Luận văn Chính sách tiền tệ và vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của Ngân hàng trung ương
          
        
            
               
            
 
            
                
                    Việc chuyển đổi từ việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ trực tiếp sang gián 
tiếp là một xu thế tất yếu. Có thể nói, không có một khuôn mẫu nào có thể áp dụng thống 
nhất cho các nước mà tuỳ theo tình hình và điều kiện cuả mỗi nước để đưa ra một lộ trình 
phù hợp. Tuy nhiên, để có thể sử dụng được các công cụ mang tính thị trường thì điều kiện 
tiên quyết là phải phát triển thị trường, tạo ra định giá thực sự man g tính thị trường không có 
sự can thiệp hành chính. Muốn có một thị trường phát triển phải có sự chuẩn bị kỹ càng về 
cơ sở vật chất, con người.
Nền kinh tế của ta đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức của nhu cầu mở cửa và 
hội nhập. Một chính sách tiền tệ cứng nhắc và kém hiệu quả sẽ không đảm bảo cho nó tránh 
được những ảnh hưởng mạnh mẽ từ thị trường bên ngoài. Hơn nữa sau mười năm đổi mới và 
những cải cách mạnh mẽ trong lĩnh vực Ngân hàng, những hoạt động cho phép sử dụng cơ 
chế điều chỉnh gián tiếp đang dần được hình thành, hứa hẹn một khả năng chắc chắn cho sự 
chuyển đổi cơ chế điều tiết lượng tiền cung ứng.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 21 trang
21 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3152 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách tiền tệ và vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của Ngân hàng trung ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Chính sách tiền tệ và vai trò 
điều tiết kinh tế vĩ mô của Ngân 
hàng trung ương 
Chương I 
Chính sách tiền tệ và vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô 
của Ngân hàng trung ương 
 I Chính sách tiền tệ 
1. Thực chất về chính sách tiền tệ 
Hoạt động của ngân hàng liên quan đến sự ổn định hay thay đổi của tiền tệ về lưu 
lượng ,chi phí và giá trị.Vì những thay đổi nói trên tác động đến giá cả hàng hoá và giá trị tài 
tài sản ,thu nhập của nhân dân.Cho nên nó làm chuyển biến mức sống của họ giữa hai thái 
cực khó khăn đắt đỏ ,thuận lợi và tiện nghi.Do đó bằng cách tạo ra các biến động về tiền tệ 
người ta có thể hoàn toàn hướng dẫn những biến động nhất định trong đời sống kinh tế của 
một quốc gia .Mối quan hệ ấy đã làm cho những biến động về tiền được gọi là chính sách 
tiền tệ.Ngân hàng trung ương thực hiện chính sách tiền tệ thông qua các công cụ của mình 
để kiểm soát và điều tiết lượng tiền cung ứng nhằm đạt được các mục tiêu lớn của kinh tế vĩ 
mô là ổn định giá cả ,tăng trưởng kinh tế ,đảm bảo công ăn việc làm.Qua ví dụ sau ta có thể 
thấy tác động của chính tiền tệ đối với nền kinh tế . 
 Giả sử rằng vận tốc quay vòng của đồng tiền không đổi , giá của những chiếc bánh 
của nền kinh tế tạo ra sẽ phụ thuộc lượng bánh sẽ được sản suất ra và khối lượng tiền do 
Ngân hàng trung ương cung ứng .Cho rằng nền kinh tế chỉ sản suất ra độc nhất 1 loại hàng 
hoá là bánh và 1 năm tạo được 10 bánh .Nếu Ngân hàng trung ương cung ứng vào nền kinh 
tế là 20 đồng tiền thig giá mỗi chiếc bánh sẽ là 2 đồng . Bây giờ gải sử năm sau nền kinh tế 
tạo ra đến 20 bánh ,nếu ngân hàng trung ương không phát hành thêm tiền thì chỉ có 20 đồng 
tương ứng với 20 bánh .Bánh trở nên thừa và sự thiếu tiền sẽ làm cho chỉ cần 1 đồng đã đổi 
được 1 bánh.Giá cả của bánh bây giờ 1 tiền so với thời điểm trước giá đã tụt xuống hay 
không còn ổn định nữa. 
 Trong trường hợp Ngân hàng trung ương muốn giữ cho giá ổn định ở mức 2 đồng 
1 chiếc bánh thì cần phải phát hành thêm tiền để tương nứng với lượng bánh mới tăng thêm 
là 10 chiếc,10 chiếc bánh mới cũng có giá trị là 2 đồng /chiếc nên ngân hàng TW phải cung 
ứng thêm 20 đồng .Lúc ấy tổng số tiền cung ứng là 40 đồng ,tổng sản phẩm là 20 bánh,khi 
đó giá mỗi chiếc bánh sẽ ổn định ở mức 2 đồng . 
 Trong trường hợp ngược lại khi bánh giảm xuống còn 5 chiếc để giá cả không đổi 
với mức 2 đồng / 1 bánh thì lượng tiền cung ứng tối đa không quá 10 đồng .Nghĩa là Ngân 
hàng trung ương phải rút bớt tiền về thông qua hệ thống các công cụ của mình khi số lượng 
sản phẩm được tạo ra trong nền kinh tế giảm đi. 
 Chính sách tiền tệ được biểu hiện dưới hai hình thức đó là chính sách tiền tệ thắt 
chặt và chính sách tiền tệ nới lỏng.Tuỳ thuộc vào từng thời kỳ cụ thể mà Ngân hàng trung 
ương thực hiện 1 trong 2 chính sách trên. 
2.Chính sách tiền tệ ở Việt Nam 
 ở nước ta luật ngân hàng nhà nước Việt Nam qui định: 
 Chính sách tiền tệ quốc gia là bộ phận của chính sách kinh tế tài chính của nhà 
nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền,kiềm chế lạm phát ,góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế 
xã hội ,đảm bảo quốc phòng an ninh và nâng cao đời sống nhân dân.Quốc hội quyết định và 
giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia ,mức lạm phát dự kiến hàng năm trong 
mối tương quan với ngân sách nhà nước và mức tăng trưởng kinh tế .Chính phủ xây dựng dự 
án chính sách tiền tệ quốc gia ,mức lạm phát dự kiến hàng năm trình quốc hội quyết định ,tổ 
chức thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia ,quyết định lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu 
thông hàng năm.Trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia của mình Ngân hàng nhà 
nước có trách nhiệm điều hành các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia .Thực hiện 
việc đưa tiền ra lưu thông ,rút tiền từ lưu thông về theo tín hiệu của thị trường trong phạm vi 
lượng cung ứng tiền đã được chính phủ phê duyệt . 
II.Các công cụ điều tiết của chính sách tiền tệ 
1.Các công cụ truyền thống của các nước trên thế giới 
1.1 Công cụ trực tiếp :Công cụ trực tiếp là công cụ tác động trực tiếp vào khối lượng tiền 
trong lưu thông công cụ trực tiếp dược áp dụng phổ biến là hạn mức tín dụng.Hạn mức 
tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng trung ương buộc các tổ chức tín dụng phải 
tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế .Mức dư nợ được qui định cho từng ngân hàng 
tuỳ thuộc đặc điểm kinh doanh của từng NH.Công cụ này thường được sử dụng trong 
trường hợp lạm phát cao nhằm khống chế ngay lập tức khối lượng tín dụng cung ứng 
.Trong trường hợp khi các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu quả do thị trường tài 
chính tiền tệ chưa phát triển hoặc mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với sự biến động của 
lãi suất hay Ngân hàng trung ương không có khả năng khống chế và kiểm soát được sự 
biến động của lượng vốn khả dụng của hệ thống NHTM thì công cụ hạn mức tín dụng là 
cứu cánh của ngân hàng Trung ương trong viẹc điều tiết lượng tiền cung ứng .Tuy nhiên 
hiệu quả của công cụ này không cao bởi nó thiếu tính linh hoạt và đôi khi đi ngược lại 
chiều hướng biến động củ thị trường tín dụng do đó đẩy lãi suất lên cao hoặc làm giảm 
cạnh tranh của các ngân hàng thương mại 
1.2 Công cụ gián tiếp: Công cụ gián tiếp là nhóm công cụ tác động trước hết vào mục tiêu 
hoạt động của chính sách tiền tệ thông qua cơ chế thị trường mà các tác động này được 
truyền đến các mục tiêu trung gian là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất .Thuộc về 
mhóm công cụ này gồm: 
-Dự trữ bắt buộc: 
 DTBB là số tiền mà các ngân hàng thương mại phải duy trì trên 1 tài khoản tiền gửi 
không hưởng lãi tại Ngân hàng trung ương ,được xác định bằng 1 tỷ lệ phần trăm nhất 
định.Tỷ lệ DTBB được quản lý theo nguyên tắc bình quân.Khi ngân hàng TW nâng tỷ lệ dự 
trữ bắt buộc khả năng cho vay và khả năng thanh toán của ngân hàng bị thu hẹp khối lượng 
tín dụng trong nền kinh tế sẽ giảm .Ngược lại nếu ngân hàng trung ương hạ thấp tỷ lệ dự trữ 
bắt buộc thì cung về tín dụng của các NHTM cũng tăng lên ,khối lượng tín dụng và khối 
lượng thanh toán có xu hướng tăng lên đồng thời tăng xu hướng mở rộng tiền khối lượng 
tiền .Do tính chất và tác dụng như vậy nên tại các nước Ngân hàng trung ương có quy định 
phân biệt tỷ lệ DTBB cho từng loại tiền gửi theo nguyên tắc : Tiền gửi tiết kiệm có tỷe lệ 
DTBB thấp nhất sau đó đến tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn tỷ lệ cao nhất 
- Chính sách tái chiết khấu: 
 Chính sách tái chiết khấu bao gồm các quy định về điều kiện cho vay của ngân 
hàng TW đối với các ngân hàng thương mại trên cơ sở chiết khấu các giấy tờ có giá ngắn 
hạn thông qua lãi suất tái chiết khấu.Lãi suất có 2 tác dụng đó là tác dụng trực tiếp và tác 
dụng gián tiếp .Tác dụng trực tiếp là nó làm tăng giảm lãi suất cho vaycủa NHTM do đó tác 
động đến cung ứng tiền và tín dụng.Tác động gián tiếp nó làm tăng hoặc giảm dự trữ của 
ngân hàng .Do vậy tác động đến lượng cho vay tiêu dùng và đầu tư trong nền kinh tế . 
-Nghiệp vụ thị trường mở: 
 Nghiệp vụ thị trường mở là các hoạt động của ngân hàng trung ương trên thị trường 
mở thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá,Các hoạt động này làm ảnh hưởng trực tiếp 
đến dự trữ của các ngân hàng thương mại và ảnh hưởng truực tiếp đến các mức lãi suất .Khi 
ngân hàng thương mại mua (bán) các giấy tờ có giá nó sẽ làm giảm(tăng )ngay lập tức dự trữ 
cuả các ngân hàng thương mại vì thế khả năng tạo tiền thông qua cung ứng tín dụng của hệ 
thống ngân hàng giảm xuống ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng .Đây là công cụ điều tiết 
các mục tiêu trung gian rất có hiệu quả vì nó rất linh hoạt và chủ động.Tuy nhiên để sử dụng 
nó có hiệu quả càn phải có 1 thị trường vốn thứ cấp và thị trường tiền tệ phát triển. 
