1- Nội dung đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ tính đúng đắn của chủ trương phát triển cây cao su trên địa bàn tỉnh Sơn La, khẳng định đây là hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng bền vững, góp phần xóa đói giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc tỉnh Sơn La.
Để thực hiện mục đích trên, đề tài đã nghiên cứu những vấn đề sau:
- Những lý luận chung về vấn đề đói nghèo, vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, làm tiền đề cho nhau giữa chúng.
- Tình hình phát triển cây cao su ở một số tỉnh miền núi phía Bắc.
- Tình hình đói nghèo và thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp của tỉnh Sơn La, những nguyên nhân của thực trạng trên.
- Những thuận lợi, khó khăn, những hiệu quả về mặt kinh tế, chính trị, xã hội khi tỉnh Sơn La phát triển cây cao su.
- Tình hình phát triển cây cao su trên địa bàn tỉnh trong thời gian vừa qua.
- Các giải pháp để duy trì chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế bền vững cho tỉnh.
2- Đóng góp của đề tài
- Đề tài đã cố gắng trình bày có hệ thống, góp phần làm rõ mối quan hệ biện chứng, sự tác động qua lại, làm tiền đề cho nhau giữa vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và vấn đề xóa đói, giảm nghèo.
- Cái mới và đóng góp của đề tài là đã chỉ ra những thuận lợi, khó khăn cũng như những hiệu quả về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội khi phát triển cây cao su trên địa bàn tỉnh Sơn La. Từ đó, đề tài khẳng định việc phát triển cây cao su trên địa bàn tỉnh là một hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng phù hợp, góp phần xóa đói, giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc tỉnh Sơn La đặc biệt là đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng gần biên giới. Như vậy, đề tài đã góp phần làm sáng rõ tính đúng đắn trong những chủ trương, chính sách phát triển cây cao su của Nhà nước cũng như của Địa phương; và có thể dùng làm tài liệu để phục vụ cho công tác tuyên truyền, phát động, cổ vũ phong trào trồng cây cao su của Địa phương.
- Đề tài đã đề xuất các giải pháp đề duy trì sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế bền vững ở tỉnh Sơn La.
3- Bố cục của đề tài
Đề tài gồm các phần:
- Phần thứ nhất: đặt vấn đề
- Phần thứ hai: mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế và giảm nghèo
- Phần thứ ba: phát triển cây cao su trên địa bàn các tỉnh miền núi phía Bắc
- Phần thứ tư: Phát triển cây cao su là hướng giảm nghèo bền vững ở tỉnh Sơn La.
- Phần thứ năm: các giải pháp để duy trì chuyển dịch cơ cấu cây trồng bền vững trên địa bàn tỉnh Sơn La.
- Phần thứ sáu: kết luận.
- Danh mục tài liệu tham khảo.
82 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3467 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển cây cao su - Hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế bền vững trên địa bàn tỉnh Sơn La, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quảng Trị đã nộp ngân sách cho tỉnh Quảng Trị 27 tỷ đồng. Tại Gia Lai, 4 công ty cao su trên địa bàn đã đóng góp ngân sách 120 tỷ đồng, chiếm 10% tổng thu ngân sách của tỉnh.
3.3- Gỗ cao su
- Gỗ cao su có đặc tính nhẹ, mùi thơm, mầu sắc đẹp và rất bền; được dùng để làm bàn, ghế, tủ, giường, laphông, vách ngăn, ramly và một số phụ kiện trong công nghiệp khác (đây là loại gỗ đặc chủng).
Sau chu kỳ kinh doanh 25- 30 năm, thì tiến hành khai thác gỗ để bán và trồng mới; 01 ha cho thu nhập khoảng 100 triệu đồng sau khi hết chu kỳ khai thác mủ (có điều kiện đầu tư xây dựng cơ bản vườn cây cao su từ chu kỳ thứ 2 trở đi và gần như không vay vốn ngân hàng).
- Sản xuất đồ gỗ cao su xuất khẩu hiện là một hoạt động đầy tiềm năng của ngành cao su Việt Nam. Những thị trường xuất khẩu quan trọng là Mỹ, Châu Âu, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc. Tổng giá trị xuất khẩu gỗ cao su năm 2006 đạt 190 triệu USD và có triển vọng kim ngạch xuất khẩu đạt 500 triệu USD/năm.
- Đóng góp với ngân sách: gỗ cao su sau khi sơ chế, chế biến thành các sản phẩm đồ gỗ nếu bán trong nước thì phải nộp vào ngân sách nhà nước với thuế suất 10%; đối với sản phẩm gỗ xuất khẩu được ưu đãi khuyến khích thuế xuất khẩu bằng 0%.
3.4- Hạt cao su
Hạt cao su được tiêu thụ để làm giống và làm nguyên liệu tẩy rửa, hoá chất sơn, thức ăn gia súc và các loại phụ liệu khác.
3.5- Hiệu quả về mặt chính trị, xã hội
- Phát triển cây cao su góp phần quan trọng xây dựng được một cơ cấu kinh tế tiến bộ, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng một nền nông nghiệp bền vững.
- Phát triển cây cao su tạo ra khối lượng lớn việc làm cho người lao động (1 ha cao su cần 0,6 lao động nông nghiệp và 0,4 lao động công nghiệp) và góp phần thực hiện sự phân công lại lao động vận động theo đúng quy luật của nó( lương công nhân bình quân của Tập đoàn công nghiệp cao su năm 2005 đạt 2,6 triệu đồng/ha/người; năm 2006 đạt gần 5 triệu đông/ha/người). Khi phát triển cây cao su trên địa bàn tỉnh sẽ làm cho lực lượng lao động trí tuệ ngày càng tăng lên, vì phải áp dụng những kỹ thuật trồng trọt, chăm sóc mới, áp dụng những kỹ thuật công nghệ mới. Lực lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp thuần túy giảm dần, lao động trồng trọt độc canh cây lương thực sẽ giảm xuống, chuyển dần sang lĩnh vực sản xuất cây công nghiệp. Đồng thời, phát triển cây cao su còn có thể thu hút khối lượng lớn lực lượng lao động có kỹ thuật ở các nơi khác. Cao su chủ yếu được trồng ở vùng sâu do đó thu hẹp được khoảng cách nông thôn với thành thị; góp phần xây dựng được giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh.
- Khi đời sống vật chất của nhân dân đặc biệt là đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới được cải thiện, đời sống tinh thần được nâng cao sẽ góp phần giảm các tệ nạn xã hội, ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng.
Tóm lại: tỉnh Sơn La có các điều kiện tự nhiên thích hợp để trồng và phát triển cây cao su ( Năm 2007, Viện khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc đã tiến hành một số mô hình trồng thử nghiệm cao su tại Than Uyên ( Lai Châu) 8ha và tại Mai Sơn ( Sơn La) 3 ha bằng các giống có triển vọng từ tập đoàn Viện đã nghiên cứu, bước đầu cho thấy tỷ lệ cây sống đạt trên 95%). Đồng thời, khi cây cao su được đưa vào trồng và khai thác trên địa bàn tỉnh sẽ đem lại những ý nghĩa quan trọng và những lợi ích hết sức to lớn, toàn diện về các mặt kinh tế, xã hội, môi trường như: giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, thực hiện phân công lại lao động theo đúng quy luật vận động của nó; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế bền vững; tăng thu cho ngân sách nhà nước, ngân sách tỉnh; tạo điều kiện để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng; góp phần bảo vệ môi trường; nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật; góp phần xóa đói giảm nghèo. Vì vậy, có thể kết luận trồng cây cao su là hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng và xóa đói giảm nghèo bền vững của tỉnh Sơn La.
III- Địa phương làm được gì để phát triển cây cao su trên địa bàn
1- Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La đã ban hành các văn bản định hướng tổ chức, thực hiện trồng cây cao su trên địa bàn tỉnh.
a. Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành
- Nghị quyết số 179/2007/NQ-HĐND, ngày 10/12/2007 của HĐND tỉnh Sơn La khoá XII Kỳ họp thứ 9 về phê chuẩn định hướng quy hoạch, kế hoạch phát triển cây cao su trên địa bàn tỉnh Sơn La, giai đoạn 2007 - 2011 và tầm nhìn đến năm 2020.
