Quy định trong hiệp định nông nghiệp của gatt/wto về trợ cấp nông sản

LỜI MỞ ĐẦU Nông nghiệp là một ngành phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố thiên nhiên như đất đai điều kiện khí hậu, môi trường Đây cũng là lĩnh vực bị bóp méo thương mại nhiều nhất trong thương mại toàn cầu. Do đó, ngày nay, xu thế bảo hộ và trợ cấp nông nghiệp tăng theo trình độ phát triển kinh tế. Điều này đã gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực như khuyến khích sản xuất trong nước quá mức, tác động tới giá thế giới, làm mất tính cạnh tranh dẫn tới thị trường nông sản thế giới bị bóp méo Các chuyên gia ước tính trung bình thuế quan về nông sản cao gấp 3 lần những mặt hàng khác. Do yêu cầu cấp thiết cần có một quy định chung cho thị trường nông sản, hiệp định Nông nghiệp của WTO ra đời. Hiệp định Nông nghiệp WTO (AoA) là một văn bản quan trọng đầy đủ các họat động liên quan tới thương mại nông sản. Nhiều người đều biết sản xuất và thương mại nông sản tại nhiều nước thành viên của WTO, nhất là các nước phát triển không chi mang tính kinh tế mà còn mang tính chính trị và xã hội. Do đó, các nước này có xu hướng bảo hộ cao cho sản xuất nông nghiệp trong nước. Hiệp định Nông nghiệp WTO ràng buộc các nước từng bước cam kết cắt giảm bảo hộ và làm cho thương mại nông sản công bằng hơn. Việt Nam là một nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới và có tới 70% lực lượng lao động sống bằng nghề nông, vì vậy việc tìm hiểu thấu đáo các nguyên tắc và quy định trong hiệp định Nông nghiệp WTO là hết sức cần thiết để một mặc xúc tiến tốt thương mại nông sản Việt Nam ra thị trường thế giới và quan trọng hơn là để tránh bị áp đặt những biện pháp hạn chế khả năng tiệp cận thị trường đối với hàng nông sản của ta. NỘI DUNG I. Hiệp định Nông nghiệp của GATT/WTO Giới thiệu chung Hiệp định về Nông nghiệp (Agreement on Agriculture, viết tắt là AoA) là một trong các hiệp định của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được ký kết tại Vòng đàm phán Uruguay và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1995, cũng là ngày mà WTO chính thức đi vào hoạt động. AoA tượng trưng cho sự chấm dứt một thời kỳ mà các chính sách nông nghiệp được xây dựng độc lập với GATT. Mục tiêu của Hiệp định về Nông nghiệp là tiến hành cải cách trong lĩnh vực nông nghiệp và xây dựng các chính sách nông nghiệp có định hướng thị trường sâu rộng. Hiệp định cũng nhằm nâng cao khả năng dự đoán trước các thay đổi và đảm bảo an ninh lương thực cho các nước xuất khẩu cũng như nhập khẩu. Mục tiêu trên xuất phát từ việc Nông sản là mặt hàng “nhạy cảm” trong thương mại do thương mại Nông sản đụng chạm đến lợi ích của một bộ phận đông đảo dân cư vốn có thu nhập thấp ở các nước phát triển và các nước đang phát triển. Mỗi nước đều có nhu cầu đảm bảo nguồn cung lương thực ổn định trong hoàn cảnh thế giới thường xuyên có biến động về thu hoạch và các nguy cơ nạn đói rình rập. Để đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu trên, Hiệp định có đề cập đến 2 công cụ chủ yếu nhằm cho phép các quốc gia hạn chế thỏa thuận mở cửa thị trường và cắt giảm các hình thức trợ cấp cho hàng Nông sản mà các nước là thành viên WTO đã ký kết, bao gồm: - Các biện pháp tại cửa khẩu để kiểm soát nhập khẩu nông sản. - Trợ cấp nông nghiệp (trợ cấp xuất khẩu và các loại trợ cấp trong nước đối với nông nghiệp nhằm ổn định thu nhập và đời sống của người làm nông nghiệp). Ngoài ra, khi nhắc đến mở cửa thị trường nông sản tức là việc giảm bớt các “rào cản” về vật chất và thủ tục để hàng hóa nước ngoài có thể tiếp cận thị trường nước nhập khẩu một cách thuận lợi. Theo Hiệp định Nông nghiệp, việc mở cửa thị trường nông sản đồng nghĩa với việc: Giảm thuế nhập khẩu (và không được tăng trở lại), giảm và loại bỏ các rào cản phi thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu (như hạn ngạch, quy định giá nhập khẩu tối thiểu, các loại thuế-phí liên quan đến việc nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu, các biện pháp mang tính hạn chế khác, ) Hiệp định cho phép các chính phủ khuyến khích khu vực kinh tế nông thôn, nhưng nên thông qua các chính sách ít làm biến dạng thương mại. Hiệp định còn cho phép có sự linh động trong việc thực thi các cam kết của Hiệp định. Các nước đang phát triển không cần phải giảm bớt trợ cấp hay cắt giảm thuế quan nhiều như các nước phát triển. Họ cũng có thời gian chuyển tiếp dài hơn để thực hiện các cam kết của mình. Các nước kém phát triển hoàn toàn không phải thực hiện những cam kết giống như của các nước phát triển và đang phát triển. Hiệp định cũng có những điều khoản đặc biệt giải quyết mối quan tâm của các nước phải nhập khẩu lương thực và các nước kém phát triển. Nội dung chính của AoA 2.1 Các khoản mục trong AoA Hiệp định AoA gồm 13 phần, 21 điều khoản và 5 phụ lục Phần I: Điều 1: Định nghĩa các thuật ngữ Điều 2: Diện sản phẩm Phần II: Điều 3: Xây dựng những nhượng bộ và cam kết Phần III: Điều 4: Tiếp cận thị trường Điều 5: Tự vệ đặc biệt Phần IV: Điều 6: Cam kết về hỗ trợ trong nước Điều 7: Các nguyên tắc chung về hỗ trợ trong nước Phần V: Điều 8: Cam kết về cạnh tranh xuất khẩu Điều 9: Cam kết về trợ cấp xuất khẩu Điều 10: Ngăn chặn việc trốn tránh các cam kết về trợ cấp xuất khẩu Điều 11: Các sản phầm cấu thành Phần VI: Điều 12: Các quy tắc về hạn chế và cấm xuất khẩu Phần VII: Điều 13: Kiềm chế cần thiết Phần VIII: Điều 14: Các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch thực vật Phần IX: Điều 15: Đối xử đặc biệt và khác biệt Phần X: Điều 16: Các nước kém phát triển và đang phát triển nhập lương thực chủ yếu Phần XI: Điều 17: Ủy ban về Nông nghiệp Điều 18: Rà soát việc thực hiện các cam kết Điều 19: Tham vấn và giải quyết tranh chấp Phần XII: Điều 20: Tiếp tục quá trình cải cách Phần XIII: Điều 21: Điều khoản cuối cùng Phụ lục Phụ lục 1: Diện sản phẩm Phụ lục 2: Hỗ trợ trong nước: cơ sở để miễn trừ cam kết cắt giảm Phụ lục 3: Hỗ trợ trong nước: cách tình lượng hỗ trợ tính gộp Phụ lục 4: Hỗ trợ trong nước: tính toán lượng hỗ trợ tương đương Phụ lục 5: Đối xử đặc biệt theo khoản 2, điều 4 2.2. Nội dung chính Các quy định và cam kết trong Hiệp định Nông nghiệp được xây dựng xoay quanh ba nhóm vấn đề chính được gọi là ba trụ cột (pillars). Đó là: Tiếp cận thị trường: giảm bớt các rào cản thương mại đối với hàn nông sản nhập khẩuTrợ cấp nội địa: đưa ra các quy định và cam kết quản lý trợ cấp cho sản xuất trong nước cũng như các chương trình tương tự khác, bao gồm cả các chương trình kích thích tăng giá nông sản do các trang trại bán ra hoặc các chương trình đảm bảo thu nhập cho người nông dân.Trợ cấp xuất khẩu: đưa ra các quy định và cam kết quản lý trợ cấp đối với hàng nông sản xuất khẩu hay những biện pháp tương tự khác khiến cho hàng nông sản xuất khẩu có tính cạnh tranh giả tạo trên thị trường quốc tế.

