằng uỷ nhiệm chi…doanh nghiệp có thể thu được tiền ngay sẽ giúp doanh nghiệp tăng nhanh vòng quay vốn, khiến doanh thu tăng. Trong những trường hợp nhất định, bán hàng trả chậm cũng giúp doanh nghiệp tăng được doanh thu nhưng mức độ rủi ro cao. Thứ tám: Năng lực của đội ngũ nhân viên bán hàng. Nhân viên bán hàng là cầu nối trực tiếp giữa doanh nghiệp với khách hàng. Họ là người tiếp xúc nhiều nhất với khách hàng, là người đem lại nhiều thông tin nhất cho doanh nghiệp và là lực lượng quan trọng nhất để thực hiện các mục tiêu, các kế hoạch kinh doanh cũng như vấn đề tăng doanh thu của doanh nghiệp. Muốn bán được hàng các doanh nghiệp phải đào tạo bồi dưỡng đội ngũ người bán hàng thực sự chứ không phải những cái máy nói giá, những người đi lấy hàng, gói hàng, đơn thuần. Một nhân viên bán hàng giỏi sẽ làm doanh thu của doanh nghiệp tăng cao và ngược lại. Thứ chín: Hoạt động quảng cáo giới thiệu sản phẩm. Sự phát triển nhanh chóng của nền sản xuất xã hội đã tạo ra một khối lượng sản phẩm lớn và đa dạng ở mức độ cao. Có rất nhiều sản phẩm mới ra đời, nhưng tốc độ tiêu thụ rất chậm vì được ít người tiêu dùng biết đến. Vì vậy hoạt động quảng cáo nhằm giới thiệu với khách hàng về sản phẩm của doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng. Thông qua quảng cáo, các thông tin về sản phẩm cũng như hình ảnh của doanh nghiệp sẽ đến được với người tiêu dùng, từ đó sẽ kích thích họ tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp và nâng cao uy tín của doanh nghiệp. 1.4.2. Nhân tố khách quan. Bên cạnh những nhân tố chủ quan còn có những nhân tố khách quan ảnh hưởng cũng không nhỏ tới doanh thu của doanh nghiệp. Những yếu tố đó bao gồm: Thứ nhất: Thị trường và sự cạnh tranh. Hai yếu tố cung và cầu trên thị trường ảnh hưởng trực tiếp tới khối lượng hàng bán ra của doanh nghiệp. Nếu cung lớn hơn cầu chứng tỏ nhu cầu về hàng hoá được đáp ứng tương đối đầy đủ, sản phẩm đó đã bão hoà trên thị trường. Lúc này việc tăng khối lượng bán ra là rất khó khăn và dẫn đến doanh thu của doanh nghiệp giảm. Ngược lại, trong trường hợp cung nhỏ hơn cầu thì hàng hoá bán ra nhanh hơn, kết quả kinh doanh tốt hơn vì vậy doanh nghiệp phải điều tra tình hình cung - cầu của thị trường để sản xuất với khối lượng vừa đủ. Mặt khác khi nói tới thị trường ta không thể bỏ qua yếu tố cạnh tranh.Cạnh tranh xảy ra giữa các doanh nghiệp cùng bán một loại sản phẩm hoặc các sản phẩm trên thị trường có thể thay thế lẫn nhau làm ảnh hưởng đến việc tiêu thụ.Về chất lượng, mẫu mã, thị hiếu, giá cả, doanh nghiệp nào thoả mãn được yêu cầu của người tiêu dùng sẽ dành được lợi thế. Do đó mỗi doanh nghiệp cần phải nắm vững được thông tin của các nhà cung cấp loại hàng hoá mà mình đang hoặc sẽ kinh doanh để từ đó có đối sách thích hợp. Thứ hai: Chính sách kinh tế của Nhà nước. Doanh nghiệp là đối tượng quản lý của Nhà nước.Chính sách kinh tế của nhà nước có tác động mạnh đến hoạt động kinh doanh ở tầm vĩ mô, do đó chúng có tác động mạnh tới doanh thu, lợi nhuận. Nhà nước tạo môi trường và hành lang cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh và hướng các hoạt động của doanh nghiệp phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong mỗi thời kỳ.Trong đó thuế là một công cụ giúp hữu hiệu Nhà nước thực hiện tốt công việc điều tiết vĩ mô của mình. Thuế gián thu tác động đến giá hàng bán ra cao hay thấp và tác động đến tiêu thụ hàng hoá, ảnh hưởng tới doanh thu. Thuế trực thu làm giảm lợi nhuận để lại cho doanh nghiệp tức là tác động tới tích luỹ của doanh nghiệp. Thứ ba: Sự biến động của giá trị tiền tệ. Khi giá trị đồng tiền thay đổi do lạm phát hay do tỷ giá hối đoái giữa ngoại tệ với đồng tiền trong nước biến động tăng, giảm sẽ ảnh hưởng đến chi phí đầu ra, đầu vào và giá cả thị trường vì thế sẽ tác động đến doanh thu thực tế của doanh nghiệp đạt được. Đối với những doanh nghiệp nhập khẩu yếu tố này lại càng bị ảnh hưởng. Trong trường hợp tỷ giá hối đoái giảm xuống, có nghĩa là đồng tiền bản tệ có giá trị thấp hơn so với đồng tiền ngoại tệ. Nếu không có các yếu tố khác ảnh hưởng sẽ làm cho hàng nhập khẩu đắt hơn. Bởi vì doanh nghiệp nhập khẩu sẽ phải dùng đơn vị đồng tiền nội tệ hơn để mua cùng một khối lượng hành hoá nhập khẩu. Điều này sẽ làm giảm tính cạnh tranh của doanh nghiệp và khi đó doanh thu sẽ cũng giảm theo. Thứ tư: Thu nhập của dân cư và tập quán của người tiêu dùng. Trên thực tế hiện nay, ở mỗi nơi thu nhập của người dân là khác nhau dẫn đến khả năng mua bán khác nhau. Những nơi thu nhập của dân cư cao mức sống của họ cũng cao, còn những nơi thu nhập của dân cư thấp thì mức sống của họ thường cũng thấp. Điều này làm cho doanh thu của doanh nghiệp kinh doanh có ảnh hưởng và có thể nói thu nhập của người dân cao thì doanh nghiệp dễ kinh doanh hơn và có doanh thu cao hơn và ngược lại. Bên cạnh đó đặc điểm về phong tục tập quán cũng ảnh hưởng đến hành vi mua bởi thói quen tiêu dùng ở mỗi vùng khác nhau, tính thời vụ của hàng hoá cũng ảnh hưởng không nhỏ đến doanh thu. Thứ năm: Sự tiến bộ của công nghệ. Doanh nghiệp luôn phải đối đầu với công nghệ. Sự phát triển của công nghệ là một yếu tố góp phần thay đổi phương thức sản xuất, tạo ra nhiều kỹ thuật mới dẫn đến những thay đổi mạnh mẽ. Sự nhậy bén trong thời điểm đổi mới sẽ giúp doanh nghiệp tạo được cơ hội nắm giữ được thị trường không làm giảm lợi nhuận. Ngoài ra, việc tổ chức mạng lưới tiêu thụ và kinh doanh tiêu thụ như: -Tự tổ chức tiêu thụ. -Mạng lưới độc lập -Quảng cáo tiếp thị -Hội nghị khách hàng, chính sách khuyến mại Cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới doanh thu. Chương II : Phân tích và đánh giá thực trạng doanh thu tại Công ty Cổ phần Giầy Thăng Long Khái quát về Công ty Cổ phần Giầy Thăng Long 1.1. Lịch sử hình thành và các giai đoạn phát triển của Công ty: - Tên công ty: Công ty Cổ phần Giầy Thăng Long. - Địa chỉ: Số 411 – Tam Trinh – phường Hoàng Văn Thụ - Hoàng Mai – Hà Nội. - Điện thoại: 04.38621618 - Fax: 04.38623768 - Tên giao dịch: ThangLongShoesCompany ( THASHOCO ) Công ty cổ phần Giầy Thăng Long với gần 20 năm xây dựng và phát triển, đã trải qua không ít những khó khăn, song cũng đạt được nhiều thành tựu, khẳng định thương hiệu của mình trong nước và các nước trên thế giới. Giai đoạn phát triển chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1 ( 1990 – 1992 ): Giai đoạn xây dựng và phát triển sản xuất kinh doanh. Công ty đang hoạt động trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, thêm vào đó năm 1990 các nước Đông Âu và Liên Xô cũ có nguy cơ tan giã, vì vậy, Công ty gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình sản xuất và kinh doanh. Giai đoạn 2 ( 1993 – 2005 ): Giai đoạn đầu tư và mở rộng sản xuất. Công ty thực sự chuyển từ sản xuất kinh doanh từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường. Đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của Công ty theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Giai đoạn 3 ( 2006 – Nay ): Giai đoạn hội nhập và phát triển. Ngày 14/2/2006 Công ty Giầy Thăng Long chính thức chuyển thành Công ty Cổ phần Giầy Thăng Long, từ đây đánh dấu một thời điểm quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển của Công ty từ một doanh nghiệp phần lớn là sản xuất gia công đến nay đã mạnh dạn chuyển đổi hoàn toàn sang hình thức sản xuất theo hình thức mua bán trực tiếp. 1.2. Chức năng, nhiệm vụ, ngành nghề kinh doanh chính của Công ty Theo điều lệ thành lập của Công ty, Công ty Cổ phần Giầy Thăng Long có những chức năng và nhiệm vụ chủ yếu sau đây: Chức năng: Căn cứ vào giấy phép đăng ký kinh doanh và quyết định thành lập Doanh nghiệp của Công ty, Công ty có hai chức năng chủ yếu: Chức năng sản xuất: Sản xuất giầy dép và các sản phẩm khác từ da. Chức năng kinh doanh gia công xuất khẩu và xuất khẩu trực tiếp: Phạm vi kinh doanh xuất khẩu của Công ty là: Gia công xuất khẩu cho các đối tác. Xuất khẩu giầy dép do Công ty sản xuất và nhập khẩu vật tư, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, hoá chất, các sản phẩm phục vụ cho sản xuất. Nhiệm vụ: Là một Công ty kinh doanh trong lĩnh vực hàng tiêu dùng, xuất phát từ chức năng trên, Công ty Giầy Thăng Long có các nhiệm vụ: Thực hiện nghiên cứu khả năng sản xuất, tìm hiểu nhu cầu của thị trường để đưa ra các kiến nghị và đề xuất với Bộ Thương Mại và Nhà Nước giải quyết những vướng mắc, khó khăn trong hoạt động sản xuất – kinh doanh Nghiêm chỉnh tuân thủ theo quy định pháp luật của Nhà Nước về quản lý tài chính, xuất nhập khẩu và giao dịch đối ngoại, thực hiện những cam kết hợp đồng mua bán ngoại thương và các hợp đồng có liên quan khác. Quản lý và sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả các nguồn vốn, đồng thời tự tạo nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy việc đầu tư mở rộng, đổi mới trang thiết bị, tự bù đắp thu chi, tự cân đối giữa xuất nhập khẩu. Tăng cường nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường tiêu thụ đồng thời tăng cường công tác quản lý và đào tạo, giáo dục, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ công nhân viên để theo kịp sự đổi mới của đất nước. Lĩnh vực họat động kinh doanh của Công ty: Sản xuất các sản phẩm từ da, giả da, vải, nhựa, cao su: Sản phẩm chính là giày vải xuất khẩu ( giày basket, giày cao cổ…), giày thể thao, giày vải phục vụ lao động, giày dép giả da, giày dép nam thời trang, sandal và dép đi trong nhà…theo đơn đặt hàng với công ty nước ngoài FOOTTECH, NOVI, YENBONG… Ngoài ra, công ty còn sản xuất các kiểu giày thể thao với mẫu mã đẹp để tiêu thụ trong nước. Kinh doanh dịch vụ thương mại. Kinh doanh xuất - nhập khẩu các mặt hàng Công ty kinh doanh. Đặc điểm về cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý của Công ty 1.3.1 Cơ cấu tổ chức của Công ty Công ty Giầy Thăng Long được tổ chức theo cơ cấu trực tuyến - chức năng nhằm tránh tình trạng tập trung quá mức dẫn đến chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót. Vì vậy, các chức năng quản lý được phân cấp phù hợp cho các Xí nghiệp thành viên. Hệ thống trực tuyến bao