- Nghị quyết số 180/2007/NQ-HĐND ngày 10.12.2007 của Hội đồng nhân dân tỉnh phê chuẩn chính sách phát triển cây cao su trên địa bàn tỉnh Sơn La giai đoạn 2007-2020.
b- Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành:
- Quyết định số 2343/2007/QĐ-UBND ngày 05.10.2007 về thành lập ban chỉ đạo phát triển cây cao su tỉnh Sơn La.
- Quyết định số 93/2008/QĐ-UBND ngày 10.01.2008 về kiện toàn ban chỉ đạo phát triển cây cao su tỉnh Sơn La.
- Quyết định số 3079/2007/QĐ-UBND, ngày 21.12.2007 của UBND tỉnh Sơn La về việc ban hành định hướng quy hoạch, kế hoạch phát triển cây cao su trên địa bàn tỉnh Sơn La, giai đoạn 2007 - 2011 và tầm nhìn đến năm 2020.
- Quyết định số 30/2007/QĐ-UBND ngày 21.12.2007 của Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La về việc ban hành chính sách phát triển cây cao su trên địa bàn tỉnh Sơn La đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
2. Tỉnh đã tiến hành khảo sát, quy hoạch Tổng diện tích đất trồng cây cao su giai đoạn 2008-2011.
- Tổng diện tích là 21.023 ha, trong đó:
+ Huyện Quỳnh Nhai: 5.750 ha.
+ Huyện Thuận Châu: 3.312 ha.
+ Thị xã Sơn La: 1.354 ha.
+ Huyện Mai Sơn: 1.447 ha
+ Huyện Mường La: 1.570 ha
+ Huyện Sông Mã: 3.529 ha
+ Huyện Yên Châu: 4.000 ha
- Quy hoạch thành 4 vùng gắn với 4 nhà máy: vùng 1 (Mường La- thị xã Sơn La); vùng 2 (Quỳnh Nhai-Thuận Châu); vùng 3 (Sông Mã - Sốp Cộp); vùng 4 (Mai Sơn - Yên Châu).
3- Tỉnh đã ban hành chính sách về phát triển cây cao su trên địa bàn tỉnh Sơn La.
- Mục tiêu: hỗ trợ chuyển đổi cây trồng sang trồng cây cao su; hỗ trợ di chuyển nhà ở trong vùng quy hoạch trồng cây cao su.
- Phạm vi: vùng quy hoạch trồng cây cao su trên địa bàn các huyện.
- Đối tượng quy hoạch đất trồng cây cao su:
+ Đối tượng đất góp: đất nông lâm nghiệp (đất trồng rừng không thành rừng, đất trồng cây lâu năm, đất trồng cây hàng năm); đất trống, đồi trọc chưa sử dụng.
+ Đối tượng thu hồi đất cho Công ty cổ phần cao su Sơn La thuê: đất lâm nghiệp giao cho cộng đồng bản và đất nông lâm nghiệp giao cho các nông, lâm trường trong vùng quy hoạch
- Chính sách về đất quy hoạch trồng cao su:
+ Đối tượng hỗ trợ: cá nhân, hộ gia đình, nhóm hộ trong bản, tiểu khu tham gia góp đất; cá nhân, hộ gia đình và công nhân đã nhận diện tích đất khoán của các nông, lâm trường, thông qua giám đốc nông, lâm trường.
+ Mức hỗ trợ: cá nhân hộ gia đình, nhóm hộ, nông lâm trường tham gia góp giá trị quyền sử dụng đất được hỗ trợ một lần sau khi đã hoàn thành thủ tục góp đất có xác nhận của Công ty cổ phần cao su Sơn La, với mức hỗ trợ: Đất trồng cây lâu năm 5 triệu đồng/ha (đối với đất trồng cây lâu năm của cộng đồng, tổ chức tự bỏ vốn hoặc vốn vay được hỗ trợ như cá nhân, hộ gia đình). Đất trồng cây hàng năm 3 triệu đồng/ha. Đất trồng rừng bằng vốn tự có hoặc vốn vay của cá nhân, hộ gia đình và nhóm hộ 2 triệu đồng/ha. Đối với diện tích đất lâm nghiệp khoanh nuôi tái sinh của cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng và các tổ chức được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp, nhưng không được hưởng nguồn đầu tư khoanh nuôi tái sinh rừng hàng năm, thì được hỗ trợ một lần, mức hỗ trợ là 50.000 đồng/ha/năm (bằng mức khoán của Dự án 661 hiện hành), được tính thời gian từ ngày được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Riêng đối với đất trồng cây lâu năm, đất rừng trồng, đất lâm nghiệp khoanh nuôi tái sinh rừng bằng vốn ngân sách Nhà nước nhưng hiệu quả thấp chuyển sang trồng cao su không được hỗ trợ và cho phép lập thủ tục thanh lý theo quy định.
+ Hỗ trợ di chuyển nhà ở trong vùng quy hoạch trồng cao su: đối tượng là các cá nhân, hộ gia đình trong vùng quy hoạch trồng cao su tự nguyện di chuyển nhà ở để giành đất tham gia trồng và kinh doanh cao su. Mức hỗ trợ di chuyển là 2 triệu đồng/hộ.
- Hình thức hỗ trợ: bằng tiền mặt.
- Nguồn hỗ trợ: ngân sách tỉnh; tổng số tiền hỗ trợ giai đoạn 2008-2011 là 33,6 đến 40 tỷ đồng, riêng năm 2008 dự kiến 10 tỷ đồng.
3- Về công nghiệp chế biến mủ cao su: tỉnh đã nghiên cứu và đưa ra quy hoạch để xây dựng các nhà máy chế biến mủ cao su gắn với 05 vùng nguyên liệu: vùng 1 tại các huyện Mường La, thị xã Sơn La; vùng 2 tại các huyện Quỳnh Nhai, Thuận Châu; vùng 3 tại các huyện Sông Mã, Sốp Cộp; vùng 4 tại các huyện Mai Sơn, Yên Châu; vùng 5 tại các huyện Mộc Châu, Phù Yên, Bắc Yên.
4- Phối hợp với Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam thành lập Công ty cổ phần cao su Sơn La (Son La Rubber Joint Stock Company - SOLARUCO) trực thuộc Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam. Ngày 18.8.2007 đã tổ chức ra mắt Công ty cổ phần cao su Sơn La.
- Công ty cổ phần cao su Sơn La có vốn điều lệ ban đầu là 200 tỷ đồng. Các cổ đông sáng lập gồm: Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, góp 100 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 50%; Công ty Cao su Đồng Nai góp 40 tỷ, chiếm 20%; Công ty Cao su Quảng Trị 10%, Công ty Cao su Phước Hòa 10%; Công ty Nông nghiệp Tô Hiệu (Sơn La) và các thể nhân khác chiếm 10%.
- Ngành nghề kinh doanh: trồng cây cao su và sơ chế cao su, dịch vụ hỗ trợ trồng mới (tiểu điền), trồng rừng, chăn nuôi gia súc, chế biến gỗ, đại lý mua bán phân bón, kinh doanh xuất nhập khẩu cao su.
- Tháng 9 và tháng 10 năm 2007, Công ty đã tiến hành trồng mới 70 ha; dựa vào kết quả của các vườn thí nghiệm giống của Viện Nghiên cứu Cao su Việt Nam tại khu vực phía Bắc và kết quả nghiên cứu của Trung Quốc đã quyết định trồng 5 giống là GT1, RRIM600, PB260, RRIV1 và IAN873; hàng được thiết kế theo bậc thang với mật độ 500 cây/ha (8 x 2,5 m).
5- Tỉnh đã giải quyết đất, giao cho Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam trực tiếp đầu tư trồng cây cao su tại Sơn La.
Đến hết ngày 28.03.2008:
- Đã thống nhất để giao cho Công ty cổ phần cao su Sơn La 6.563,80 ha; trong đó Quỳnh Nhai 1.359,37 ha, Thuận Châu 1.742,43 ha, Mai Sơn 977 ha, Mường La 617 ha, Sông Mã 500 ha, Thị xã 516 ha, Yên Châu 852 ha.