doc37 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5638 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quy định trong hiệp định nông nghiệp của gatt/wto về trợ cấp nông sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ịnh và cam kết quản lý trợ cấp đối với hàng nông sản xuất khẩu hay những biện pháp tương tự khác khiến cho hàng nông sản xuất khẩu có tính cạnh tranh giả tạo trên thị trường quốc tế. II. Hiệp định Nông nghiệp về trợ cấp nông sản Đối tượng trợ cấp của Hiệp định Nông nghiệp Trong WTO, hàng hoá được chia làm hai (02) nhóm chính: nông sản và phi nông sản. Nông sản được xác định trong Hiệp định Nông nghiệp là tất cả các sản phẩm liệt kê từ Chương I đến XXIV (trừ cá và sản phẩm cá) và một số sản phẩm thuộc các chương khác trong Hệ thống thuế mã HS (Hệ thống hài hoà hoá mã số thuế). Với cách hiểu này, nông sản bao gồm một phạm vi khá rộng các loại hàng hoá có nguồn gốc từ hoạt động nông nghiệp như: - Các sản phẩm nông nghiệp cơ bản như lúa gạo, lúa mỳ, bột mỳ, sữa, động vật sống, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, chè, rau quả tươi…; - Các sản phẩm phái sinh như bánh mỳ, bơ, dầu ăn, thịt…; - Các sản phẩm được chế biến từ sản phẩm nông nghiệp như bánh kẹo, sản phẩm từ sữa, xúc xích, nước ngọt, rượu, bia, thuốc lá, bông xơ, da động vật thô… Tất cả các sản phẩm còn lại trong Hệ thống thuế mã HS gọi là sản phẩm phi nông nghiệp (còn được gọi là sản phẩm công nghiệp). Khác biệt trong khái niệm về hàng nông sản giữa WTO và Việt Nam Theo sự phân chia có tính chất tương đối của Việt Nam, nông nghiệp thường được hiểu theo nghĩa rộng là bao gồm nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi), thuỷ sản, lâm nghiệp và diêm nghiệp. Các ngành công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản lại được gộp vào lĩnh vực công nghiệp. Theo WTO thì nông sản lại bao gồm toàn bộ sản phẩm thuộc Chương 1 đến 24 (trừ cá và sản phẩm từ cá) và một số sản phẩm thuộc các chương khác trong Hệ thống thuế mã HS của Việt Nam và không bao gồm các sản phẩm thuộc lĩnh vực thuỷ sản, lâm nghiệp và diêm nghiệp. Tại sao WTO lại phải có một hiệp định riêng về hàng hóa nông sản? Hàng nông sản vốn là nhóm mặt hàng nhạy cảm trong thương mại quốc tế. Vì vậy, không dễ đạt được thoả thuận về mở cửa thị trường và cắt giảm các hình thức trợ cấp cho loại hàng hoá này. Vậy tại sao nông sản lại được coi là loại hàng hoá “nhạy cảm” trong thương mại quốc tế? Có rất nhiều lý do về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội khiến chính sách đối với thương mại hàng nông sản trở nên đặc biệt “bảo thủ” so với đối với các loại hàng hoá công nghiệp, trong đó lý do chủ yếu được nêu ra là: Thứ nhất: Thương mại hàng nông sản đụng chạm đến lợi ích của một bộ phận dân cư vốn có thu nhập không cao ở cả các nước phát triển và các nước đang phát triển; Thứ hai: Mỗi nước đều có nhu cầu đảm bảo nguồn cung lương thực ổn định trong hoàn cảnh thế giới thường xuyên có biến động về thu hoạch và các nguy cơ nạn đói rình rập. Thứ ba: Là lĩnh vực sử dụng nhiều lao động, đặc biệt ở các nước đang phát triển, và là lực lượng đáng kể tác động đến sự ổn định chính trị, xã hội của từng quốc gia. Thứ tư: Các nước muốn thông qua nông nghiệp để bảo vệ những giá trị không đếm được, ví dụ như: bảo vệ môi trường, bảo tồn cộng đồng và cảnh quan nông thôn. Do vậy, hầu hết các nước dều có khuynh hướng bảo hộ nền sản xuất nông nghiệp của nước mình bằng cách dựng các hàng rào thuế quan thật cao, đề ra những tiêu chuẩn khắt khe, đồng thời tăng cường trợ cấp cho nông dân trong nước. Vì lẽ đó mà nông sản trở thành loại hàng hóa gặp nhiều trở ngại trong nhất trong thương mại quốc tế và là chủ đề của những cuộc tranh cãi quyết liệt tại các diễn đàn thương mại. Hiệp định AoA ra đời để cải cách thương mại nông sản và làm cho các chính sách nông nghiệp có định hướng thị trường hơn. Về dài hạn, Hiệp định nhằm nâng cao khả năng dự báo và an ninh cho các quốc gia nhập khẩu cũng như xuất khẩu. Các điều khoản về trợ cấp nông sản trong Hiệp định Nông nghiệp Hỗ trợ trong nước Hỗ trợ trong nước bao gồm các khoản hỗ trợ và trợ cấp chính phủ cho nông dân. Biện pháp hỗ trợ trong nước bóp méo thương mại do các nước giàu áp dụng tác động tiêu cực đến lợi ích xuất khẩu nông sản của các nước đang phát triển do chúng khuyến khích sản xuất quá mức và làm mất giá nông sản trên thị trường thế giới. Nhóm trợ cấp trong nước bao gồm: Trợ cấp hộp màu xanh lá cây: (trợ cấp được phép) gồm các biện pháp hỗ trợ không hoặc hầu như không gây bóp méo thương mại nên các nước được phép duy trì không giới hạn. Đặc điểm của các biện pháp hỗ trợ thuộc Hộp Xanh lá cây là do ngân sách chính phủ chi trả và không mang tính chất hỗ trợ giá. Trợ cấp “Hộp xanh lá cây” bao gồm các biện pháp trợ cấp thuộc một trong 05 nhóm xác định và phải đáp ứng đủ 03 điều kiện cụ thể như dưới đây: Nhóm 1 - Trợ cấp cho các Dịch vụ chung Ví dụ: Trợ cấp cho nghiên cứu khoa học; kiểm soát dịch bệnh; đào tạo; khuyến nông, tư vấn; kiểm tra sản phẩm vì mục đích sức khoẻ con người; tiếp thị, thông tin thị trường, tư vấn; kết cấu hạ tầng nông nghiệp (điện, đường, thuỷ lợi…) Nhóm 2 - Trợ cấp nhằm mục tiêu dự trữ an ninh lương thực quốc gia Khối lượng lương thực dự trữ phải phù hợp với các tiêu chí định trước, việc thu mua để dự trữ và thanh lý khi hết hạn dự trữ phải thực hiện theo giá thị trường. Nhóm 3 - Trợ cấp lương thực trong nước Tiêu chí để cho hưởng trợ cấp lương thực phải rõ ràng, có liên quan đến mục tiêu dinh dưỡng. Nhóm 4 - Hỗ trợ giảm nhẹ thiên tai Các khoản chi phí hỗ trợ nhằm phục hồi sản xuất nông nghiệp cho những vùng bị thiên tai như giống, thuốc BVTV, thuốc thú y, san ủi lại đồng ruộng… Nhóm 5 - Hỗ trợ trực tiếp cho người sản xuất. Hỗ trợ thu nhập (không được gắn với yêu cầu về sản xuất): Hỗ trợ tài chính của Nhà nước vào chương trình an toàn và bảo hiểm thu nhập cho nông dân (khi mất mùa hoặc mất giá); Hỗ trợ bù đắp thiệt hại do thiên tai gây ra; Hỗ trợ hưu trí cho người sản xuất nông nghiệp; Hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu thông qua chương trình chuyển các nguồn lực (đất đai, vật nuôi…) khỏi mục đích sản xuất thương mại; Hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu thông qua chương trình trợ cấp đầu tư (đầu tư nhằm khắc phục các bất lợi về cơ cấu); Hỗ trợ theo các chương trình môi trường (bù đắp chi phí sản xuất phải tăng thêm hoặc sản lượng giảm đi do thực hiện các yêu cầu về môi trường); Hỗ trợ theo các chương trình trợ giúp vùng (vùng có vị trí hoặc điều kiện bất lợi). Các điều kiện sau: Là các biện pháp không hoặc rất ít tác động bóp méo thương mại; Thông qua chương trình do Chính phủ tài trợ (kể cả các khoản đáng ra phải thu nhưng được để lại); Không có tác dụng trợ giá cho người sản xuất. Trợ cấp hộp màu xanh da trời: gồm các khoản chi trả trực tiếp từ ngân sách nhà nước mà gắn với sản xuất và thuộc các chương trình thu hẹp sản xuất nông nghiệp. Các nước không phải cam kết cắt giảm các biện pháp này. Những hình thức trợ cấp trực tiếp cho người sản xuất trong chương trình hạn chế sản xuất nông nghiệp cũng được miễn trừ cam kết cắt giảm với các điều kiện: Những trợ cấp dựa trên diện tích hoặc năng suất cố định. Trợ cấp tối đa bằng 85% hoặc ít hơn mức sản xuất cơ sở Trợ cấp trong chăn nuôi dựa trên số đầu con cố định. Đây là hình thức trợ cấp mà nhiều nước phát triển áp dụng trong chương trình hạn chế bớt sản xuất nông nghiệp. Trong khi đó tất cả các nước đang phát triển đều không có hình thức trợ cấp này. Vì vậy, mặc nhiên, loại trợ cấp này được xem là dành cho các nước phát triển. Tại vòng đàm phán Doha, các nước cũng đang yêu cầu phải giảm nhiều và tiến đến loại bỏ hình thức trợ cấp này. Trợ cấp hộp màu hổ phách: gồm các biện pháp hỗ trợ bị coi là gây bóp méo sản xuất và thương mại, vì thế các nước phải cam kết cắt giảm theo một lộ trình nhất định. Các biện pháp được xếp vào Hộp Hổ phách có thể là hỗ trợ giá, trợ cấp gắn với sản xuất, tức là tất cả biện pháp hỗ trợ trong nước mà không nằm trong Hộp Xanh lá cây và Xanh da trời. Theo qui định của hiệp định nông nghiệp, tổng mức hỗ trợ gộp AMS cho phép đối với nước đang phát triển là 10% giá trị sản lượng của sản phẩm nếu là hỗ trợ cho sản phẩm cụ thể, và là 10% giá trị sản xuất nông nghiệp cả nước nếu là hỗ trợ không theo sản phẩm cụ thể. Trên thực tế, hình thức trợ cấp “hộp hổ phách” thông dụng nhất ở các nước là các chương trình thu mua nông sản của Chính phủ để can thiệp vào thị trường. Theo quy định tại Hiệp định Nông nghiệp, thành viên WTO vẫn có thể thực hiện các trợ cấp thuộc “hộp hổ phách” nhưng mức trợ cấp phải đảm bảo 1 trong 2 điều kiện dưới đây: Trong mức tối thiểu (mức tối thiểu được tính bằng 5% trị giá sản phẩm hoặc 5% tổng trị giá sản lượng ngành nông nghiệp đối với nước phát triển và bằng 10% đối với nước đang phát triển); Không vượt mức trần cam kết (cam kết giảm tổng trị giá trợ cấp tính gộp – AMS ). Với những loại trợ cấp “hộp hổ phách”, mặc dù điều kiện áp dụng khó khăn nhưng là những trợ cấp trực tiếp và mang lại nhiều lợi ích cho nông dân và doanh nghiệp liên quan, vì thế doanh nghiệp cũng cần chú ý để đề xuất các cơ quan liên quan trong điều kiện có thể. Trợ cấp về xuất khẩu Trợ cấp xuất khẩu là các khoản chi trả của Chính phủ hoặc các khoản lợi tài chính có thể định lượng khác được cung cấp cho các nhà sản xuất trong nước hoặc các công ty xuất khẩu để hỗ trợ xuất khẩu hàng nông sản. Đây là một biện pháp trực tiếp bóp méo thương mại nông sản. Hoa Kỳ và EU là hai ví dụ điển hình về trợ cấp xuất khẩu. Điều 9, khoản 1 của Hiệp Định Nông nghiệp đã đưa ra các