gồm: Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, Ban kiểm soát cùng với các quản đốc phân xưởng và các tổ trưởng khác. Hệ thống chức năng bao gồm: Các phòng ban chức năng của Công ty, các phòng ban ( bộ phận ) quản lý xí nghiệp, phân xưởng, tổ, đội. Sơ đồ 1. Tổ chức bộ máy quản trị của Công ty Cổ phần Giầy Thăng Long Hội đồng quản trị Giám đốc Phó giám đốc Sản xuất Phó giám đốc Kinh doanh Phòng Kỹ thuật Phòng Thị trường giao dịch Phòng Xuất - Nhập khẩu Phòng Kế hoạch - Vật tư Phòng Tổ chức hành chính - Bảo vệ Phòng Tài chính – Kế toán Nhà máy Giầy Thái Bình Nhà máy Giầy Chí Linh Trung tâm Sản xuất - Mẫu 1.3.2 Chức năng và nhiệm vụ của các bộ phận trong Công ty. Với các chức năng và nhiệm vụ của Công ty, Công ty đã tiến hành công tác phân quyền, xác định rõ chức năng nhiệm vụ và quyền hạn cho từng cá nhân, các nhà quản trị, các bộ phận phòng ban chức năng, các phân xưởng sản xuất như sau: Hội đồng quản trị: do Đại hội cổ đông bầu ra, toàn quyền nhân danh Công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích và quyền lợi của Công ty. Giám đốc: là người đại diện pháp nhân cao nhất Công ty, chỉ đạo mọi hoạt động sản xuất – kinh doanh và chịu trách nhiệm về mọi họat động của Công ty. Phó Giám đốc: bao gồm Phó Giám đốc kinh doanh và Phó Giám đốc sản xuất, là người giúp Giám đốc trong việc quản lý và ra quyết định cho cấp dưới theo phạm vi quyền hạn của mình, chịu trách nhiệm trước Giám đốc về lĩnh vực sản xuất kinh doanh và điều hành Công ty khi Giám đốc đi vắng, uỷ quyền. Phòng Tài chính - Kế toán: đây là bộ phận tham mưu quan trọng nhất giúp Giám đốc nắm rõ thực lực tình hình tài chính của Công ty nhằm sử dụng đồng tiền và vốn đúng mục đích, sử dụng các chính sách sao cho hợp lý và hiệu quả nhất. Phòng Kế hoạch - Vật tư: có nhiệm vụ khai thác thị trường, xây dựng kế hoạch sản xuất ngắn và dài hạn, xây dựng các định mức tiêu hao nguyên vật liệu… Phòng Tổ chức hành chính - Bảo vệ: có chức năng tham mưu cho Giám đốc về công tác quản lý đội ngũ cán bộ, lao động, tiền lương, hành chính quản trị Phòng Xuất nhập khẩu: có nhiệm vụ giao dịch với các cơ quan, Công ty trong và ngoài nước để thực hiện các hợp đồng mua – bán sản phẩm hàng hoá. Phòng thị trường giao dịch: đảm nhiệm giao dịch với khách hàng về đơn đặt hàng, thủ tục liên quan đến nhập khẩu nguyên vật liệu và xuất khẩu giầy. Phòng Kỹ thuật: đảm nhận việc xác nhận nguyên vật liệu đủ tiêu chuẩn để nhập kho và đi vào sản xuất theo đúng từng đơn đặt hàng, định mức kinh tế - kỹ thuật, hướng dẫn kiểm tra, theo dõi quy trình công nghệ và đối ngoại về công tác kỹ thuật. Trung tâm sản xuất - Mẫu: đây là nơi chuyên sản xuất thử các mẫu giầy mới cho Công ty và sản xuất thử các mẫu giầy theo đơn đặt hàng mới. Nhà máy Giầy Chí Linh: có đầy đủ phòng ban như Công ty nhưng quy mô nhỏ hơn và không có phòng giao dịch với nước ngoài. Các phòng ban có quan hệ bình đẳng, hỗ trợ nhau làm việc với mục đích đem lại lợi ích chung cho Công ty. Xí nghiệp Giầy Thái Bình: có đủ các phòng ban như Nhà máy giầy Chí Linh. Về tài chính, xí nghiệp hạch toán phụ thuộc; về sản xuất, khi có lệnh sản xuất xuất phát từ Công ty, bộ phận kế hoạch vật tư của Công ty sẽ điều chỉnh vật tư. Đặc điểm về quy trình sản xuất của Công ty Kho thành phẩm Đóng thùng Gò mang Gò mũi Bôi keo Vải bạt Cao su, hóa chất Bồi Luyện kín Cắt Cán May Ép đế Kiểm tra Gò hậu Lò hấp Kiểm tra Dán bím Ép đế Gò mang Sơ đồ 2: Quy trình sản xuất và dây chuyền công nghệ. Các công đoạn để sản xuất và hoàn thiện một đôi giầy bao gồm các khâu sau: Phân xưởng chuẩn bị sản xuất: tiếp nhận nguyên vật liệu ở kho. Đảm nhận hai khâu của quy trình sản xuất là bồi và cắt vải. Nguyên vật liệu chủ yếu là vải bạt các màu, phin, xốp… Mặt khác, phân xưởng còn chuẩn bị các khâu: đơn, lắc, lót cổ, pho hậu, pho mũi, lót lưỡi gà, nẹp ô đê..để sản xuất các bộ phận của mũi giầy. Nguyên vật liệu được chuyển đến máy bồi để kết dính vật liệu bằng một lớp keo dính. Các tấm vải sau khi bồi xong thì chuyển sang bộ phận khác. Phân xưởng chuẩn bị bán thành phẩm rồi chuyển sang phân xuởng may đế lắp ráp mũi giầy… Phân xưởng may mũi giầy: đảm nhận sản phẩm của phân xưởng chuẩn bị chuyển sang và tiến hành may các bộ phận mũi giầy hoàn chỉnh. Quá trình may qua nhiều thao tác kỹ thuật khó: can, đấu góc, kẻ chỉ, may nẹp và mũi…Phân xưởng còn làm các khâu: đấu hậu, rập ô đê, đường viền… Mũi giầy được kiểm hoá từng đôi, đạt yêu cầu thì mới chuyển sang phân xưởng giầy để gò thành giầy hoàn chỉnh. Phân xưởng cán – ép cao su: có nhiệm vụ chế biến hoá chất, sản xuất đế giầy bằng cao su. Phân xưởng sử dụng nguyên liệu là cao su và các hoá chất. Sản phẩm của phân xưởng là cao su tinh và thô được chế biến theo tiêu chuẩn lý hoá và mẫu mã nhất định, sau đó đưa qua máy cán và đưa vào chặt thành xoài liền và xoài rời…sau đó ép đế giầy, ép xoải các loại vải, cuối cùng chuyển cho phân xưởng giầy. Phân xưởng gò và hoàn thiện giầy: là khâu cuối cùng của quy trình công nghệ, sản phẩm của khâu này là hoàn chỉnh giầy thành phẩm. Sau khi nhận