- Đã giao đất cho Công ty cổ phần cao su Sơn La được 2.970,30 ha (trong đó đất nông lâm trường là 244,00 ha, chiếm 8,22%; đất cộng đồng là 496,52 ha, chiếm 16,72%; đất hộ gia đình là 2.256,78 ha, chiếm 75,96%); trong đó Quỳnh Nhai 1.054 ha, Thuận Châu 776 ha, Mường La 431 ha, Yên Châu 709,3 ha; giao đất đến đâu Công ty cổ phần cao su Sơn La làm đất được đến đó để trồng mới cây cao su.
6- Tỉnh tạo điều kiện thuận lợi và đề nghị với Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam đến trực tiếp đầu tư kinh doanh cao su tại Sơn La; phối hợp làm tốt công tác quy hoạch vùng phát triển cao su tại Sơn La.
7- Tổ chức công tác tập huấn, tuyên truyền vận động, phát động phong trào thi đua hưởng ứng mạnh mẽ chủ trương phát triển cây cao su trên địa bàn tỉnh; có chính sách xem xét ưu tiên đầu tư xây dựng trụ sở ủy ban nhân dân xã theo tiêu chuẩn mới đối với các xã trồng trên 300 ha cao su/năm.
8- Đầu tư nâng cấp đường vào khu 109 ha trồng cao su tại Phiêng Tìn theo tiêu chuẩn đường giao thông nông thôn loại A. Xây dựng mô hình bản công nhân cao su tại Phiêng Tìn, thị trấn Ít Ong, huyện Mường La thành mô hình điểm "bản mới phát triển toàn diện" đáp ứng cho nhu cầu tham quan, học tập.
IV- Tình hình phát triển cây cao su trên địa bàn tỉnh Sơn La trong thời gian qua.
Vùng trồng cây cao su của Sơn La tập trung ở vùng thấp, nơi có đồng bào dân tộc Thái, Xinh Mun, Kháng, Khơ Mú sinh sống...Ngoài việc chính là làm ruộng và nương rẫy, mỗi gia đình đều có chăn nuôi, làm các nghề thủ công và đánh bắt thủy sản. Thực hiện đường lối đổi mới, các hộ gia đình đang ứng dụng giống mới vào sản xuất và đã cơ bản khắc phục được tình trạng độc canh cây lương thực. Tuy nhiên còn một bộ phận không nhỏ đồng bào dân tộc thiểu số vẫn chưa thoát khỏi tập quán sản xuất du canh du cư, tự cấp tự túc lạc hậu nên đời sống rất khó khăn. Chủ trương phát triển cây cao su ở Tây Bắc của Chính phủ đã mở ra một hướng phát triển kinh tế quan trọng giúp cho người dân nơi đây thoát khỏi đói nghèo, vươn lên giàu có.
1- Những thay đổi ban đầu khi người nông dân trở thành công nhân của Công ty cổ phần cao su Sơn La
- Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam có cơ chế cho người dân trên địa bàn tỉnh góp vốn bằng quyền sử dụng đất, trong đó mỗi ha đất người dân góp vào được tính tối đa 10 triệu đồng. Người góp giá trị quyền sử dụng đất phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; riêng đất lâm nghiệp giao cho cộng đồng và nhóm hộ để trồng rừng nhưng chưa có rừng hoặc rừng nghèo theo tiêu chí quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì công ty sẽ nhận thuê đất của Nhà nước để trồng cao su và sử dụng lực lượng lao động cộng đồng và nhóm hộ đó vào làm việc. Đây là mô hình mới chưa từng có trong ngành cao su.
- Quyền lợi của người dân khi góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất để mua cổ phần của Công ty cổ phần cao su Sơn La:
+ Được trở thành cổ động của Công ty theo Luật định, được chia lợi tức theo lợi nhuận của Công ty.
+ Được xét tuyển dụng hợp đồng vào làm công nhân theo Luật Lao động (riêng những trường hợp cổ đông sẽ có ưu tiên tuổi tác, trình độ, sức khoẻ…) và khi trở thành công nhân sẽ được áp dụng các chế độ như bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động và các chế độ khác.
+ Được bố trí việc làm hoặc giao khoán vườn cao su để quản lý và canh tác lâu dài, có quyền tham gia các tổ chức của Công ty như: công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, cựu chiến binh…. được tham quan, học tập, điều dưỡng,…
+ Được trồng xen canh trong vườn cao su theo hướng dẫn của Công ty mà không phải đóng thuế, tiền thuê đất…
+ Được vay vốn hoặc bảo lãnh vay vốn để thực hiện các dự án chăn nuôi, trồng cỏ, canh tác cây ngắn ngày, dài ngày, làm nhà, cho con đi học,…. khi có chương trình của địa phương và Công ty phối hợp tổ chức hoặc Tập đoàn hỗ trợ.
- Khi tham gia vào quá trình trồng cây cao su, người nông dân được trở thành công nhân, được đào tạo nghề dưới hình thức vừa học vừa làm.
- Khi là công nhân trồng cao su, người nông dân sẽ được rèn luyện bản lĩnh, quan điểm của giai cấp công nhân, tác phong lao động công nghiệp, có ý thức chấp hành kỷ luật.
- Những thay đổi ban đầu về đời sống xã hội ở vùng trồng cao su: sau 06 tháng trồng cây cao su, tập quán sản xuất của người nông dân ở bản Phiêng Tìn và bản Nà Trang - xã Ít Ong - huyện Mường La đã có sự thay đổi rõ rệt. Đến ngày 15.03.2008 bản Phiêng Tìn và bản Nà Trang có 78 hộ đã tham gia góp quyền sử dụng đất với diện tích 121 ha. Trước khi trồng cao su, hầu hết các gia đình thuộc 2 bản nói trên có nguồn thu chủ yếu là ngô, lúa và chăn nuôi. Bản Phiêng Tìn có 7/15 hộ bị thiếu đói từ 2- 5 tháng trong năm, chỉ có 2/15 gia đình có tích lũy, nhưng cũng chỉ được 2-3 triệu đồng/năm. 170 nông dân của hai bản này đã trở thành công nhân, có gia đình có từ 3 - 4 người làm công nhân. Chuyển đổi sang làm công nhân cao su đã giúp cho hộ nông dân biết lập kế hoạch chi tiêu hàng tháng; sau thời gian đi làm 8 giờ/ngày, trở về nhà đều làm thêm một số công việc như chăn nuôi, trồng rau, trồng lúa nước để tăng thu nhập (làm việc gần nhà), tham gia sinh hoạt văn hoá cộng đồng...Công nhân trở thành lực lượng nòng cốt trong từng gia đình nông thôn sẽ làm thay đổi nhận thức và tập quán sản xuất, tập quán sinh hoạt của đồng bào địa phương, góp phần nhanh chóng thực hiện thành công chương trình xoá đói giảm nghèo.
2- Về thu nhập của người công nhân sản xuất cao su
- Thu nhập ban đầu khi làm cao su: đến tháng 3.2008, tiền lương ban đầu của công nhân lao động phổ thông phổ biến ở mức 1.200.000 - 1.500.000 đồng/ tháng; cán bộ kỹ thuật, tổ trưởng hoặc đội phó sản xuất có thêm phụ cấp trách nhiệm từ 300.000 - 600.000 đồng/tháng. Với mức lương đó, một hộ gia đình có 2-3 người đi làm công nhân sẽ đủ chi phí sinh hoạt cho gia đình, không có hộ bị thiếu đói và có tích luỹ cao hơn.
- Các khoản thu nhập khi người nông dân tham gia trồng cao su bao gồm các khoản sau: thu nhập từ tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; thu nhập từ vượt định mức lao động, tiền thưởng; bảo hiểm thất nghiệp theo qui định của Tập đoàn (riêng bảo hiểm thất nghiệp sẽ được bổ sung trong thời gian sau).Các khoản thu nhập trên sẽ tăng dần theo quy mô sản xuất kinh doanh của Công ty. Đến tháng 3.2008, tại bản Nà Trang và Phiêng Tìn đã được Tập đoàn cho vay tiền để mua 100 con bò, 400 con dê không phải trả lãi suất và chỉ trả tiền gốc dần qua lương mỗi tháng lương 100.000 đồng trong 03 năm, được nông dân rất đồng tình
- Thu nhập từ lợi tức (khoản này sẽ có khi cao su cho sản phẩm).