2.Các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt nam 
Để thực hiẹn chính sách tiền tệ quốc gia ngân hàng nhà nước Việt Nam sử dụng các công cụ 
như : 
- Công cụ lãi suất 
- Tỷ giá hối đoái 
- Dự trữ bắt buộc 
- Nghiệp vụ thị trường mở 
- Công cụ tái cấp vốn bao gồm: 
1.Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng 
2.Chiết khấu,tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác . 
3.Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn 
khác. 
- Các công cụ khác do nhà nước qui định . 
Ngân hàng nhà nước xác định và công bố lãi suất cơ bản ,lãi suất tái cấp vốn vàtỷ giá 
hối đoái của đồng Việt nam trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của 
nhà nước . 
 Trong thực hiện dự trữ bắt buộc ngân hàng nhà nước Việt nam qui định tỷ lệ dự 
trữ bắt buộc đối với từng loại hình tổ chức tín dụng và từng loại tiền gửi với mức từ 0-20% 
tổng số dư tiền gửi tại mỗi tổ chức tín dụng trong từng thời kỳ.Việc trả lãi đối với tiền gửi dự 
trữ bắt buộc của tùng loại hình tổ chức tín dụng,từng loại tiền gửi trong từng thời kỳ do 
chính phủ qui định. 
 Ngân hàng nhà nước Việt nam thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc 
mua bán tín phiếu kho bạc,chứng chỉ tiền gửi ,tín phiếu ngân hàng nhà nước và các loại giấy 
tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ. 
 Như vậy so sánh với các công cụ truyền thống của các nước trên thế giới thì ở Việt 
nam còn sử dụng thêm các công cụ bổ trợ là Lãi suất và tỷ giá hối đoái để thực hiên chính 
sách tiền tệ quốc gia. 
III Vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của ngân hàng trung ương 
 Thông qua các công cụ chính sách tiền tệ của mình Ngân hàng trung ương thực hiện 
vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô bằng việc thực thi các chính sách tiền tệ nhằm làm thay đổi 
cung ứng tiền từ đó dẫn đến sự thay đổi về lãi suất ,dự trữ,tỷ giá .Những nhân tố này tác 
động đến đầu tư ,tiêu dùng ,sản lượng công ăn việc làm,giá cả.Như vậy để đạt được đến mục 
tiêu điều tiết cuối cùng thì ngân hàng trung ương phải thực hiện điều tiết các mục tiêu trung 
gian.Trong ngắn hạn lãi suất ,tỷ giá và dự trữ thay đổi ảnh hưởng 1 cách nhanh chóng đến 
tiêu dùng và đầu tư do vậy nó sẽ ảnh huưởmg đến toàn bộ nền kinh tế vĩ mô từ lý do đó mà 
trong ngắn hạn mà chúng được xem là những mục tiêu trung gian 
 Như vậy vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của Ngân hàng trung ương thể hiện ở chỗ 
điều tiết cung ứng tiền phù hợp để thúc đẩy nền kinh tế với những mục tiêu đã đề ra. 
1.Các mục tiêu điều tiết của chính sách tiền tệ 
1.1 Chính sách tiền tệ phải phục vụ cho nền kinh tế có tăng trưởng kinh tế thực tế. 
1.2 Chính sách tiền tệ phải hướng về việc ổn định giá cả. 
1.3 Chính sách tiền tệ phải đảm bảo công ăn việc làm 
1.4 Chính sách tiền tệ phải góp phần liên tục mở rộng sản lượng tiềm năng 
 Làm thay 
 Làm thay đổi đổi 
C
ông 
cụ 
Cung 
ứng 
tiền 
M
L
ãi 
suất 
Đầu tư ,Tiêu 
dùng,sản 
lượng,công ăn 
việc làm 
Mục tiêu 
Hoạt Mục 
Chương 2 
Các giải pháp nhằm chuyển đổi công cụ chính sách tiền tệ từ trực tiếp sang gián 
tiếp ở Việt Nam 
Như đã phân tích ở trê, việc điêu hành chính sách tiền tệ thông qua công cụ trực tiếp 
trong 10 năm qua ở Việt Nam đã đem lại một số thành công nhất định trong việc ổn định vĩ 
mô: Đẩy lùi lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, việc sử dụng các công cụ 
mang tính hành chính là là mang tính tạm thời trong khi Việt Nam chưa hội đủ các điều kiện 
để sử dụng các các gián tiếp dựa vào thị trường. Các công cụ trực tiếp ngày càng tỏ rõ 
những mặt tiêu cực của nó. Thực tế cho thấy, việc chuyển sang sử dụng các công cụ chính 
sách tiền tệ gián tiếp thay cho trực tiếp là một xu hướng tất yếub. Để có thể thực hiện quá 
trình chuyển đổi nàyc, theo em cần thực hiẹn một số giải pháp sau: 
1. Thiết kế các công cụ 
1.1. Dự trữ bắt buộc (DCBB) cần phải áp dụng thống nhất đối với tất cả các tổ chức 
và mọi loại tài sản nợ. Cần cho phép tính toán và áp dụng DTBB bình quân theo chu kỳ, 
thương tính thưo tuần để các Ngân hàng có sự linh hoạt trong việc quản lý vốn kả dụng của 
mình và do đó thúc đẩy sự phát triển của thị trường tiền tệ. Việc không tuân thủ cần bị xử 
phạt nghiêm khắc thể hiện bằng lãi suất phạt áp dụng trên số thiếu hụt bình quân của cả kỳ 
và lãi suất phạt này phải cao nhất so với các mức lãi suất khác. NHTW phải có quyền quy 
định cách thức tính toán và loại tài sản nợ cũng như loại hình tổ chức áp dụng DTBB. 