danh mục bao gồm hầu hết các thực tiễn trợ cấp xuất khẩu phổ biến trong lĩnh vực nông nghiệp, điển hình như: Trợ cấp xuất khẩu trực tiếp đặc trưng đối với hoạt động xuất khẩu. Bán các loại hàng nông sản tồn kho phi thương mai cho xuất khẩu với giá thấp hơn so với mức giá so sánh của các sản phẩm đó trong thị trường nội địa. Các khoản trợ cấp tài chính cho sản xuất như các chương trình của Chính phủ có yêu cầu thu thuế trên các sản phẩm, sau đó được dùng để trợ cấp xuất khẩu cho một phần nhất định của sản phẩm đó. Các biện pháp giảm chí phí khác như trợ cấp giảm chí phí tiếp thị sản phẩm cho xuất khẩu, biện pháp này có thể bao gồm các chí phí ví dụ như nâng cấp và quản lý, vận chuyển quốc tế. Trợ cấp vận tải trong nước chỉ được trợ cấp cho hàng xuất khẩu, như các trợ cấp để vận chuyển hàng xuất khẩu tới điểm gửi hàng. Các trợ cấp được gắn với sản phẩm thô và chế biến, cụ thể trợ cấp đối với nông sản như bột mỳ, nguyên liệu để sản xuất bánh quy xuất khẩu. Về nguyên tắc, WTO nghiêm cấm các hình thức trợ cấp xuất khẩu. Đối với các thành viên đang áp dụng trợ cấp xuất khẩu phải kê khai và cam kết cắt giảm cả về giá trị trợ cấp và khối lượng nông sản được nhận trợ cấp. Các nước phát triển phải cam kết giảm ít nhất 36% ( riêng New Zeland bỏ hoàn toàn trợ cấp xuất khẩu), các nước đang phát triển phải cam kết giảm ít nhất 24%. III. Tác động của Hiệp định nông nghiệp đối với các quốc gia Tác động của Hiệp định nông nghiệp của WTO (AoA) về trợ cấp nông sản đối với EU và các nước phát triển khác Mặc dù hiệp định nông nghiệp của WTO có hiệu lực từ năm 1995 nhưng cho đến giai đoạn 2000-2002 EU và các nước phát triển khác vẫn duy trì mức trợ cấp nông nghiệp cao. Người sản xuất nông nghiệp ở các nước thành viên khối OECD nói riêng đã nhận được vào khoảng 230 tỷ USD trong hai năm 2000-2002, chiếm gần 46% giá trị sản lượng nông nghiệp tính theo giá thế giới, trong đó 63% số tiền hỗ trợ này có được nhờ giá nông sản trong nước cao hơn giá thế giới do tác động của việc bảo hộ bằng thuế nhập khẩu, số 37% còn lại có được nhờ các khoản trợ cấp trực tiếp từ ngân sách chính phủ. Trong khối EU, riêng hỗ trợ cho sản xuất thịt bò đã chiếm tới 84% giá trị sản xuất nông nghiệp toàn khối. Hay như Nhật bản hỗ trợ cho nông dân trồng lúa với mức tương đương 700% giá trị sản xuất nông nghiệp của nước này tính theo giá thế giới, khiến cho không nước nào có thể xuất khẩu gạo vào Nhật bản. Mức hỗ trợ ước tính mà người sản xuất đường ở các nước OECD nhận được đã tăng từ 5,8 tỷ USD trong giai đoạn 1986-1988 lên tới 7,1 tỷ USD vào năm 2003. Trợ cấp xuất khẩu của các nước phát triển là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng rớt giá của nông sản trên thị trường thế giới những năm 1980. Vì thế, trong vòng Uruguay, các nước phát triển đã không thể lẩn tránh được yêu cầu phải cắt giảm trợ cấp xuất khẩu trực tiếp. Hoa Kỳ đã chấm dứt chương trình trợ cấp xuất khẩu quy mô lớn đối với lúa mỳ kể từ khi kết thúc vòng Uruguay, tuy nhiên vẫn duy trì mức độ trợ cấp xuất khẩu đáng kể đối với bột sữa gầy. Mặc dù EU đã tuân thủ đầy đủ cam kết cắt giảm trợ cấp xuất khẩu, nhưng khối này vẫn đứng đầu thế giới về giá trị trợ cấp xuất khẩu; không những thế, những biện pháp trợ cấp xuất khẩu trực tiếp trước đây lại được thay thế bằng