Phần thứ năm
CÁC GIẢP PHÁP ĐỂ DUY TRÌ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU CÂY TRỒNG BỀN VỮNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SƠN LA
Để duy trì chuyển dịch cơ cấu cây trồng bền vững trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:
I- Đa dạng hóa các hình thức sở hữu
Chế độ tư hữu và đa dạng hóa các hình thức sở hữu là điều kiện của sự hình thành, tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hóa. Chỉ có đa dạng hóa sở hữu thì mới tạo ra cơ sở khách quan để thực hiện tự do kinh doanh và phát huy quyền tự chủ của các doanh nghiệp. Như vây, hình thức sở hữu tác động đến tính năng động, linh hoạt của chủ thể kinh tế; đồng thời thay đổi cả cơ cấu kinh tế, cơ cấu và hệ thống lợi ích; thay đổi tính chất của lao động và là điều kiện thực hiện phân phối thu nhập, mức sống.
Để giải quyết vấn đề sở hữu ở tỉnh Sơn La cần chuyển sở hữu nhà nước và tập thể ở các lĩnh vực không mang tính quyết định sang hình thức sở hữu khác có hiệu quả hơn và không nhất thiết giữ ở hình thức sở hữu công cộng. Quan trọng nhất là giải quyết tốt vấn đề sở hữu đất đai vì đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất chủ yếu có vai trò hết sức quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp.
Để giải quyết vấn đề này đòi hỏi phải:
- Cần quán triệt phương châm “quy hoạch mềm” trên diện tích đất sử dụng và sản xuất nông nghiệp lâu dài. Quy hoạch mềm thể hiện ở các phương án bố trí cây trồng cho phù hợp với từng loại đất, từng vùng và có thể linh hoạt thay đổi theo tín hiệu thị trường.
- Hoàn thiện, đổi mới chính sách đất đai cần hướng vào: bổ sung quy định về điều kiện chuyển đổi đối với đất nông nghiệp đã được quy hoạch sử dụng lâu dài, hạn chế chuyển đổi tự phát vì lợi ích cá nhân, cục bộ; nông dân có quyền chuyển nhượng hoặc chuyển nhượng đất nông nghiệp không phụ thuộc vào nơi cư trú; nên bãi bỏ các quy định khống chế việc cho thuê lại đất nông nghiệp; nên bãi bỏ quy định người nhận chuyển nhượng buộc phải là người trực tiếp sản xuất nông nghiệp, mà chỉ cần người nhận chuyển nhượng có phương án sử dụng tốt, có tính khả thi và có chế tài để xử lý khi không thực hiện phương án đó, mua để đầu cơ, để hoang hóa...Điều này cho phép những người có vốn liếng có điều kiện đầu tư vào sản xuất các nông sản xuất khẩu với quy mô lớn hơn, do đó sẽ có điều kiện để nâng cao giá trị gia tăng và hiệu quả sản xuất hơn.
II- Mở rộng sự phân công và phân công lại lao động xã hội gắn với xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.
Tại tỉnh Sơn La, lao động kỹ thuật( lao động trí tuệ) chiếm tỷ lệ quá nhỏ so với lao động giản đơn. Lao động kỹ thuật lại chủ yếu tập trung ở khu vực thị xã và các thị trấn. Lao động giản đơn chủ yếu chỉ dựa vào kinh nghiệm, truyền thống, tập quán. Thực trạng đó đi ngược lại với quy luật của sự phân công và phân công lại lao động xã hội. Do vậy, để sự phân công lao động xã hội ở tỉnh Sơn La diễn ra theo đúng xu hướng có tính quy luật cần tiến hành: thực hiện tốt chính sách định canh, định cư theo hướng hình thành các cụm dân cư. Ở nông thôn tỉnh Sơn La hiện nay, do phong tục tập quán và trình độ lạc hậu nên còn nhiều dân tộc ít người sống du canh, du cư hoặc đã định cư nhưng còn du canh. Đây là phương thức canh tác lạc hậu nhất, hoàn toàn manh tính chất tự nhiên, chưa thoát khỏi trạng thái mông muội. Họ chỉ biết đốt phá rừng làm rấy, xẻ gỗ, đốt than,...làm kiệt quệ tài nguyên rừng, gây xói mòn đất, gây hại lớn cho môi trường sinh thái của cả xã hội. Để ổn định đời sống của đồng bào, phải xóa tình trạng cư trú thưa thớt, cần phải quy hoạch, tổ chức các cụm dân cư trên cơ sở đảm bảo cho phát triển kinh tế hàng hóa, và do đó phải tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, trước hết và cơ bản nhất là xây dựng hệ thống giao thông, điện, nước, chợ búa, trường trạm, có thể tập trung xây dựng các khu dân cư ở gần các cửa khẩu hoặc trên các trục giao thông đến cửa khẩu.
III- Hình thành, mở rộng và phát triển thị trường.
Để mở rộng và phát triển thị trường tại tỉnh Sơn La, cần phải quan tâm thực hiện một số giải pháp sau đây;
- Đầu tư để phát triển giao thông, đặc biệt là giao thông nông thôn. Chỉ có giao thông nông thôn phát triển thì mới hình thành các chợ nhỏ, chợ làng, liên thôn, liên xã và do đó lưu thông hàng hóa mới có điều kiện phát triển.
- Phải xóa bỏ du cach, du cư, hình thành những cụm dân cư, thị trấn, thị tứ; tạo điều kiện để hình thành các cụm và trung tâm thương nghiệp, dịch vụ và tạo điều kiện phát triển giao thông có trọng điểm.
- Hình thành các vùng sản xuất chuyên canh, áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất để có năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt, đặc biệt là đa dạng hóa các loại cây trồng cho phù hợp với thế mạnh của tỉnh. Xóa bỏ tình trạng độc canh cây lương thực, giảm việc mở rộng diện tích cây lương thực; phát triển mạnh cây công nghiệp, cây ăn quả, cây đặc sản gắn liền với công nghiệp chế biến nông sản tạo sản phẩm hàng hóa có giá trị cao, dễ vận chuyển, dễ bảo quản và có điều kiện thuận lợi để vươn xa tới các thị trường ở các vùng trong nước và quốc tế.
- Mở rộng và đa dạng hóa các loại thị trường, chú ý thị trường nội tỉnh( tại chỗ), nhưng cơ bản là mở rộng thị trường với các vùng trong nước và tìm cách để mở rộng thị trường về Phía Nam trung Quốc và các nước khác trên thế giới. Trước mắt cần chú ý thị trường đầu ra, nhằm khai thác điều kiện, tiềm năng thuận lợi của tỉnh. Đồng thời cũng chú ý cung ứng tốt, đầy đủ, kịp thời các yếu tố đầu vào như: tư liệu sản xuất, giống, phân bón, thuốc trừ sâu, kỹ thuật nuôi trồng, đặc biệt là vốn.
- Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước đối với tỉnh Sơn La. Trong điều kiện thấp kém hiện nay, tỉnh không thể tự vươn lên để phát triển thị trường, vì vậy không thể thiếu vai trò của Nhà nước, vai trò đó được thể hiện theo hướng thúc đẩy việc hình thành và phát triển thị trường. Nhà nước tạo môi trường đầu tư thuận lợi kể cả đầu tư trong và ngoài nước, ưu tiên thu hút vốn và các dự án cho tỉnh. Xây dựng thể chế thị trường, tạo cơ cấu lưu thông với nhiều thành phần kinh tế, nhiều phương thức kinh doanh, nhiều luồng lưu thông cạnh tranh lẫn nhau nhằm khắc phục sự manh nha, tự phát và rời rạc hiện nay.
IV- Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng.