DTBB không được hưởng lãi có tác động làm tăng chi phí huy động vốn, mức chênh 
lệch lãi suất và do đó tác động tới lãi suất được quy định ở mức rất cao thì sẽ có tác động 
bóp méo như các công cụ trực tiếp, đặc biệt khi không áp dụng đồng đều với tất cả các tổ 
chức. Do đó cần giảm tỷ lệ DTBB khi có các công cụ khác và giữ ở mức độ thấp. Cũng cần 
xem xét trả lãi toàn phần hay một phần do DTBB vượt quá một mức độ nhất định. 
DTBB luôn được hạ thấp một cách dễ dàng nhưng không dễ tăng DTBB vì nó đòi hỏi 
từng Ngân hàng phải có điều chỉnh lớn trong doanh mục đầu tư và do đso DTBB không phải 
là một công cụ linh hoạt. Tuy nhiên DTBB lại rất hữu hệu và cần phải là một trong những 
công cụ của bất kỳ NHTW nào. 
1.2. Hoạt động tái chiết khấu và tái cấp vốn 
Các NHTW thường bắt đầu quá trình cải cách với nhièu thể thức tái cấp vốn, kể cả 
các thể thức doà hạn dành cho các dự án đặc biệt và các tiểu ngành. Lãi suất tái cấp vốn áp 
dụng đối với từng thể thức cũng khác nhau và hiếm khi gắn liền với lãi suất thị trường và 
thường là bao cấp. Các thể thức tái cấp vốn này thường được dùng chủ yếu như là cac công 
cụ tín dụng có lựa chọ hơn là công cụ tiền tệ mặc dù có tác động tổng hể trực tiếp về mặt 
tiền tệ. Các thể thức này buộc NHTW phải tham gia vào việc đưa ra các quyết định vi mô và 
có thể không áp dungj đồng đều đối với mọi Ngân hàng. Đây là công cụ tiền tệ không linh 
hoạt và hầu như hoàn toàn thuộc quyền chủ động của các Ngân hàng thương mại. 
Cần hợp nhất các thể thức tái cấp vốn thành một thể thức với một lãi suất cho vay tía 
cấp vốn duy nhất. Thường cần phải có một thể thức tái chiết khấu chung để cung cấp vốn 
khả dụng cho thị trường và ngăn chặn việc biến động quá mức của lãi suất ngứn hạn, đặc 
biệt là lãi suất liên Ngân hàng. Thể thức này cần áp dụng thống nhất với mọi Ngân hàng và 
cho phép được vay tự động vơí các quy tắc và hạn mức được quy định trước. hạn mức vay 
cần thảo gắn với vốn của Ngân hàng hay tài sản thế chấp. 
Các quy định thời hạn vay vốn tối đa càng ngắn càng tốt để cho phép NHTW chủ 
động thay đổi điều kiện vay khi cần thiết. Một số NHTW quy địn thời hạn vay vốn tối đa 
không quá vài ngày. điều này có nghĩa là các Ngân hàng thương mại muốn sử dụng vốn của 
NHTW lâu hơn thời hạn tối đa phải gia hạn tín dụng ngắn hạn với điều kiện đã thay đôỉ. Đối 
với thể thức tía chiết khấu, biến só chính sách củ chốt là lãi suất chiết khấu (LSCK). Nừu 
không có thị trường tiền tệ phát triển thì có thể phải quy định lãi suất này theo cách hành 
chính. Một số NHTW tổ chức đấu giá tín dụng của NHTW để xác định lãi suất chiết khấu. 
Quy tắc căn bản là phải luôn giữ lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất tiền gửi để vuộc các 
Ngân hàng phải huy đọng tiền gửi trước khi vay vốn của NHTW. Ngay khi có thể, cần đặt 
lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất tham chiếu chuẩn của thị trường tiền tệ. Ngoài thể thức 
cung cấp vốn khả dụng, hầu hết các NHTW còn đóng vai trò người cho vay cuối cùng thông 
qua thể thức cho vay khẩn cấp. Việc sử dụng thể thức vay này có thể bơm vào hệ thống một 
khối công cụ khác và điều quan trọng là thanh tra Ngân hàng cần được báo độngngay khi có 
Ngân hàng sử dụng thể thức này. 
1.3. Tiền gửi có kỳ hạn tại NHTW 
Một số NHTW đã sử dụng thành công tiền gửi có thời hạn để trung hoà vốn khả dụng 
dư thừa. Nừu tiền gửi này khong được rút trước khi đáo hạn thì tác động của nó giống như 
DTBB chỉ khác ở cõ đó là tiền gửi này cần phải đưa ra thời hạn và lãi suất hấp dẫn. Nừu loại 
tiền gửi này có thời hạn tương đôi dài, không được rút trước khi đáo hạn và không chuyển 
nhượg được thì nó có thể là công cụ tương đối hiệu quả để trung hoà vốn khả dụng. 
Khó khăn của công cụ này là làm sao xác định được lãi suất thích hợp và các Ngân 
hàng thường muốn thời hạn tất ngắn. Điều này làm cho việc trung hoà trở nên không chắc 
chắn. Ngoài ra, sau khi NHTW đã xác định lãi suất và thời hạn thì Ngân hàng thương mại có 
toàn quyền chủ động. Một sô NHTW đã sử dụng công cụ này như là bước trong quốc tế phát 
triển thị trường tiền tệ. Bước tiếp theo là chuyển đỏi tiền gửi nàyv thành các chứng chỉ tiền 
gửi có thể chuyển nhượng. 
1.4. Hoạt động thị trường mở thuần tuý 
Hoạt động thị trường mở thuần tuý đòi hỏi phải có thị trường thứ cấp với khối lượng 
giao dịch lớn. Để thực hiện nghiệp vụ này, cả NHTW và Ngân hàng thương mại cần phải 
nắm giữ và sẵn sàng nắm giữ trái phiếu chính phủ và các loại trái phiếu khác có mức rủi ro 
thấp. Bằng việc mua bán trái phiếu hoặc thực hiện các giao dịch mua lại (REPO) NHTW có 
thể điều chỉnh khối lượng vốn khả dụng và lãi suất trên thị trường. Đây là một công cụ kiểm 
soát tiền tệ linh hoạt nhất và hoàn toàn dự trên cơ sở thị trường. Tuy nhiên, nó cũng là công 
cụ mà đa số các nước chưa có được vì chỉ ít quốc gia có thị trường tiền tệ đủ lớn để thực 
hiện các giao dịch này trên quy mô lớn. 