những hình thức hỗ trợ trong nước thuộc diện miễn trừ. Kể từ khi vòng đàm phán Doha có những dấu hiệu khởi sắc từ tháng 10 năm 2005 với việc Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Rob Portman đưa ra đề xuất về trợ cấp nồng nghiệp. Kế hoạch của Hoa Kỳ gồm hai giai đoạn Giai đoạn 1 diễn ra trong 5 năm với việc cắt giảm đáng kể các biện pháp hỗ trợ gây bóp méo thương mại và thuế nhập khẩu, đồng thời bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu vào năm 2010. Giai đoạn 2 cũng kéo dài trong 5 năm, tuy nhiên chỉ bắt đầu đúng 5 năm sau khi giai đoạn 1 kết thúc, hướng tới mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ tất cả các biện pháp hỗ trợ trong nước và thuế quan gây bóp méo thương mại còn lại trong lĩnh vực nông nghiệp. Khoảng nghỉ 5 năm giữa hai giai đoạn được thiết kế để có điều kiện rà soát lại các tác động của giai đoạn cải cách ban đầu nhằm có sự điều chỉnh thích hợp cho giai đoạn thực hiện kế tiếp. Về hỗ trợ trong nước, Hoa Kỳ đề xuất cắt giảm 60% Tổng hỗ trợ gộp (Total AMS) trong Hộp Hổ phách của nước này. Đồng thời, để nhất quán với công thức cắt giảm theo từng lớp của khuôn khổ để xây dựng các nguyên tắc đàm phán trong nông nghiệp, Hoa Kỳ đưa ra kiến nghị cắt giảm dưới đây trong Hộp Hổ phách nhằm tạo thế cân bằng bình đẳng hơn giữa hai nền kinh tế có trợ cấp lớn nhất thế giới là Hoa Kỳ và EU (nghĩa là giảm mức độ chênh lệch về tổng hỗ trợ gộp giữa hai bên từ tỷ lệ 4:1 xuống còn 2:1) Bảng 1: Tỷ lệ cắt giảm Tổng hỗ trợ gộp Mức AMS ràng buộc cuối cùng sau khi kết thúc giai đoạn thực hiện theo quy định của Hiệp định Nông nghiệp (tỷ USD) Tỷ lệ cắt giảm > $25 ( có thể hiểu là đề cập đến EU và Nhật Bản) 83% $12-$25 60% $0- $12 37% Việc cắt giảm Tổng mức hỗ trợ bóp méo thương mại (bao gồm mức Tổng hỗ trợ gộp cam kết đạt được sau khi kết thúc lộ trình thực hiện theo Hiệp định Nông nghiệp trước đây (Final Bound Total AMS), cộng với các hỗ trợ thuộc ngưỡng cho phép trong Hộp Hổ phách và các hỗ trợ thuộc Hộp Xanh lơ trong giai đoạn cơ sở nhất định) cũng được Hoa Kỳ đề xuất cụ thể như sau: Bảng 2: Tỷ lệ cắt giảm Tổng hỗ trợ bóp méo thương mại Tổng mức hỗ trợ bóp méo thương mại (tỷ USD) Tỷ lệ cắt giảm > $60 ( có thể hiểu là đề cập tới EU) 75% $10 - $60 ( có thể hiểu là đề cập tới Hoa Kỳ, Nhật Bản) 53% $0 - $10 31% Hoa Kỳ thậm chí còn đi xa hơn mức giới hạn tối đa 5% đối với hỗ trợ trong nước thuộc Hộp Xanh lơ mà Khuôn khổ đã nhất trí bằng việc đề xuất giới hạn trần là 2,5% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Đối với hỗ trợ trong nước cho sản phẩm cụ thể lẫn không theo sản phẩm cụ thể thuộc ngưỡng hỗ trợ cho phép (de minimis), Hoa Kỳ kiến nghị cắt giảm 50%. Ngoài ra, giai đoạn 1999-2001 được gợi ý chọn là giai đoạn cơ sở để đưa ra giới hạn tối đa đối với mức tổng hỗ trợ cho sản phẩm cụ thể trong Hộp Hổ phách. Hoa Kỳ cũng tán thành xóa bỏ nhanh chóng trợ cấp xuất khẩu và đặt ra thời hạn hoàn thành cụ thể là năm 2010, đối với một số sản phẩm cụ thể thì thậm chí lộ trình còn có thể phải đẩy nhanh hơn thế. Với các khoản tín dụng xuất khẩu, nước này kiến nghị điều chỉnh các chương trình tín dụng của chính phủ trở về ngang với mặt bằng thị trường để tránh trở thành trợ cấp xuất khẩu.  