Kết cấu hạ tầng có vai trò hết sức quan trọng, có nơi, có lúc mang tính quyết định đối với việc phát triển kinh tế hàng hóa. Kết cấu hạ tầng tạo điều kiện thúc đẩy việc sản xuất và lưu thông hàng hóa, góp phần tạo việc làm, tăng năng suất lao động, góp phần tăng thu nhập của người kinh doanh. Vì vậy, trong phát triển kinh tế - xã hội thì kết cấu hạ tầng phải đi trước một bước. Kết cấu hạ tầng bao gồm cả kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội( y tế, giáo dục..).
Đối với tỉnh Sơn La hiện nay, việc phát triển kết cấu hạ tầng cần chú ý nhất là giao thông.
a. Xây dựng, phát triển mạng lưới giao thông.
Ở tỉnh Sơn La, nếu hệ thống giao thông không đi trước một bước thì dù chủ trương, chính sách hay mấy cũng khó mà đi vào cuộc sống dân bản. Vì vậy, đầu tư cho phát triển giao thông được coi là “ giải pháp của giải pháp, đầu tư của đầu tư”, là nhiệm vụ hàng đầu, trọng tâm của tỉnh. Cụ thể:
- Tiếp tục nâng cấp tuyến quốc lộ 6 Hà Nội-Sơn La-Điện Biên và các tuyến quốc lộ đi các tỉnh khác.
- Trải nhựa các tuyến đường trọng yếu đến các huyện chủ chốt, các vùng cây công nghiệp; nâng cấp các đường huyện khác để đảm bảo giao thông thông suốt quanh năm.
- Xây dựng, củng cố các đường liên xã, mở rộng các đường liên bản để đi lại được dễ dàng, có thể sử dụng xe cơ giới nhỏ, xe cải tiến, xe súc vật kéo.
Nhưng vấn đề hết sức nan giải được đặt ra là tỉnh Sơn La vẫn là một tỉnh nghèo, vậy lấy vốn đâu để phát triển giao thông? Kinh nghiệm các tỉnh, các địa phương trong cả nước là thực hiện phương châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Đối với tỉnh Sơn La, sự trợ giúp của Trung ương, của tỉnh là cơ bản. Đường quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ phải là vốn của Nhà nước, của tỉnh, của các dự án hỗ trợ quốc tế. Đường liên thôn, liên bản thực hiện Nhà nước hỗ trợ vốn, đồng bào đóng góp ngày công...
b. Phát triển thông tin - bưu chính, viễn thông.
Trong thời đại ngày nay, thông tin trở thành yếu tố hết sức quan trọng. Thông tin giúp cho các chủ thể kinh doanh có cơ sở để lựa chọn, nắm bắt thời cơ, từ đó điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất- thông tin đã trở thành hàng hóa đặc biệt. Để chống “mù” về văn hóa, thông tin ở vùng sâu, vùng xa trên địa bàn tỉnh cần thực hiện các bước sau:
- Cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới các tổng đài và mạng lưới thông tin ở thị xã, thị trấn đảm bảo nhu cầu thông tin liên lạc nội vùng, trong nước và quốc tế ngày càng cao.
- Sớm xây dựng các trung tâm thông tin kinh tế, thương mại, dịch vụ nhằm cung cấp đầy đủ các thông tin chính xác, kịp thời của thị trường trong nước và quốc tế, nối mạng với các thông tin trong nước và thế giới.
- Phấn đấu xây dựng và phát triển hoàn chỉnh mạng lưới thông tin đến hầu hết các xã; tổ chức, xây dựng mạng lưới truyền thanh xã, thôn, bản đặc biệt chú ý các xã vùng sâu, vùng xa, biên giới, đáp ứng được nhu cầu thông tin nhanh chóng, kịp thời.
c. Mạng lưới điện và nước phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, không có điện thì không có phát triển công nghiệp chế biến, dịch vụ; không có nước thì không có phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa và cải thiện sinh hoạt của nhân dân. Vì vậy, tỉnh Sơn La cần ưu tiên đưa điện lưới quốc gia đến thị xã, các huyện lỵ, thị trấn; các xã vùng cao dân cư thưa thớt, địa hình khó khăn hiểm trở, chủ yếu phát triển thủy điện nhỏ để đủ phục vụ cho từng thôn, bản, phù hợp với việc quản lý; kết hợp thủy điện với thủy lợi, xây dựng các hồ, đập vừa và nhỏ là phù hợp và hiệu quả nhất. Nâng cao hệ thống cung cấp nước sạch đặc bỉệt là cho vùng núi cao.
V- Phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ và đội ngũ lao động.
Ở tỉnh Sơn La, giáo dục đào tạo tuy có một số tiến bộ so với nhiều năm trước đây, nhưng nói chung còn đang ở tình trạng thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Ở các huyện, xã vùng cao hiện tượng thiếu giáo viên là phổ biến, trường lớp tạm bợ, cơ sở vật chất nghèo nàn, học sinh bỏ học cũng không ít, cấp học càng cao thì tỷ lệ bỏ học càng nhiều.
Nguyên nhân của thực trạng giáo dục thấp kém là do: đặc điểm địa hình phức tạp, hiểm trở, đời sống kinh tế của nhân dân các dân tộc thấp kém, dân cư cư trú thưa thớt, điều kiện học tập khó khăn, thậm chí có không ít gia đình thiếu cả dầu thắp sáng cho con em học tập. Cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện dạy học của các trường, lớp quá nghèo nàn, không đủ điều kiện để dạy và học bình thường. Đời sống giáo viên khó khăn, tiền lương không đủ cho nhu cầu sinh hoạt tối thiểu. Hơn nũa, giáo viên vừa thừa về số lượng vừa yếu về trình độ, giáo viên ở miền xuôi lên miền núi lại không yên tâm công tác lâu dài, nhiệt tình trong chuyên môn giảm sút. Nền kinh tế còn mang nặng tính tự cấp, tự túc, sản xuất thủ công, lạc hậu, phân tán...nên kỹ thuật sản xuất, lao động chưa đòi hỏi cấp bách phải phải có trình độ học vấn cao. Ngoài ra, do chính sách sử dụng cán bộ, sử dụng lao động đã qua đào tạo ở tỉnh còn hạn chế, chưa sử dụng hoặc sử dụng chưa đúng một số lao động có đào tạo, sử dụng không đúng người, đúng việc trong khi đó lực lượng lao động phức tạp còn thiếu nhiều. Vậy muốn đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế bền vững thì vấn đề giáo dục, đào tạo là một trong những vấn đề phải được tỉnh đặt lên hàng đầu cả trong trước mắt cũng như lâu dài. Để thực hiện điều đó, cần thực hiện những giải pháp sau:
- Đa dạng hóa các hình thức đào tạo các cấp học, thực hiện xã hội hóa giáo dục và đào tạo; chủ yếu là thực hiện hình thức các trường công lập, nhưng cũng khuyến khích phát triển hình thức trường dân lập, vì thu nhập của nhân dân còn thấp nên hình thức trường dân lập chủ yếu là các “trường làng, giáo làng”; duy trì, củng cố các trường bổ túc văn hóa; khuyến khích các cấp, các ngành, các cơ quan... tập trung mọi nguồn lực để phát triển văn hóa, giáo dục như “chương trình phối hợp xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học”.
- Cần quy hoạch, bồi dưỡng cán bộ trong vùng phù hợp với đặc điểm, tập quán, tâm sinh lý của nhân dân trong vùng. Muốn vậy, phải có kế hoạch đào tạo nguồn, phải lựa chọn được tài năng trẻ là người dân tộc. Muốn lựa chọn đúng, tốt thì phải tạo điều kiện cho mọi trẻ em được đi học. Ở tỉnh Sơn La, do kinh tế yếu kém, thu nhập thấp, khó có điều kiện học tập, vì vậy vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, giải pháp có tính chiến lược là duy trì, mở rộng và phát triển mạnh hệ thống các trường dân tộc nội trú, bán trú từ xã đến tỉnh. Vấn đề đặt ra là sự tuyển chọn học sinh vào hệ thống này phải đúng “ địa chỉ”, phù hợp nhu cầu từng địa phương, đúng “ đối tượng”.