1.5. Hoạt động kiểu thị trường mở 
việc không có thị trường tiền tệ đủ lớn khôg có nghĩa là không thể thực hiện được các 
giao dịch có hiệu ứng tương tự. Ngứòi ta có thể toạ ra các hiệu ứng đó bằng cách thực hiện 
các giao dịch với các tín phiếu ngắn hạn trên thị trường sơ cấp, cụ thể lf sử dụng việc phát 
hành trên thị trường sơ cấp như là một cơ chế bán tín phiếu với giá thị trường. 
Vây nên phát hành trái phiếu Chính phủ hay trái phiếu NHTW. Rõ ràng là nên sử 
dụng trái phiếu Chính phủ do ngân sách trả lãi. NHTW có thể làm địa lý và phát hành trái 
phiếu Chính phủ theo các mục tiêu tiền tệ, đặc điểm là lãi suất thị trường. Nếu việc phát 
hành trái phiếu nhằm phục vụ mục đích tiền tệ thì Chính phủ cần gửi vào tài khảon tại 
NHTW số tiền vượt qúa nhu cầu tài trợ đã định trong chương trình tiền tệ. Nừu Chính phủ 
chi tiền số tiền vượt quá này thì sẽ không được thoã mãn do có trở ngại về mặt pháp lý hoặc 
Chính phủ không muốn trung hoà số tiền này. Do đó, NHTW có thẻ phải phát hành trái 
phiếu hoặc chứng chỉ tiền gửi của NHTW. 
Dù sử dụng loại trái phiếu nào thì bản chất của các hoạt động kiểu thị trường mở vẫn 
là việc bán trái phiếu định kỳ trên thị trường sơ cấp, tốt nhất là thông qua đấy thầu để 
NHTW có được tín hiệu của thị trường. Băng cách việc đấu thầu tín phiếu định kỳ, NHTW 
có thể rút bớt hoặc bơm thêm vốn khả dụng thông qua việc bán khối lượng tín phiếu nhiều 
hơn (ít hơn) so với số tín phiếu đáo hạn. việc bán nhiều hơn hay ít hơn có thể đòi hởi phải có 
sự tăng hay giảm lãi suất. 
Việc xách đinh lãi suất luôn là vấn đề chủ chốt. Trong dầu thầu, NHTW cần phải tiến 
hành xác định lãi suất trên cơ sở khối lượng can thiệp cần thiết để đưa dự trữ của cacs Ngân 
hàng về mức đã định trong chương trình tiền tệ. NHTW cũng cần đảm bảo mức độ ổn định 
lãi suất hơp lý nhằm phát triển thị trường tiền tệ và việc mua bán thị trường thứ cấp. để làm 
được điều đó, NHTW phải quy định lãi suất trần cho mỗi lầm đấu giá. Tuy nhiên, điềud đó 
cũng có nghĩa là NHTW trực tiếp điều hành thị trường tiền tệ. Nừu việc quản lý được thực 
hiện tốt thì sẽ tạo ra được các mức lãi suất minh bạch và được coi là lãi suất trên cơ sở thị 
trường. điều này rất quan trọng vì lãi suất thị trường đáng tin cậy được dùng là lãi suất tham 
chiếu cho các loại lãi suất khác. 
2. Lập chương trình và xác định chỉ tiêu tiền tệ 
 Việc chuyển đổi từ các công cụ trực tiếp sang gián tiếp đòi hỏi phải có sự thay đổi 
khuôn khổ lập chương trình tiền tệ và các chỉ tiêu vận hành. Chỉ tiêu của các công cụ trực 
tiếp là các đại lượng tiền tệ hay lãi suất của toàn hệ thống, còn chỉ tiêu vận hành của các 
công cụ gián tiếp là các đại lượng hạn chế trong bảng cân đối của NHTW mà các công cụ 
này có thể kiểm soát. chỉ tiêu khối lượng có thể là tài sản có trong nước ròng của NHTW, 
tiền dự trữ hay dự trữ vượt mức. Các chỉ tiêu về lãi suất có thể là lãi suất tái chiết khấu hay 
lãi suất tham chiếu của thị trường tiền tệ 
 Việc lập chương trình tiền tệ dựa trên bảng cân đối của NHTW thay cho các đại 
lượng tiền tệ mở rộng xuất phát từ thực tế là trong quá trình chuyển đổi không thể dự báo 
chính xác diễn biến của thị trường do sự gia tăng cạnh tranh và sự linh hoạt của lãi suất. Rõ 
ràng là cần theo dõi một số đại lượng tiền tệ mở rộng nhưng kinh nghiệm cho thấy người ta 
không càn quan tâm đến sự thay đổi vòng quay tiền tệ khi kiểm soát tốt các đại lượng trên 
bảng cân đôí của NHTW. 
Quá trình chuyển đổi cũn đòi hỏi phải lập chương trình tiền tệ cho thưòi kỳ ngắn hạn. 
đối với các công cụ trực tiếp áp dụng trên cơ sở toàn hệ thốg Ngân hàng thf chỉ cần lập 
chương trình hàng quý cho bảng cân đối tiền tệ toàn ngành và sau khi đã công bố các chỉ 
tiêu thì NHTW thường ít phải can thiệp. Việc sử dụng các công cụ thị trường đòi hỏi phải có 
sự thay đổi căn bản do phải đặt r a các chương trình ngắn hạn nhằm thiết lập các chỉ tiêu can 
thiệp của NHTW ít nhất là hàng thàng nếu không là hàng tuần. 