được các sản phẩm từ phân xưởng may và cán ép cao su chuyển sang, cùng với các nguyên liệu phụ khác như: dây giầy, xăng, dây gai, giấy lót giầy…đi qua dây chuyền sản xuất liên tục bao gồm: chuẩn bị keo, gò mũi, gò mang, ép đế, dám bím, kiểm tra, kiểm hoá, đóng gói… thì sẽ hoàn thành quy trình sản xuất và tạo ra giầy thành phẩm. 1.5. Đặc điểm về nhân lực của Công ty Lao động là một trong những yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất. Muốn cho mọi hoạt động sản xuất đạt hiệu quả cao, cần phải hình thành một cơ cấu lao động tối ưu trong doanh nghiệp. Cơ cấu lao động tối ưu khi lực lượng lao động đảm bảo đủ số lượng, chất lượng, giới tính và lứa tuổi, đồng thời được phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác giữa các bộ phận và các cá nhân với nhau, đảm bảo mọi người đều có việc làm, mọi khâu, mọi bộ phận đều có người phụ trách và sự ăn khớp, đồng bộ trng từng đơn vị và trên phạm vi toàn doanh nghiệp. Cơ cấu lao động tối ưu là cơ sở để đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành cân đối, nhịp nhàng liên tục, là cơ sở để đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Bảng 1: Tình hình lao động của Công ty giai đoạn 2008 – 2010 Năm Chỉ Tiêu 2008 2009 2010 So sánh 2009/2008 So sánh 2010/2009 SL TL % SL TL % SL TL % Số tuyệt đối % Số tuyệt đối % Tổng số lao động 1.375 100 1.283 100 1.325 100 -92 - 6,7 42 3,3 1. Phân theo chức năng. - Lao động trực tiếp 1.168 84,96 1.064 82,93 1.132 85,43 - 104 - 8,9 68 6,4 - Lao động gián tiếp 207 15,05 219 17,07 193 14,57 12 5,8 -26 -11,9 2. Phân theo giới tính - Nam 347 25,22 250 19,49 293 22,11 -97 - 27,9 43 17,2 - Nữ 1.028 74,78 1.033 80,51 1.032 77,89 5 0,5 -1 -0,09 3. Phân theo trình độ - Trên đại học 4 0,29 6 0,47 6 0,45 2 50 0 0 - Đại học và cao đẳng 167 12,15 157 12,24 168 12,68 -10 6 11 7 - Trung cấp 42 3,05 37 2,88 32 2,42 -5 -11,9 -5 -13,5 - Phổ thông 1.162 84,51 1.083 84,41 1.119 84,45 -79 -6,8 36 3,3 4. Phân theo độ tuổi - Trên 45 tuổi 126 9,16 101 7,87 101 7,62 -25 -19,8 0 0 - Từ 35 đến 45 tuổi 237 17,24 212 16,52 210 15,85 -25 -10,5 -2 -0,9 - Từ 25 đến 35 tuổi 488 35,5 513 39,98 510 38,49 25 5,1 -3 -0,6 - Dưới 25 tuổi 524 38,11 457 35,62 504 38,04 -67 -12,8 47 10,28 Nguồn: Phòng Tổ chức hành chính của Công ty Cổ phần Giầy Thăng Long. Nhận xét: Dựa vào bảng trên ta thấy: - Tổng số lao động của Công ty không ổn định do điều kiện của môi trường kinh doanh không ổn định. Từ năm 2008 đến năm 2009, số lao động của Công ty giảm 92 người do bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tác động và phải cắt giảm số người lao động. Tuy nhiên, từ năm 2009 đến 2010 lại tăng thêm 42 người. Phân theo chức năng: lao động trực tiếp (85%) và lao động gián tiếp (15%) Phân theo giới tính: lao động nam và nữ. Dựa vào bảng trên ta thấy được sự chênh lệch về giới tính rõ ràng.Tỷ lệ lao động nữ luôn chiếm 70 – 80 % so với lao động nam do kỹ năng công việc đòi hỏi sự tỷ mỉ và khéo léo. Phân theo trình độ: trên Đại học, Đại học – Cao đẳng, Trung cấp, Phổ thông ( lao động Phổ thông chiếm tỷ trọng lớn 85% – đây là đội ngũ công nhân làm việc trong các phân xưởng sản xuất ). Lực lượng lao động của Công ty hiện nay tuổi đời còn khá trẻ, bình quân từ 22 – 28 tuổi, được đào tạo tại chỗ dựa trên những kinh nghiệm đã được đúc kết trong quá trình sản xuất. Lực lượng lao động của Công ty đến từ nhiều nơi khác nhau và đòi hỏi là những người có hiểu biết, am hiểu về lĩnh vực Da Giày. Thực trạng kinh doanh và kết quả kinh doanh của Công ty Cổ phần Giầy Thăng Long 2.1. Tình trạng vốn và nguồn vốn kinh doanh của Công ty: Hiện nay, Công ty phát triển nguồn vốn của mình bằng hai nguồn chủ yếu là: Nguồn vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh: đây là nguồn vốn tự cấp được lấy ra từ lợi nhuận, quỹ khuyến khích phát triển sản xuất và khoản tiền khấu hao để lại Công ty phục vụ cho sự tăng trưởng và tái đầu tư vào tài sản cố định. Nguồn vốn bên ngoài: nguồn này được thực hiện qua vay vốn từ Ngân hàng, từ các hãng và các tổ chức tín dụng khác…thông qua việc liên doanh, liên kết, hợp tác kinh tế cũng như nguồn vốn tự huy động từ đội ngũ CBCNV trong Công ty. Bảng 2. Cơ cấu vốn của Công ty từ năm 2008 – 2010 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 So sánh tăng, giảm 2009/2008 So sánh tăng, giảm 2010/2009 Số lượng Tỷ trọng % Số lượng Tỷ trọng % Số lượng Tỷ trọng % Số tuyệt đối % Số tuyệt đối % Tổng vốn 51.585 100 58.740 100 64.413 100 7.155 13,87 5.673 9,66 Chia theo sở hữu - Vốn chủ sở hữu 28.098 54,47 32.603 55,5 36.088 56,03 4.505 16,03 3.485 10,69 - Vốn vay 23.487 45,53 26.137 44,5 28.325 43,97 2.659 11,32 2.188 8,37 Chia theo tính chất - Vốn cố định 30.264 58,67 28.804 49,03 31.640 49,12 - 1.460 - 4,82 2.836 9,85 - Vốn lưu động 21.321 41,33 29.936 50,97 32.773 50,88 8.615 40,41 2.837 9,48 Nguồn: Phòng Tài chính Kế toán của Công ty Cổ phần Giầy Thăng Long Nhận xét: Theo nguồn hình thành: Phần nguồn vốn của Công ty được kết cấu bởi 2 khoản mục lớn là: vốn chủ sở hữu và vốn vay. Vốn chủ sở hữu: Phần vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, bao gồm số vốn chủ doanh nghiệp bỏ vào đầu tư kinh doanh và phần hình thành từ kết quả hoạt động kinh doanh. Đây là nguồn vốn quan trọng thể hiện tính tự chủ về mặt tài chính của doanh nghiệp.Nhìn vào bảng số liệu ta thấy, tổng số vốn kinh doanh của Công ty tăng tương đối nhanh qua các năm. Năm 2010 là năm Công ty có tổng số vốn lớn nhất, tăng 5.673 triệu đồng so với năm 2009. So sánh thời kỳ năm 2009/2008 , vốn chủ sở hữu của Công ty tăng 4.505 triệu đồng ( khoảng 16,03 % ),tuy nhiên thời kỳ 2010/2009 giảm chỉ còn 3.485 triệu đồng ( khoảng 10,69 % ) do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế. Vốn vay: Vốn vay của Công ty qua 3 năm có tỷ trọng ngày càng giảm, tuy nhiên không đáng kể, xấp xỉ 1% mỗi năm. Dù sao, đây cũng là một xu hướng tích cực cho Công ty trong các năm tới. => Qua đây, ta thấy được Công ty ngày càng chủ động được nguồn vốn của mình, ít phải dựa vào các nguồn lực ở bên ngoài. Theo tính chất: Do Công ty Cổ phần Giầy Thăng Long là công ty hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nên tỷ lệ vốn cố định và vốn lưu động trong tổng vốn qua các năm luôn có sự thay đổi. So sánh qua các thời kỳ, ta nhận thấy: Vốn cố định năm 2009 giảm 1.460 triệu đồng so với năm 2008, do Công ty không có kế họach đầu tư vào máy móc thiết bị và cơ sở vật chất. Tuy nhiên, năm 2010 đã tăng 2.836 triệu đồng do đầu tư vào dây chuyền sản xuất mới ( khoảng 9,85 % ) so với năm 2009. Vốn lưu động của Công ty qua các năm đều tăng tuy nhiên tỷ trọng của nó lại thấp hơn vốn cố định. Năm 2009, tổng vốn lưu động là 29.936 triệu đồng, tăng 8.615 triệu đồng so với năm 2008. Sang đến năm 2010 số vốn này tiếp tục tăng thêm 2.837 triệu đồng so với năm 2009 ( tương đương với 9,48 % ) 2.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty Những năm sau khi được cổ phần hoá, Công ty Giầy Thăng Long hoạt động trong lĩnh vực sản xuất giầy dép kinh doanh trong nước và xuất khẩu. Trong thời kỳ hội nhập với rất nhiều khó khăn như: Quy định mới về các rào cản thuế, phi thuế quan; Ảnh hưởng từ sự kiện các Công ty Da Giầy Việt Nam bị kiện bán phá giá vào EU; Thay đổi về chính sách xuất nhập khẩu của các quốc gia; Ảnh hưởng từ khủng hoảng thế giới…Mặc dù vậy, với sự lãnh đạo tài tình của các nhà quản trị cùng với sự cố gắng và nỗ lực của toàn bộ CBCNV, Công ty đã đạt được những kết quả sản xuất kinh doanh rất đáng khích lệ, góp phần khẳng định vị thế của mình trong công nghiệp sản xuất giầy dép. Thị trường của Công ty ngày càng được mở rộng. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty ngày một tăng cao, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động, ổn định thu nhập, và tạo điều kiện cho họ được yên tâm sản xuất. Bảng 3: Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty qua 3 năm 2008 – 2010 STT Các chỉ tiêu chủ yếu Đơn vị tính Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 So sánh tăng, giảm 2009/ 2008 So sánh tăng, giảm 2010/ 2009 Số tuyệt đối % Số tuyệt đối % 1 Giá trị tổng sản lượng theo giá cố định Triệu đồng 71.647 70.541 72.320 -1106 -1,54 1.779 2,51 2 Doanh thu tiêu thụ theo giá hiện hành Triệu đồng 75.512,7 74.211,4 76.466,5 -1.301,2 98,28 2.255,11 3,04 3 Tổng số lao động Người 1.375 1.283 1.325 -92 -6,69 42 3,27 4 Tổng vốn kinh doanh bình quân Triệu đồng 51.585 58.740 64.413 7155 13,87 5.673 9,66 4a. Vốn cổ định bình quân Triệu đồng 30.264 28.804 31.640 -1460 -4,83 2.836 9,84 4b. Vốn lưu động bình quân Triệu đồng 21.321 29.936 32.773 8615 40,41 2.837 9,48 5 Lợi nhuận Triệu đồng 3.864,73 3.670,25 4.145,12 -194,5 -5,03 474,87 12,94 6 Nộp ngân sách Nhà Nước Triệu đồng 1.186 1.160 1.207 -26 -2,19 47 4,05 7 Thu nhập bình quân 1 người/tháng Triệu đồng 1,2 1,35 1,5 0,15 12,5 0,15 11,11 8 Năng suất lao động bình quân Triệu đồng 4,34 4,58 4,55 0,24 5,23 -0,03 -0,05 9 Tỷ suất lợi nhuận/ Doanh thu tiêu thụ Chỉ số 0,051 0,049 0,054 -0,002 -3,92 0,005 10,2 10 Tỷ suất lợi nhuận/ Vốn kinh doanh Chỉ số 0,075 0,062 0,064 -0,013 -17,33 0,002 3,22 11 Số vòng quay vốn lưu động Vòng 3,54 2,48 2,33 -1,06 -29,94 -0,15 -6,05 12 Mối quan hệ giữa tốc độ tăng W và tăng V Chỉ số 3,61 3,4 3,03 -0,21 -5,82 -0,37 -10,8 Nguồn : Phòng Tài chính Kế toán của Công ty Cổ phần Giầy Thăng Long Nhận xét : Doanh thu tiêu thụ theo giá cố định : Từ năm 2008 sang năm 2009, do doanh thu xuất khẩu ( DTXK) giảm nhẹ ( 4,59%), nhưng bù vào đó, doanh thu nội địa lại tăng lên 20,17% nên tổng doanh thu năm 2009 giảm ít so với năm 2008 là 1,72%. Năm 2010, cả doanh thu xuất khẩu và nội địa đều tăng ( tương ứng 0,78% và 16,72% ) so với năm 2009. Do đó, tổng doanh thu của Công ty năm 2010 đã tăng 3,04% so với năm 2009. Giá trị tổng sản lượng theo giá cố định qua các năm có sự biến động do sự tăng giảm của doanh thu. Năm 2009, giá trị tổng sản lượng theo giá cố định giảm 1,54 % ( 1.106 triệu động ) so với năm 2008, năm 2010 tăng 2,51 % ( 1.779 triệu đồng ) so với năm 2009 do quy mô Công ty ngày càng mở rộng Lợi nhuận: Nhờ tiết kiệm chi phí