- Tiếp tục củng cố, hoàn thiện thêm cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện dạy học hiện đại; mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng học sinh dân tộc nội trú. Học sinh học lên các cấp, các lớp đều phải thi, đạt trình độ mới cho lên lớp, lên cấp. Tránh tâm lý ỷ lại, tự ty, mặc cảm là người dân tộc ít người không học giỏi được.
- Phương châm là đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tại chỗ là chính, nhưng tỉnh cũng cần phải có những chính sách thu hút cán bộ có chuyên môn giỏi từ miền xuôi lên công tác lâu dài. Chính sách tiền lương phải thỏa đáng với điều kiện công tác khó khăn ở miền núi, tạo điều kiện để cán bộ yên tâm công tác, nhiệt tình và trách nhiệm.
- Cần có cơ chế, chính sách và giải pháp để nâng cao năng lực tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới cho nông dân và công nhân nông nghiệp qua các chương trình học tập, huấn luyện thiết thực, qua các chương trình thông tin, phổ biến kiến thức khoa học công nghệ trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Tăng cường vai trò của Nhà nước đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo của tỉnh. Nhà nước đầu tư vốn cho việc thự hiện các giải pháp phát triển giáo dục của tỉnh. Đó là đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học; đào tạo và đào tạo lại đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục.
VI- Huy động và sử dụng hợp lý các nguồn vốn cho phát triển sản xuất.
Vốn là yếu tố hết sức quan trọng trong việc hình thành và phát triển sản xuất ở tỉnh Sơn La. Không có vốn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển giao thông, cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực.
Để đẩy nhanh và phát triển bền vững quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại tỉnh, đòi hỏi một lượng vốn hết sức to lớn và cấp bách. Để đáp ứng nhu cầu vốn đó cần phải:
- Tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả cao nhất vốn đầu tư của Nhà nước cho tỉnh.
- Huy động vốn đầu tư trong nước: về cơ bản và lâu dài thực hiện nhân dân làm là chính với sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước; huy động, khơi dậy mọi nguồn lực nội sinh để tỉnh tự đầu tư phát triển; huy động vốn phải gắn liền với việc phân phối, sử dụng vốn; lấy hiệu quả kinh tế-xã hội làm tiêu thức để lựa chọn, đánh giá các chương trình, dự án phát triển kinh tế- xã hội.
- Tín dụng nhà nước đối với tỉnh trước hết phải có lãi suất ưu đãi đặc biệt, chủ yếu là vốn trung và dài hạn, vì quy trình sản xuất cây, con trong nông - lâm nghiệp kéo dài, kết hợp với việc hướng dẫn, giúp đỡ họ có kỹ thuật sản xuất, kinh doanh. Cần có chính sách tín dụng thỏa đáng, cho phép các mô hình kinh tế trang trại được vay nhiều vốn hơn. Khuyến khích đồng bào và các doanh nghiệp bỏ vốn mở rộng sản xuất kinh doanh.
- Tìm mọi cách nắm bắt thời cơ để tranh thủ, thu hút nguồn vốn nước ngoài. Nhà nước nên có chính sách đầu tư riêng, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư vào tỉnh để khai thác các tiềm năng kinh tế miền núi. Mặt khác, Nhà nước dành khoản viện trợ không hoàn lại để đẩy nhanh phát triển kết cấu hạ tầng, nâng cao dân trí và đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chủ yếu là tiếp nhận vốn FDI, bởi vì đi cùng với vốn là công nghệ, kỹ thuật, việc làm, đào tạo cán bộ kỹ thuật chuyên gia và mở rộng thị trường...Ngoài ra, còn cần chú ý thu hút vốn ODA.
VII- Phát triển khoa học- công nghệ.
Khoa học - công nghệ là một nhân tố hết sức quan trọng và không thể thiếu được trong phát triển sản xuất. Yếu tố cơ bản nhất để tăng năng suất lao động là cải tiến kỹ thuật, áp dụng những thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến vào sản xuất. Ở tỉnh Sơn la, do sự thống trị lâu đời của kinh tế tự nhiên nên nhận thức và thực hiện công tác khoa học - kỹ thuật quá yếu kém, khoa học kỹ thuật chưa gắn với sản xuất. Vì vậy, phải tăng cường phát triển khoa học - công nghệ trong việc thúc đẩy nhanh và bền vững quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng.
Chiến lược kinh tế- xã hội của tỉnh là sử dụng có hiệu quả cải tiến công nghệ hiện có, tranh thủ mọi khả năng, thời cơ tiếp thu công nghệ tiên tiến, hiện đại, kết hợp sự kế thừa kinh nghiệm lâu đời, truyền thống của miền núi với thành tựu mới nhất của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại. Để thực hiện chiến lược này, cần tập trung giải quyết các vấn đề sau:
- Tuyên truyền giác ngộ để cho cán bộ, nhân viên nhận thức đúng về vai trò của khoa học - công nghệ là “ động lực”, là “then chốt” cho phát triển sản xuất.
- Tiến hành xây dựng kế hoạch phát triển khoa học- công nghệ phù hợp và có tính khả thi cao trong từng thời kỳ.
- Khoa học - công nghệ thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện đa dạng hóa ngành nghề, cây trồng, vật nuôi theo hướng phát huy tiềm năng thế mạnh của tỉnh. Cụ thể;
+ Lai tạo, tuyển chọn, nhân giống các cây, con có năng suất chất lượng, vừa có giá trị kinh tế cao, phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng, tiểu vùng.
+ Về canh tác: cần khuyến khích, ưu đãi đối với những đơn vị và cá nhân thực hiện sự chuyển hướng sang “ công nghệ canh tác mới” hay “ công nghệ sạch” hoặc phương thức canh tác bền vững với một quy trình khép kín từ khâu làm đất trồng, chăm sóc, quản lý các dư lượng có hại đối với sản phẩm đếm thu hoạch, bảo quản.
Đối với việc trồng cây cao su trên địa bàn tỉnh Sơn La: Có thể trồng xen cây họ đậu, lúa, rau màu giữa hàng cao su trong ba năm đầu.
Trồng cỏ xen canh phục vụ chăn nuôi gia súc ăn cỏ
Ngày 17.02.2008, tỉnh Sơn La đã có buổi làm việc với Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam; trong Biên bản ghi nhớ đã thống nhất dự án chăn nuôi bò và trồng cỏ xen canh "Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam cho Công ty cổ phần cao su Sơn La vay vốn với lãi suất 0% để tạo điều kiện cho công nhân của công ty phát triển chăn nuôi bò thịt và trồng cỏ xen canh, được triển khai trong năm 2008".
Trồng cỏ được sử dụng rộng rãi để chống xói mòn đất, ngoài việc dùng làm thức ăn cho gia súc trong chăn nuôi, còn có thể tăng độ phì nhiêu cho đất và giảm thiểu ô nhiễm môi trường; nhờ nó có bộ rễ đan xen vào nhau phát triển rất nhanh, cắm thẳng đứng, sâu vào đất từ 3- 4 mét. Chúng còn có khả năng hấp thụ các loại khoáng chất có độc tính thải ra từ nguồn phân bón, thuốc bảo vệ thực vật có trong nguồn nước, trong đất và làm cho đất tơi xốp, tăng độ phì nhiêu. Hầu hết các giống cỏ cao sản đều có sức tăng trưởng nhanh, chịu được nóng, chịu hạn tốt và thích hợp với nhiều loại đất.
Trồng xen cây lúa cạn ngắn ngày năng suất cao
Trồng xen cây đậu tương, lạc năng suất cao
Biện pháp canh tác trồng xen đậu, lạc trong vườn cao su đã góp phần làm tăng thu nhập cho người dân. Cao su trong thời gian này chưa có tán, rễ ăn sâu, còn lạc có rễ ăn nông nên khả năng sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất vài chục tạ/ha. Thu hoạch xong, bà con còn có thể trồng xen bắp (ngô) và cây trồng khác để luân canh. Hiệu quả thu được từ mô hình này có thể lên tới hơn 10 triệu đồng/ha/năm. Đây cũng là một trong những biện pháp tiết kiệm công làm cỏ, xới đất. Ngoài hiệu quả thu lợi từ sản phẩm, bề mặt đất có lạc che phủ còn có tác dụng tích cực trong việc bảo vệ đất, chống xói mòn, rửa trôi trong mùa mưa. Sau khi thu hoạch lạc, chân đất đã được bổ sung một lượng mùn đáng kể nhờ xác cây đậu, lạc. Cao su sinh trưởng tốt hơn vì thu được hàm lượng dinh dưỡng từ thân và rễ cây đậu và lạc.