NHTW cần phải phát triển kỹ năng dự báo ngắn hạn để phục vụ cho quy trình ra 
quyết định. Tron gviệc lạp chương trình tiền tệ ngắn hạn, những thay đổi trong số dư của các 
tài khoản của Chính phủ có tầm quan trọng đặc biệt. Những thay đổi này thường nằm ngoài 
sự kiểm soát của NHTW, có quy mô lớn và khó dự báo. Do đó, NHTW cần phối hợp chặt 
chẽ với kho bạc Nhà nước và kho bạc Nhà nước cần phải cải tiến hệ thống quản lý thu chi. 
3. Phát triển thị trường tiền tệ 
Việc sử dụng công cụ gián tiếp đòi hỏi phải có thị trường liên ngân hàng hoặc thị 
trường tiền tệ hoạt động tốt để chắp nối, cân đối cung cầu giữa các tổ chức trong hệ thống và 
để truyền tải hiệu ứng chính sách và tín hiệu lãi suất tới toàn bộ nền kinh tế. Do vậy, cần 
phải thiết lập được thị trường có khả năng tạo ra lãi suất mang tính thị trường, cho phép 
NHTW can thiệp để thực hiện chính sách tiền tệ và các ngân hàng thương mại có cơ chế 
quản lý vốn khả dụng dôi dư một cách tích cực. 
Cần phải nhìn nhận rằng việc phát triển thị trường tiền tệ có chiều sâu như ở Mỹ hoặc 
Anh đòi hỏi phải có thời gian dài và ở nhiều nước là điều không thể thực hiện được. Tuy 
nhiên, mối nước có thể tạo ra các điều kiện cho một thị trường liên ngân hàng cơ sở và phát 
triển thị trường đối với một số loại tín phiếu nhất định. Điều kiện then chốt là việc định giá 
tự do tức là không có sự kiểm soát lãi suất trên thị trường tiền tệ. 
Các điều kiện khác để phát triển thị trường là sự ổn định hợp lý của lãi suất, tính thanh 
khoản cao, rủi ro thấp và khuôn khổ pháp quy thích hợp. Sự ổn định lãi suất không nhất thiết 
trái với cơ chế định giá của thị trường. Tuy nhiên NHTW cần thận trọng khi tìm cách hạn 
chế biên độ giao động của lãi suất như thông qua việc xác định lãi suất trần trong đấu thầu. 
Điều này luôn là một sự cân bằng tinh tế và các quyết định cần được đưa ra trên cơ sở các 
chỉ tiêu chính sách. Để tạo ra khả năng thanh toán cao khi thị trường thứ cấp chưa phát triển, 
NHTW cần phải thiết lập thể thức tái chiết khấu được thiết kế thích hợp và khuyến khích 
một số ngân hàng thương mại đóng vai trò tạo lập thị trường. 
Đương nhiên, yếu tố quan trọng của việc phát triển thị trường tiền tệ hoặc thị trường 
vốn là Ngân sách Nhà nước. việc tài trợ cho ngân sách cần được thực hiện ngày càng nhiều 
thông qua thị trường với lãi suất thị trường. Do đó, Chính phủ cần xây dựng chính sách vay 
nợ trong nước để bù đắp thâm hụt ngân sách và tìm ra cách thiết kế các công cụ được thị 
trường chấp nhận. 
Các quyết định của Chính phủ về vay nợ trong nước và số dư tiền gửi của Kho bạc có 
tác độngtới các hoạt động thị trường mở. Đôi khi các yếu tố đó tạo điều kiện thuận lợi cho 
các hoạt động thị trường và đôi khi có thể làm cho nhiệm vụ trở nên phức tạp hơn. Nhiều 
nước, Bộ Tài chính và NHTW có sự phối hợp trong lĩnh vực này với mức đọ khác nhau. 
Trong các quyết định về vay nợ trong nước, Bộ Tài chính thường ra quyết định cuối cùng và 
NHTW đứng ra làm đại lý. Trong các lĩnh vực mà hoạt động của Chính phủ có tác động trực 
tiếp tới tiền dự trữ ngân hàng, NHTW thường có tiếng nói quan trọng hơn. Mối quan hệ hợp 
tác cụ thể có khác nhau tuỳ thuộc vào truyền thống lịch sử tài chính của từng nước. 
Dù mối quan hệ đó thế nào, các hoạt động thị trường mở sẽ hữu hiệu nhất khi NHTW 
kiểm soát được các yếu tố tác động tới tiền dự trữ của hệ thống ngân hàng. Điều quan trọng 
là NHTW phải có khả năng gây ảnh hưởng, nếu không phải là kiểm soát, đối với số dư tài 
khoản của Kho bạc mở tại Ngân hàng. Thông thường NHTW không có quyền tự quyết định 
đối với tiền gửi của Chính phủ, nhưng cũng có các trường hợp ngoại lệ. Chẳng hạn NHTW 
Canada có quyền chuyển tiền gửi của Chính phủ giữa các tài khoản mở tại NHTW và các 
Ngân hàng thương mại. NHTW Malaysia có tổ chức đấu thầu tiền gửi này như là một công 
cụ chính sách. NHTW Đức có quyền phủ quyết đối với việccp giữ tiền gửi bên ngoài 
NHTW. 
Nhìn chung các hoạt động của thị trường mở sẽ hữu hiệu nhất khi Chính phủ tôn trọng 
sự phân chia rõ ràng giữa việc vay nọ trong nước của Chính phủ và các hoạt động của chính 
sách tiền tệ. Trong thực tế, điều này thường đạt được thông qua thoả thuận triệt tiêu tác động 
tiền tệ của số dư Kho bạc hoặc trao cho NHTW quyền kiểm soát lớn đối với số dư đó. 