đầu vào, giảm chi phí lưu thông…nên lợi nhuận của Công ty vẫn đảm bảo và giữ ở mức cao. Năm 2009, do doanh thu giảm nên lợi nhuận đã giảm khoảng 5,03% ứng với 194,5 triệu đồng so với năm 2008. Tuy nhiên, năm 2010 lợi nhuận của Công ty đã tăng 12,94% ứng với 474,87 triệu đồng so với năm 2009 hay hiệu quả kinh doanh năm 2010 cao hơn năm 2009. Lao động và tiền lương: Tổng lao động của Công ty không đều nhưng thu nhập bình quân tăng qua các năm, từ 1.200.000 đồng/người lên 1.500.000 đồng/ người. Công ty đã đảm bảo thu nhập và ổn định đời sống cho người lao động. Một phần do biến động của sản lượng sản xuất và doanh thu, phần khác do thuế suất thu nhập DN năm 2008 và 2009 là 28% , nhưng sang năm 2010 thuế suất chỉ có 25% nên khoản tiền nộp Ngân sách Nhà Nước của Công ty không ổn định. Cụ thể: năm 2008, Công ty đã đóng góp vào nguồn thu Ngân sách Nhà Nước là 1.186 triệu đồng, năm 2009 là 1.160 triệu đồng, giảm 2,19% so với năm 2008, năm 2010 là 1.207 triệu đồng, tăng lên 4,05 % so với năm 2009. Số vòng quay vốn lưu động của Công ty năm 2009 giảm 1,06 vòng so với năm 2008, 2010 giảm 0,15 vòng so với năm 2009, chứng tỏ Công ty vẫn chưa sử dụng vốn một cách thực sự hiệu quả trong các khâu của quá trình sản xuất và kinh doanh. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu tiêu thụ năm 2008 đạt 0,051 và năm 2009 giảm chỉ còn 0,049 ( giảm 0,002). Tuy nhiên, năm 2010 đã tăng so với năm 2009 là 0,054 ( tăng 0,005 ). Có sự tăng giảm này là do có nguyên nhân khách quan gây nên ( chịu sự tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới ). Trong năm 2010,rất nhiều doanh nghiệp đã phải đống cửa, bị phá sản…Tất cả nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, dịch vụ đều tăng giá, dẫn đến chi phí tăng, mà giá bán sản phẩm không thể tăng nhiều vì khách hàng cũng đều trong cơn bão khủng hoảng, nếu tăng giá quá cao sẽ dẫn đến mất khách hàng. Chi phí tăng cao hơn mức tăng giá bán sản phẩm dịch vụ nên lợi nhuận giảm là điều không tránh khỏi. 2.3 Các nhân tố làm ảnh hưởng tới việc tăng, giảm doanh thu: 2.3.1 Những mặt hàng bán ra: Mặt hàng giầy dép của Công ty chủ yếu dùng cho xuất khẩu, phần tiêu dùng nội địa không nhiều. Hàng năm, lượng giầy dép xuất khẩu bình quân chiếm hơn 90% tổng sản lượng giầy dép tiêu thụ ( giầy dép tiêu thụ nội địa khoảng 10% ). Sản lượng cũng như kim ngạch xuất khẩu của Công ty qua thời gian có sự thay đổi đáng kể không chỉ về số tuyệt đối mà cả về tốc độ. Hiện nay, các mặt hàng giầy dép xuất khẩu của Công ty Cổ phần Giầy Thăng Long bao gồm: Giầy vải ( Giầy nam, Giầy nữ ); Giầy thể thao; Giầy có mũ từ da; Sandal và dép đi các loại Bảng 4: Tổng hợp kết quả xuất khẩu theo chủng loại giầy dép ( 2008 – 2010 ) Năm Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 So sánh SL ( Đôi ) TT ( % ) SL ( Đôi ) TT ( % ) SL ( Đôi ) TT ( % ) 09/08 10/09 1. Giầy vải 1.128.010 72,19 910.220 72,04 992.690 72,31 80,69 109,06 - Giầy nữ 1.035.340 66,26 836.680 66,22 916.710 66,78 80,81 109,57 - Giầy nam 92.670 5,93 73.540 5,82 75.980 5,53 79,37 103,32 2. Giầy thể thao 241.720 15,47 191.040 15,12 209.350 15,25 79,03 109,58 3. Giầy mũ da 111.880 7,16 87.810 6,95 82.640 6,02 78,49 94,11 4. Saldal và dép 80.930 5,18 82.020 5,89 88.140 6,42 101,35 107,46 5. Tổng cộng 1.562.540 100 1.263.490 100 1.372.820 100 80,86 108,65 Nguồn : Phòng kế hoạch và thị trường của Công ty Cổ phần Giầy Thăng Long Nhận xét chung : Từ số liệu trong bảng 4 trên ta có thể thấy rằng : - Sản lượng giầy dép xuất khẩu của Công ty qua các năm không ổn định là do nhu cầu tiêu dùng và thẩm mỹ của khách hàng thường xuyên thay đổi, ảnh hưởng đến đơn đặt hàng của đối tác về các loại giầy dép khác nhau. Xét về tỷ lệ xuất khẩu của từng mặt hàng trong tổng sản lượng xuất khẩu không thay đổi lớn nhưng sản lượng từng mặt hàng riêng biệt lại có sự thay đổi tăng giảm theo sự biến động của tổng sản lượng giầy dép xuất khẩu. Sản lượng giầy dép xuất khẩu đạt cao nhất vào năm 2008 ( 1.562.540 đôi ). Năm 2009 giảm so với năm 2008 là 299.050 đôi ứng với 19,14%. Năm 2010, nhờ sự cố gắng hết mình của Công ty, sản lượng xuất khẩu đã tăng lên so với năm 2009 là 109.330 đôi ứng với 8,65%. Tuy nhiên trước những khó khăn chung của ngành giầy dép xuất khẩu Việt Nam, Công ty vẫn chưa phục hồi như năm 2008. - Phân tích cụ thể tình hình xuất khẩu giầy dép theo từng nhóm sản phẩm giầy dép xuất khẩu của Công ty Cổ phần Giầy Thăng Long trong giai đoạn 2008 – 2010 như sau : Giầy vải : Do nhu cầu tiêu dùng của thị trường tăng và do Công ty luôn chú trọng phát triển nên giầy vải là mặt hàng có tỷ trọng lớn nhất trong tổng sản lượng giầy dép XK của Công ty ( bình quân 72,18%/năm ). Năm 2009, sản lượng giầy vải XK giảm 19,31% ứng với 217.790 đôi so với năm 2008, nhưng năm 2010 đã tăng lên 9,06% ứng với 82.470 đôi so với năm 2009. Hiện nay, do xu thế phát triển thời trang và nhu cầu thẩm mỹ của khách hàng ngày càng cao nên yêu cầu về chất lượng, mẫu mã giầy vải cao hơn nhiều so với trước đây, đặc biệt là các loại giầy vải thời trang. Do