+ Triển khai nghiên cứu và áp dụng những tiến bộ kỹ thuật công nghệ tiên tiến vào sản xuất nhằm vừa đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường, vừa mang tính đồng bộ các khâu như tìm tòi, tuyển chọn, bồi dưỡng giống, nhân giống, kỹ thuật canh tác, nuôi trồng, chăm sóc, phòng chống dịch bệnh, thu hoạch, vận chuyển, chế biến, bảo quản, phân loại, kiểm tra quản lý chất lượng, tiếp thị, tìm kiếm thị trường...
+ Khoa học - công nghệ phải đi sâu nghiên cứu hệ sinh thái trong từng vùng, từng tiểu vùng( cả về thổ nhưỡng, khí hậu, địa hình...) nhằm xây dựng cơ cấu kinh tế, xác định loại cây trồng phù hợp ở từng địa bàn, từng hộ gia đình.
- Phải tăng vốn đầu tư cho phát triển khoa học - công nghệ.
- Phát triển mạnh các Viện hoặc các trung tâm nghiên cứu về miền núi, trong đó, chú ý nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ nhằm phục vụ cho sự nghiệp phát triển khoa học - công nghệ miền núi.
- Đẩy mạnh việc đào tạo cán bộ khoa học - công nghệ.
- Phải sử dụng cán bộ khoa học- công nghệ đúng việc, đúng nghề; đồng thời, phải có chính sách tiền lương, tiền thưởng thỏa đáng, khuyến khích phát triển mạnh hoạt động khoa học - kỹ thuật công nghệ ở tỉnh.
VIII- Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước.
Vai trò kinh tế của Nhà nước đối với phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh Sơn La có ý nghĩa hết sức to lớn. Vai trò được thể hiện thông qua việc xây dựng, hoàn thiện và thực hiện tốt một số chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước đối với nông nghiệp nông thôn vùng núi phía Bắc.
1. Chính sách đầu tư
- Nhà nước tiếp tục có chính sách đầu tư đặc biệt: duy trì và nâng cao tỷ lệ đầu tư vốn ngân sách, tập trung ưu tiên để xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội có trọng điểm.
- Thực hiện phương thức đầu tư theo chương trình, dự án, với luận chứng kinh tế - kỹ thuật có tính hiệu quả kinh tế hoặc kinh tế- xã hội cao đi đôi với chống thất thoát vốn. Ví dụ như các chương trình: định canh, định cư với xây dựng vùng kinh tế mới; phủ xanh đất trống, đồi, núi trọc; giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo...
- Nhà nước tạo lập đựợc môi trường đầu tư thuận lợi nhằm khuyến khích thu hút vốn đầu tư của mọi thành phần kinh tế trong tỉnh, các tổ chức và tư nhân trong và ngoài nước vào tỉnh. Ví dụ như chính sách miễn, giảm thuế; chính sách lãi suất ưu đãi vốn cho vay.
2. Chính sách thị trường, giá cả đảm bảo thực hiện lưu thông hàng hóa và tiêu thụ sản phẩm đối với vùng núi phía Bắc.
Để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh và bền vững ở tỉnh Sơn La, Nhà nước cần: Phát triển mạnh thị trường Nhà nước thông qua việc cung cấp các yếu tố đầu vào và đảm bảo thị trường đầu ra với giá ổn định theo nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Nhà nước nghiên cứu và có các chính sách miễn, giảm thuế cụ thể đối với sản xuất, lưu thông và xuất - nhập khẩu hàng hóa của tỉnh. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào việc hình thành giá cả mà để chúng tự hình thành theo quan hệ cung cầu trên thị trường. Tuy nhiên, trong những trường hợp, những tình thế đặc biệt, Nhà nước cần phải chủ động kiềm chế những biến động về giá bất lợi đối với người sản xuất, đối với nền kinh tế quốc dân bằng các biện pháp điều tiết sản xuất, điều tiết quan hệ cung cầu...
3. Chính sách cán bộ.
Việc quy hoạch, đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân tài cho con em các dân tộc sinh sống tại địa bàn tỉnh là nhiệm vụ có tính chiến lược, lâu dài. Để thực hiện tôt chính sách cán bộ đối với tỉnh, phải thực hiện các giải pháp sau:
- Thực hiện công tác quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng và sử dụng cán bộ dân tộc từ cơ sở đến trung ương, tức là phải đề ra được nhu cầu từng loại cán bộ trong từng thời kỳ theo mục tiêu, chiến lược cán bộ chung của cả nước và việc đào tạo, sử dụng cán bộ phải tương ứng với tỷ lệ dân số của từng dân tộc.
- Trên cơ sở quy hoạch đó, Nhà nước cần có kế hoạch cụ thể xây dựng các trường học để tạo nguồn cán bộ cho miền núi. Đặc biệt tập trung xây dựng và mở rộng quy mô hệ thống các trường dân tộc nội trú từ xã cho tới tỉnh.
- Nghiên cứu, bổ sung các chính sách đãi ngộ thích đáng đối với cán bộ người dân tộc, cán bộ là người miền xuôi lên công tác tại tỉnh, đặc biệt là các cán bộ công tác tại vùng cao, vùng sâu. Các chính sách đó phải kích thích cán bộ yên tâm công tác và phát huy hết mọi năng lực cống hiến cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
4. Thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo.
- Phải giao đất, giao rừng; tạo vốn đặc biệt ưu đãi; phát triển ngành, nghề; hướng dẫn trợ giúp kỹ thuật nuôi, trồng; bao tiêu sản phẩm và trợ giá đối với các đối tượng đói nghèo ở vùng núi cao, vùng sâu. Trước mắt, các cấp chính quyền địa phương phải điều tra, xác định hộ đói nghèo, đặc biệt các hộ thuộc diện có công với cách mạng...để thực hiện chính sách trợ cấp của Nhà nước, tạo điều kiện ổn định dần cuộc sống cho họ.
- Các cơ sở đào tạo và trung tâm dạy nghề của Nhà nước thực hiện việc đào tạo miễn phí đối với con em các hộ đói nghèo; hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp nhận tuyển, đào tạo con em hộ đói nghèo và tạo việc làm cho họ. Miễn phí và thậm chí cấp học bổng, cấp vở viết, cho mượn sách đối với con em hộ đói nghèo ở các cấp học; ưu tiên học bổng trong các trường chuyên nghiệp; ưu tiên tuyển chọn vào trường dân tộc nội trú và các trường đại học, cao đẳng, trung học và dạy nghề của Nhà nước.
- Cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho mọi thành viên trong gia đình của hộ đói nghèo, đặc biệt và trước hết ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
5- Các giải pháp về tổ chức chỉ đạo, quản lý Nhà nước.
- Phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý trong quản lý nhà nước đối với vấn đề nông nghiệp. Hoàn thiện chiến lược phát triển, quy hoạch của ngành nông nghiệp trong thời kỳ chiến lược, gắn với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Trên cơ sở các chiến lược, các quy hoạch, tiến hành xây dựng các kế hoạch trung hạn và ngắn hạn, bố trí sản xuất theo không gian và thời gian.
- Hỗ trợ việc quy hoạch các vùng sản xuất tập trung chuyên môn hóa , các vùng sản xuất đặc sản có giá trị cao của tỉnh.
- Chính phủ, các bộ, ngành phải chỉ đạo chặt chẽ việc tuân thủ, thực hiện các chiến lược, quy hoạch một cách nghiêm ngặt; kiên quyết xử lý và xử lý nghiêm minh đối với những sai phạm; thường xuyên kiểm tra, giám sát và điều chỉnh kịp thời, phù hợp với yêu cầu và khả năng của từng giai đoạn, từng thời điểm. Giải pháp này sẽ góp phần hạn chế những lãng phí, tổn hại, kém hiệu quả trong đầu tư do tính tự phát, tính tùy tiện trong phát triển, qua đó nâng cao giá trị gia tăng.