4. Xây dựng cơ sở hạ tầng 
Với việc sử dụng các công cụ và cơ chế thị trường để can thiệp, NHTW cần phải có 
được thông tin cập nhật và tiếp xúc thường xuyên với thị trường. Điều này đòi hỏi phải có sự 
thay đổi trong phương thức hoạt động của NHTW, chuyển từ theo dõi thụ động và định kỳ 
việc tuân thủ các quy định bắt buộc sang tham gia một cách tích cực và thường xuyên trên 
thị trường đòi hỏi phải có sự thay đổi trong quy trình ra quyết định, tổ chức, hệ thống thông 
tin và bố trí nhân lực. Các công cụ bắt buộc có thể được quản lý với cơ chế ra quyết định tập 
trung ở cấp cao nhât, thường là Thống đốc hoặc Hội đồng quản trị của NHTW và thậm chí 
đòi hỏi phải có ý kiến của Chính phủ. Tuy nhiên, việc sử dụng các công cụ và cơ chế thị 
trường đòi hỏi phải có quy trình ra quyết định phi tập trung và treen cơ sở uỷ quyền. Các cơ 
quan ra quyết định cấp cao sẽ đề ra các mục tiêu và khung can thiệp mang tính chính sách. 
Sau đó trong khung hướng dẫn này, một nhóm các cán bọ điều hành dưới sự chỉ đạo của một 
quan chức cao cấp, có thể là Phó thống đốc sẽ đưa ra quyết định điều hành. Thẩm quyền cần 
được tiếp tục phân cấp xuống cho những người giao dịch tại phòng giao dịch của NHTW. 
Đây là những người tiếp xúc trực tiếp với thị trường và thực hiện các giao dịch. 
Về mặt tổ chức, NHTW thường được chia thành các vụ riêng lẻ về quản lý các hoạt 
động về ngoại tệ, tái cấp vốn, theo dõi việc chấp hành dự trữ bắt buộc, nghiên cứu và lập 
chương trình tiền tệ. Các vụ này thường có ít sự tương tác khi sử dung công cụ công cụ trực 
tiếp. Với sự thay đổi cơ chế điều hành chính sách, cần phải tập trung việc quản lý tất cả các 
công cụ kiểm soát tiền tệ vào một vụ. Nhiều NHTW còn đi xa hơn với việc sáp nhật các vụ 
nghiệp vụ trong nước và ngoại tệ để đảm bảo sự phối hợp tốt hơn. Hệ thống kế toán cũng 
cần được hợp lý hoá và hiện đại hoá để cung cấp các thông tin cập nhật cần thiết để cung cấp 
các thông tin cập nhật cần thiết để quản lý ngắn hạn các hạng mục chủ yếu trên bảng cân đối 
của NHTW. 
Cần quan tâm đúng mức vấn đề cán bộ, việc thay đổi công cụ và cơ chế vận hành 
chính sách đòi hỏi phải có sự đào tạo lại cán bộ trên quy mô lớn do các kỹ năng thực thi việc 
kiểm soát trực tiếp có thể khác hẳn với các kỹ năng cần có để giao dịch trên thị trường. Việc 
thiếu cán bộ NHTW có đủ năng lực có thể trở thnàh trở ngại lớn cho việ cải cách quản lý 
tiền tệ và cải cách thị trường tài chính nói chung. NHTW cũng phải chú trọng đào tạo cán bọ 
chuyên môn và có các hình thức khuyến khích thích hợp để giữ được đội ngũ cổ phần hoáá 
bộ có chuyên môn cao. Đồng thời NHTW phải đầutư cho công nghệ hiện đại như máy tính 
và các phương tiện viễn thông để hỗ trợ cho các nghiệp vụ mới. NHTW cần độc lập và có 
thẩm quyền trong việc ra các quyết định về mức lương và mua sắm trang thiết bị. 
Ngoài ra NHTW, cũng cần phải có những thay đổi trong hệ thống Ngân hàng nói 
chung. Cần phải phát triển một môi trường cạnh tranh hiệu quả trên cơ sở các tiêu chí về khả 
năng sinh lời. Các Ngân hàng có thể pải được sắp xếp lại và cấp thêm vốn để hoạt động có 
lãi trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hơn. việc kiểm soát phòng ngừa cần được tăng 
cường để tạo các điều kiện thị trường có trật tự trong khuôn khổ các quy tắc và quy chế thích 
hợp, các thông tin thị trường minh bạch và đáng tin cậy trên cơ sở các quy tắc kế toan thống 
nhất và sự giám sát hữu hiệu các hoạt động Ngân hàng. 
5.Các bước cải tổ phục vụ quá trình chuyển đổi từ công cụ trực tiếp sang gián 
tiếp 
Giai đoạn 1: chuẩn bị 
Giai đoạn chuẩn bvị cho việc tự do hoá lãi suất, việc kiểm soát trực tiếp tín dụng lãi 
suất vẫn bao trùm. Bắt đầu tự do hoá hạn chế lãi suất (lãi suât liên Ngân hàng) và bắt đầu xử 
lý các trở ngại đối với sự linh hoạt lãi suất nói chung. 
- áp dụng một chương trình hạn chế các chính sách cải cách tài chính để xử lý các 
khoản vay có lãi suất cố định, một số khoản nợ khê đọng có chọn lọc, mức vốn và 
các khoản tín dụng bao cấp. 
- Xem xét và điều chỉnh cách quy định về mặt pháp lý và tổ chức của thanh tra ngân 
hàng. 
- Củng cố các quy chế về cấp giấy phép; thiết lập hoặc hợp lý hoá khuôn khổ để can 
thiệp và thanh lý các Ngân hàng một cách có trật tự. 