đó, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của giầy vải, Công ty cần tập trung khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có, đồng thời đổi mới dây chuyền sản xuất giầy. Từ bảng số liệu ta thấy, loại giầy vải XK nhiều nhất là giầy nữ. Hàng năm lượng giầy nữ XK bình quân là 980.000 đôi/năm, đem lại KNXK lớn. Trong khi đó, giầy nam chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số lượng giầy XK của Công ty ( bình quân 80.730 đôi/năm ). Giầy có mũ từ da giảm mạnh : Đây là mặt hàng bị đánh thuế chống bán phá giá và không được hưởng ưu đãi thuế quan ( GSP ) khi nhập khẩu vào EU, cùng với việc giầy mũ da chỉ được XK chủ yếu theo hình thức gia công nên tỷ trọng XK của giầy mũ da liên tục giảm mạnh trong ba năm qua ( từ 7,16% năm 2008 xuống còn 6,95% năm 2009 và chỉ còn 6,02% năm 2010 ). Về sản lượng giầy mũ da XK cũng giảm dần qua các năm. Cụ thể : năm 2009 giảm 21,51% ứng với 24.070 đôi so với năm 2008, năm 2010 tiếp tục giảm 5,89% ứng với 5.170 đôi so với năm 2009. Giầy thể thao : Sản lượng giầy thể thao xuất khẩu biến động tăng giảm theo tổng sản lượng giầy dép xuất khẩu của Công ty. Cụ thể : Năm 2009 sản lượng giầy thể thao xuất khẩu giảm 20,97% ứng với 50.680 đôi so với năm 2008, nhưng năm 2010 đã tăng lên 9,58% ứng với 18.310 đôi so với năm 2009. Hiện nay, các đối tác của Công ty đã chuyển hướng sang đặt sản xuất giầy thể thao công nghệ cao hay các loại giầy khác có mũ từ giả da nhằm tránh bị ảnh hưởng của việc EU áp thuế. Sandal và dép các loại tăng nhanh với nhiều mẫu mã đa dạng, phong phú : Trong những năm qua, Công ty đã chú trọng phát triển nhiều mặt hàng sandal và dép đi các loại làm phong phú và đa dạng thêm các sản phẩm giầy dép XK của Công ty. Mặc dù chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng sản lượng giầy dép xuất khẩu của Công ty ( bình quân 5,83%/năm ) nhưng về sản lượng xuất khẩu mặt hàng này liên tục tăng trưởng qua các năm. Cụ thể : Năm 2009 tăng 1,53% ứng với 1.090 đôi so với năm 2008, năm 2010 tiếp tục tăng 7,46% ứng với 6.120 đôi so với năm 2009. 2.3.2 Thực trạng chính sách giá giầy dép xuất khẩu của Công ty trong thời gian qua Trong những năm gần đây, Công ty đã chú trọng xây dựng chính sách giá giầy dép xuất khẩu để đảm bảo mức giá xuất khẩu mang tính cạnh tranh cao trên thị trường thế giới so với giầy dép xuất khẩu khác cùng loại, đồng thời đảm bảo giá xuất khẩu phù hợp với năng lực và quy mô của Công ty. Chính sách giá giầy dép xuất khẩu của Công ty được xây dựng căn cứ vào những yếu tố ảnh hưởng đến giá xuất khẩu như: Chi phí ( nhân tố quyết định hình thành giá cả ). Điều kiện thị trường ( nhu cầu ). Sự cạnh tranh. Ảnh hưởng của chính trị, pháp luật. Chính sách của Công ty và Marketing hỗn hợp ( trước khi quyết định giá cho một sản phẩm xuất khẩu, Công ty phải có chính sách riêng đó là xuất khẩu nhằm mục tiêu gì) … Hiện nay, do thiếu thông tin về khả năng và sức mua của người tiêu dùng – khách hàng tại thị trường nước ngoài, nên chính sách giá giầy dép xuất khẩu của Công ty xác định dựa trên cơ sở chi phí và giá cả của đối thủ cạnh tranh trong nước. Đây là phương pháp đơn giản và phù hợp với tình hình của Công ty hiện nay. Phương pháp định giá này đảm bảo tính công bằng và hợp lý, bằng cách lấy giá thành cộng với các khoản chi phí khác cho hoạt động xuất khẩu và cộng với mức kê lời để cho ra giá xuất khẩu. Dưới đây là bảng doanh thu xuất khẩu và giá bán theo doanh thu xuất khẩu ứng với từng loại giầy dép của Công ty trong giai đoạn 2007 – 2009: Bảng 5: Doanh thu xuất khẩu và giá xuất khẩu của một số sản phẩm chính ( ĐVT: USD/đôi ) Năm Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 So sánh giá DTXK Giá DTXK Giá DTXK Giá 09/08 10/09 1. FOB 1.989.462 1.944.507 2.255.662 - Giầy vải 1.207.686 3,51 1.294.824 4,00 1.409.929 3,69 113,96 92,25 - Giầy thể thao 718.308 4,63 597.871 4,76 788.194 5,51 102,81 115,76 - Sandal, dép 63.468 2,02 51.812 2,03 57.539 2,00 100,50 98,52 2. Gia công XK 1.720.125 1.594.938 1.311.484 - Giầy vải 1.117.327 1,43 1.114.925 1,90 860.752 1,41 132,87 74,21 - Giầy thể thao 235.454 2,72 183.343 2,80 176.217 2,66 102,94 95,00 - Giầy mũ da 307.410 2,75 235.373 2,68 202.614 2,45 97,45 91,42 - Sandal, dép 59.934 1,21 61.297 1,25 71.901 1,22 103,31 97,60 3. Tổng cộng 3.709.587 3.539.445 3.567.146 Nguồn: Phòng xuất nhập khẩu của Công ty Cổ phần Giầy Thăng Long. Nhận xét: Từ bảng doanh thu xuất khẩu và đơn giá trên ta thấy giá xuất khẩu một số loại giầy dép của Công ty có sự biến động qua các năm. Cụ thể như sau: Đơn giá FOB: tương đối cao. Cụ thể: Giầy vải ( 3,5 – 4 USD/đôi ); Giầy thể thao ( 4,6 – 5,6 USD/đôi); Sandal và dép ( 2 USD/đôi ). Do đó, doanh thu XK trực tiếp luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng DTXK của Công ty ( 57,27%/ năm). Hơn nữa, do Công ty luôn tăng cường đẩy mạnh XK trực tiếp => tỷ trọng DTXK trực tiếp ngày càng gia tăng trong tổng DTXK của Công ty. Từ bảng trên ta thấy, năm 2009 so với năm 2008, hầu hết các loại giầy dép đều tăng giá: Giầy vải tăng 0,49 