6. Các chính sách xã hội khác.
- Tuyên truyền, tổ chức thực hiện tốt chính sách kế hoạch hóa gia đình để giảm sự gia tăng dân số, nâng cao đời sống của nhân dân.
- Tổ chức, tạo điều kiện để nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, như: tổ chức mạng lưới thông tin, tuyên truyền, văn hóa, thể thao, phát thanh, truyền thanh, truyền hình...
IX- Đối với các hiệp hội ngành hàng.
- Cần phát huy hơn nữa vai trò chức năng của các hiệp hội ngành hàng, đặc biệt là trong các lĩnh vực sau:
+ Phối hợp có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường trong nước và ngoài nước;
+ Thống nhất nhận thức và hành động, tránh việc tranh mua, tranh bán, đầu cơ gây tổn hại đến lợi ích chung;
+ Bảo vệ lẫn nhau chống những hành vi độc quyền, tranh chấp thị trường, xâm phạm lợi ích doanh nghiệp, lợi ích của người sản xuất; giúp đỡ nhau trong các vấn đề vốn, đào tạo, môi giới, tư vấn kỹ năng quản lý doanh nghiệp và áp dụng công nghệ mới...
- Cần củng cố và hoàn thiện để các hiệp hội thực sự là cầu nối giữa các doanh nghiệp, người sản xuất và Nhà nước, cùng tham gia với cơ quan Nhà nước trong việc đưa ra các chủ trương, chính sách, các văn bản pháp quy có liên quan đến nâng cao giá trị gia tăng hàng nông sản mà hội viên là đối tượng thi hành.
X- Đẩy mạnh công tác khuyến nông
Để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu cây trồng bền vững, hội khuyến nông của tỉnh có thể thực hiện các biện pháp sau:
- Trạm khuyến nông tỉnh và các xã ký hợp đồng với phòng vật tư nông nghiệp để đầu vụ lấy phân bón giao cho người dân, cuối vụ người dân sẽ thanh toán tiền.
- Đối với những gia đình khó khăn, không có tiền để mua giống, hội khuyến nông có thể hỗ trợ giống, đồng thời hướng dẫn cho người dân cả kỹ thuật trồng và chăm sóc.
- Hội khuyến nông xã cố gắng bố trí để mỗi xã, mỗi bản có 1 khuyến nông viên. Hàng tháng, các xã, các bản sẽ triệu tập 1 cuộc họp hoặc các khuyến nông viên sẽ đi đến từng hộ để truyền đạt lại kế hoạch của cấp trên; phổ biến những kiến thức về kỹ thuật cho người dân; kịp thời nắm bắt tình hình, báo cáo lên cấp trên những vấn đề phát sinh để có những biện pháp xử lý kịp thời. Đặc biệt, các khuyến nông viên là người dân tộc thiểu số sẽ hiểu rõ hơn tâm lý của người dân vùng sâu, vùng xa; có điều kiện để gần gũi, giúp đỡ người dân; để vận động người dân áp dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật mới…
- Thành lập các ban vận động chủ yếu là các cán bộ lão thành, các cán bộ đã về hưu có nhiệt tình và kinh nghiệm, có tiếng nói trong các bản, xã để tuyên truyền, vận động người dân thay đổi nhận thức: không ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước mà phải tự mình sản xuất, “ dựa vào sức mình là chính”…
Phần thứ sáu
KẾT LUẬN
Trong quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, để đưa đất nước đi lên theo kịp các nước có nền công nghiệp phát triển, chúng ta phải thực hiện chiến lược công nghiệp hóa mới, xây dựng một cơ cấu kinh tế thích hợp với điều kiện nước ta hiện nay và với tình hình quốc tế hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới.
Trong những năm đổi mới vừa qua, sự tiến bộ về kinh tế - xã hội cùng với sự mở rộng và tăng cường hợp tác, phát triển với các nước và các tổ chức quốc tế cho phép chúng ta đẩy tới một bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm tăng nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm, cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đối với nước ta, đây là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; đồng thời thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực, giữ được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ quyền và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa
Việc đẩy tới một bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, coi công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới, là hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế của nước ta. Nó không hề mâu thuẫn với chủ trương tiếp tục đấy mạnh phát triển nông nghiệp. Thị trường nông nghiệp đóng vai trò hết sức to lớn đối với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì vậy phát triển nông nghiệp vẫn là một trong những quan tâm hàng đầu, có vai trò quyết định đối với việc ổn định tình hình kinh tế - xã hội, tạo cơ sở cho phát triển công nghiệp, xây dựng một cơ cấu kinh tế mới, tiến bộ, năng động và có hiệu quả hơn. Đối với nông nghiệp, điều quan trọng là phải giải quyết có hiệu quả vấn đề lương thực; chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi hợp lý, bền vững; chú ý khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt cho nông dân phát triển sản xuất theo cơ cấu đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu trong nước, và gia tăng mạnh mẽ hàng nông sản xuất khẩu, phục vụ thiết thực cho sự nghiệp công nghiệp hóa.
Ở một nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua nhiều năm chiến tranh tàn phá như nước ta, có tình trạng chênh lệch khá rõ về kinh tế và văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng, trung du và miền núi, giữa miền Nam và miền Bắc. Vì thế, quá trình tiến hành công nghiệp hóa, chúng ta không thể không chú trọng đến các vùng còn lạc hậu và quá lạc hậu; không thể không đầu tư vốn cho nông thôn và miền núi; không thể không gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nông nghiệp và kinh tế nông thôn để góp phần xóa đói, giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc, các vùng miền; nhanh chóng tạo ra sự phát triển kinh tế - văn hóa và xã hội đồng đều trong cả nước.
Tuy nhiên, giải quyết đói nghèo là một vấn đề có tính xã hội, do đó mọi nỗ lực đầu tư của Nhà nước lấy từ kinh phí và ngân sách quốc gia dù có tăng tiến bao nhiêu cũng không thể đáp ứng hết được yêu cầu to lớn của xóa đói, giảm nghèo trên quy mô toàn xã hội. Do vậy, cần thiết phải huy động vào phong trào quần chúng có tính chất xã hội sâu rộng này, sự tham gia đóng góp, sự hỗ trợ của mọi lực lượng, mọi tổ chức, mọi địa phương, mọi người, mọi nhà về vật chất và tinh thần. Cũng rất cần phải có sự hỗ trợ, giúp đỡ và hợp tác của cộng đồng quốc tế và khu vực mà nước ta đang có quan hệ ngày một rộng rãi hơn. Chỉ có như vậy, các chương trình, dự án tạo việc làm, xây dựng kết cấu hạ tầng, kinh tế, kỹ thuật, hỗ trợ vốn, công nghệ, mở mang dân trí, cải thiện điều kiện ăn, ở,chăm sóc y tế, sức khỏe cộng đồng, tăng phúc lợi, bảo trợ xã hội cho cộng đồng và xóa đói, giảm nghèo mới có thể thực hiện thắng lợi.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Phát triển kinh tế hàng hóa trong nông thôn các tỉnh vùng núi phía Bắc Việt Nam- Thực trạng và giải pháp (Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2000)
2- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới ( Nhà xuất bản Chính trị quốc gia)
3- Giáo trình Kinh tế nông nghiệp ( Nhà xuất bản Đại học Kinh Tế Quốc Dân, 2006)
4- Giá trị gia tăng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam- Thực trạng và giải pháp nâng cao.
5- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21 (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia).
6- Phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi Việt Nam (Nhà xuất bản văn hóa dân tộc, 2007).
7- Gắn bó cùng nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong đổi mới (Nhà xuất bản nông nghiệp, 2005)
8- Giáo trình Kinh tế phát triển (Nhà xuất bản Lao động- xã hội, 2005).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phát triển cây cao su - hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế bền vững trên địa bàn tỉnh sơn la.doc