Giai đoạn 2: khởi đầu sự phát triển thị trường 
- Bắt đầu bỏ dần việc kiểm soát trực tiếp tín dụng, bắt đầu sử dụng các công cụ chính 
sách tiền tệ và tỷ giá đơn giản trên cơ sở thị trường như các hoạt động kiểu thị trường mở 
với tín phiếu kho bạc và đấu thầu tín dụng. Thiết lập thể thức cho vay chiết khấu để cung cáp 
thanh khoản cho thị trường tiền tệ. 
- Cải cách hệ thống kế toán và báo cáo của Ngân hàng để giám sát việc thực thi các 
chuẩn mực phòng ngừa và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân tích tiền tệ. 
- Cải cách hệ thống kế toán và báo cáo của Ngân hàng để giám sát việc thực thi các 
chuẩn mực phòng ngừa và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân tích tiền tệ. 
- Bắt đầu áp dụng các quy chế sau trên cơ sở các chuẩn mực kế toán mới: quy chế 
phòng ngừa, đặc biệt là phân loại khoản vay và trích lập dự phòng cho các khoản 
lỗ, quy chế giới hạn cho vay tập trung, hướng dẫn thẩm định tín dụng và các quy 
chế về trạng thái ngoại hối. 
- Tăng cường và đưa vào áp dụng các tiêu chuẩn về vốn phù hợp với chiến lược sắp 
xếp lại các Ngân hàng. 
- áp dụng chính sách kết hợp thanh tra từ xa và kiểm tra tại chỗ với kiểm toán từ bên 
ngoài ở mức độ phù hợp với nguồn lực và trợ giúp kỹ thuật. 
- Tích cực xây dựng bộ máy và năng lực của các Ngân hàng, tiến hành kiểm toán 
các Ngân hàng lớn. 
- Hoạch địnhmột chương trình tổng thể về sắp xếp lại các Ngân hàng, thanh lý Ngân 
hàng, thu hồi nợ khó đòi. Trong chương trình này sẽ thực hiện một số chính sách 
đơn giản để sắp xếp lại các doanh nghiệp và Ngân hàng như giảm tỷ lệ nợ, vốn tự 
có của các doanh nghiệp và cấp thêm vốn cho các Ngân hàng. 
Giai đoạn 3: củng cố các thị trường tài chính 
Cũng cố thị trường tiền tệ và thị trường tín phiếu kho bạc thứ cấp thông qua các cải 
cách về thể chế và hệ thống thanh toán, các hoạt động thị trường mở trở nên sôi động hơn, 
thúc đẩy sự phát triển của thị trường ngoại hối. NHTW hoàn toàn chủ động quản lý vốn khả 
dụng trên thị trường tiền tệ. Lãi suất hoàn toàn linh hoạt. 
- Tiếp tục một cách có hệ thống cải cách toàn diện các Ngân hàng và sắp xếp lại 
doanh nghiệp phù hợp với chương trình nêu trong Giai đoạn 2. 
- Khuyến khích sự phát triển của các tổ chức giao dịch chứng khoán Chính phủ( các 
công cụ của thị trường tiền tệ) có đủ vốn và được giám sát tốt để tăng cường sự 
quản lý và giám sát thị trường chứng khoán. 
- Hoàn tất việc cải cách hệ thống kế toán và các tiêu chuẩn phòng ngừa của các 
Ngân hàng. 
- Củng cố việc quản lý rủi ro và tài chính trong hệ thống thanh toán. 
- Tăng cường việc giám sát khả năng quản lý rủi ro lãi suất, quản lý vốn khả dụng, 
kiểm soát nội bộ và hệ thống quản lý nói chung của các Ngân hàng thương mại. 
Đạt được sự cân đối cần thiết giữa giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ và kiểm toán từ 
bên ngoài thông qua trợ giúp kỹ thuật và đào tạo. 
Kết luận 
Việc chuyển đổi từ việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ trực tiếp sang gián 
tiếp là một xu thế tất yếu. Có thể nói, không có một khuôn mẫu nào có thể áp dụng thống 
nhất cho các nước mà tuỳ theo tình hình và điều kiện cuả mỗi nước để đưa ra một lộ trình 
phù hợp. Tuy nhiên, để có thể sử dụng được các công cụ mang tính thị trường thì điều kiện 
tiên quyết là phải phát triển thị trường, tạo ra định giá thực sự mang tính thị trường không có 
sự can thiệp hành chính. Muốn có một thị trường phát triển phải có sự chuẩn bị kỹ càng về 
cơ sở vật chất, con người. 
Nền kinh tế của ta đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức của nhu cầu mở cửa và 
hội nhập. Một chính sách tiền tệ cứng nhắc và kém hiệu quả sẽ không đảm bảo cho nó tránh 
được những ảnh hưởng mạnh mẽ từ thị trường bên ngoài. Hơn nữa sau mười năm đổi mới và 
những cải cách mạnh mẽ trong lĩnh vực Ngân hàng, những hoạt động cho phép sử dụng cơ 
chế điều chỉnh gián tiếp đang dần được hình thành, hứa hẹn một khả năng chắc chắn cho sự 
chuyển đổi cơ chế điều tiết lượng tiền cung ứng. 
Tài liệu tham khảo 
1. Vai trò của NHTW (The Evolving Role of Central banks), IMF, 1991 
2. Chuyển đổi sang sử dụng các hoạt động thị trường mở (Transformation to Open 
Market Operations), Stephen H. axilrod, IMF, 1996 
3. Các công cụ chính sách tiền tệ ở các nước đang phát triển (Monetary policy 
intruments in developing countries), World Bank, 1991 
4. Vai trò của thanh tra an toàn và cơ cấu lại tài chính cho các Ngân hàng trong quá 
trình chuyển sang sử dụng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ , Sundarara 
Ran _IMF 
5. Một số tài liệu của NHTW Balan 
6. Các báo của NHNN từ 1994-1998 
7. Một số tạp chí khoa học Ngân hàng. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 72432_6008.pdf 72432_6008.pdf