USD/đôi ứng với 13,96% ; Giầy thể thao tăng 0,13 USD/đôi ứng với 2,81%; Sandal và dép tăng 0,01 USD/đôi ứng với 0,5%. Tuy nhiên sang năm 2010, chỉ có mặt hàng giầy thể thao là tăng 0,75 USD/đôi ứng với 15,76% so với năm 2009, còn các mặt hàng giầy dép khác đều giảm: Giầy vải giảm 0,31 USD/đôi ứng với 7,75% ; Sandal và dép giảm 0,03 USD/đôi ứng với 1,48% so với năm 2009. Công ty có định hướng giảm nhẹ giá các mặt hàng này xuống trong những năm tiếp theo nhằm tăng sức cạnh tranh cho giầy dép xuất khẩu so với các đối thủ khác trong và ngoài nước. Đơn giá gia công xuất khẩu: tương đối thấp. Cụ thể như sau: Giầy vải ( 1,4 – 1,9 USD/đôi); Giầy thể thao ( 2,6 – 2,8 USD/đôi ); Giầy có mũ từ da ( 2,4 – 2,7 USD/đôi ); Sandal và dép ( 1,23 USD/đôi/năm). Chính vì đơn giá thấp nên DTXK theo hình thức gia công chỉ chiếm bình quân 42,73%/năm trong tổng DTXK của Công ty. Từ bảng trên ta thấy, giá gia công XK biến động qua các năm. Các loại giầy như: giầy vải, giầy thể thao, sandal và dép đều có giá năm 2009 cao hơn năm 2008. Sang năm 2010, hầu hết các mặt hàng đều giảm giá gia công. Cụ thể từ năm 2009 sang năm 2010: Giầy vải giảm 0,49 USD/đôi ứng với 25,79%; Giầy thể thao giảm 0,14 USD/đôi ứng với 5%; Sandal và dép giảm 0,03 USD/đôi ứng với 2,4%. Riêng mặt hàng giầy mũ da thì liên tục giảm giá gia công qua các năm ( từ 2,75 USD/đôi xuống 2,45 USD/đôi). Tình trạng bị khách hàng ép giá thành phẩm đã có từ lâu, nhưng trước khi xảy ra suy thoái kinh tế thì do đơn hàng dồi dào nên không bị ảnh hưởng nhiều. Tuy nhiên, nhiều khách hàng của Công ty hiện nắm được tình hình tiêu thụ tại EU khi chịu ảnh hưởng bởi việc gia hạn thuế chống bán phá giá lên giầy mũ da và việc không được hưởng GSP nên đã mạnh tay ép giá. Trong khi giá nguyên liệu chủ yếu nhập khẩu thì không đổi nhưng giá gia công lại đang bị khách hàng ép giá xuống thấp, điều nay đã ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của Công ty. 2.3.2 Thị trường tiêu thụ  4. Một số kết quả đạt được trong những năm qua và phương hướng nhiệm vụ trong thời gian tới: 4.1. Kết quả đạt được Trong những năm qua, Công ty Cổ phần Giầy Thăng Long đã không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa mẫu mã, chủng loại sản phẩm, đầu tư máy móc thiết bị tiên tiến, đào tạo tay nghề cho người lao động, tìm các nguyên vật liệu đầu vào với giá rẻ…để tạo ra những sản phẩm có mẫu mã đẹp, chất lượng đáp ứng nhu cầu của thị trường. Mặt khác, Công ty đã có nhiều biện pháp thực hiện tiết kiệm chi phí sản xuất đã góp phần không nhỏ vào kết quả sản xuất, kinh doanh của công ty. Bảng 1: Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty qua 3 năm 2008 – 2010 Stt Các chỉ tiêu chủ yếu Đvt Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 So sánh tăng, giảm 2009/ 2008 So sánh tăng, giảm 2010/ 2008 Số tuyệt đối % Số tuyệt đối % 1 Giá trị tổng sản lượng theo giá cố định Triệu đồng 71.647 70.541 72.320 -1106 -1,54 1.779 2,51 2 Doanh thu tiêu thụ theo giá hiện hành Triệu đồng 75.512,7 74.211,4 76.466,5 -1.301,2 98,28 2.255,11 3,04 3 Tổng số lao động Người 1.375 1.283 1.325 -92 -6,69 42 3,27 4 Tổng vốn kinh doanh bình quân Triệu đồng 51.585 58.740 64.413 7155 13,87 5.673 9,66 5 Lợi nhuận Triệu đồng 3.864,73 3.670,25 4.145,12 -194,5 -5,03 474,87 12,94 6 Nộp ngân sách Nhà Nước Triệu đồng 1.186 1.160 1.207 -26 -2,19 47 4,05 7 Thu nhập bình quân 1 người/tháng Triệu đồng 1,2 1,35 1,5 0,15 12,5 0,15 11,11 Phương hướng nhiệm vụ trong thời gian tới Căn cứ vào mục tiêu chiến lược của toàn ngành và của Công ty Cổ phần Giầy Thăng Long; căn cứ vào thực trạng tình hình phát triển sản xuất kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây, cũng như căn cứ vào những bước đầu nghiên cứu thị trường, Công ty đã xác định định hướng kế hoạch cho những năm tới: Khẳng định quan điểm hướng xuất khẩu với phương hướng chuyển mạnh từ gia công sang mua nguyên liệu, bán thành phẩm, đảm bảo nâng cao thành quả, tăng nhanh tích lũy, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu. Tăng cường tìm kiếm các nguyên vật liệu, thay thế các nguyên vật liệu ngoại nhập, tìm kiếm nguồn cung cấp nguyên liệu trong nước với giá rẻ, ổn định, đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề của Công ty, đảm bảo tiếp thu nhanh chóng sự chuyển dịch sản xuất, sự chuyển giao công nghệ…từ các nước phát triển, phấn đấu làm chủ trong sản xuất, không lệ thuộc vào đối tác nước ngoài. Cần chú trọng đầu tư chiều sâu để cân đối lại các dây chuyền sản xuất cho đồng bộ, bổ sung các thiết bị lẻ thay thế các thiết bị đã quá cũ, lạc hậu, cải tạo nâng cấp một số thiết bị, đổi mới công nghê… Công ty có định hướng như vậy nhằm tăng sản lượng, năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, mở rộng mặt hàng, khắc phục ô nhiễm môi trường…. Giữ vững danh hiệu Doanh nghiệp dệt may tiêu biểu nhất của ngành giầy da Việt Nam, xây dựng công ty trở thành trung tâm thời trang của Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbao_cao_thuc_tap_giai_phap_tang_doanh_thu_9978.doc
Luận văn liên quan