EU đề xuất cắt giảm AMS căn cứ trên 3 cấp độ, trong đó EU chấp nhận vị trí ở cấp độ cao nhất và sẽ phải cắt giảm nhiều nhất, còn Hoa Kỳ sẽ ở cấp độ thứ hai và Nhật bản có thể đứng ở cấp độ thứ nhất hoặc thứ hai, tuỳ theo thảo luận cụ thể. EU cam kết cắt giảm tới 70% mức AMS và chấp nhận rằng Hoa Kỳ sẽ có mức cắt giảm thấp hơn, chỉ 60%, nhưng chỉ với điều kiện là Hoa Kỳ sẽ có những nhượng bộ thích hợp trên những lĩnh vực khác. Đối với những nước ở cấp độ thứ ba, mức cắt giảm AMS dự kiến là 50% nhưng cũng có thể cao hơn nếu AMS của các nước này khá cao so với tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Phương pháp tiếp cận này cũng được đề xuất khi cắt giảm tổng mức hỗ trợ trong nước gây bóp méo thương mại. Các nước phát triển sẽ phải cắt giảm 80% hỗ trợ trong nước thuộc ngưỡng cho phép (deminimis), kể cả hỗ trợ cho sản phẩm cụ thể hay không theo sản phẩm cụ thể, từ mức 5% hiện tại mà Hiệp định Nông nghiệp cho phép. EU cũng bày tỏ sự quan ngại về tương lai của Hộp Xanh lơ vì có thể những chính sách hỗ trợ đặc biệt gây bóp méo thương mại chỉ đơn giản được các nước chuyển vào hộp này mà không hề có sự điều chỉnh hay thay đổi thực chất nào.Về trợ cấp xuất khẩu, EU nhất trí xóa bỏ vào thời điểm sẽ được thống nhất trong đàm phán toàn bộ trợ cấp xuất khẩu, với điều kiện là tất cả các đối tác cũng cam kết và thực thi cam kết tương tự.  Chương trình cải cách Chính sách Nông nghiệp Chung (Common Agriculture Policy - CAP) đang diễn ra của EU đã tách hầu hết hỗ trợ trong nước của khối này khỏi sản xuất, nghĩa là hỗ trợ được chi trả không phải để nông dân sản xuất hay canh tác, cũng phải để hỗ trợ giá cho các sản phẩm mà nông dân đã sản xuất ra. Với cải cách này, 90% hỗ trợ nông nghiệp của EU đã được chuyển sang Hộp Xanh lá cây. Về trợ cấp xuất khẩu, EU tỏ ra sẵn sàng cải cách sâu rộng hơn nữa sau những bước cắt giảm đáng kể trong những năm qua (tuy rằng giá trị trợ cấp vẫn còn khá lớn trong một số ngành như sản phẩm từ sữa, đường và thịt bò). Để đánh đối lại việc tăng cường thu hẹp trợ cấp xuất khẩu nông sản, EU đưa ra điều kiện phải đàm phán để siết chặt quy định về viện trợ lương thực và về các chương trình xúc tiến xuất khẩu của Hoa Kỳ. Thực chất, cả hai “ông lớn” này đều muốn tiếp tục duy trì sự linh hoạt đáng kể mà hệ thống thương mại đa phương của WTO cho phép để hỗ trợ ngành nông nghiệp nội địa cũng như vẫn muốn giữ vững vị trí dẫn đầu trên thị trường nông sản thế giới thông qua cách trợ cấp xuất khẩu. 2. Tác động của Hiệp định nông nghiệp của WTO (AoA) về trợ cấp nông sản tới nhóm Cairns (19 nước xuất khẩu nông sản) Nhìn chung, Hiệp định nông nghiệp của WTO về xuất khẩu nông sản đã đem lại nhiều lợi ích cho nhóm Cairns thông qua việc mở rộng thị trường và tháo bỏ các rào cản thương mại. Quy định thuế hóa các biện pháp phi thuế quan và giảm mức thuế quan trong hiệp định giúp tăng cường khả năng tiếp cận thị trường cho nhóm xuất khẩu nông sản, thị trường được mở rộng hơn, và có thể xuất khẩu được nhiều hơn Mặc dù không thể đạt được mục tiêu xóa bỏ hoàn toàn mọi trợ cấp xuất khẩu đối với hàng nông sản như Cairns mong muốn , nhưng hiệp định cũng đã yêu cầu các nước thành viên phải giảm dần mức trợ cấp xuất khẩu và hỗ trợ trong nước. Do trong vòng đàm phán Uruguay, hiệp định là kết quả đàm phán tay đôi giữa Mỹ và các nước EU, vì vậy trong việc xuất khẩu nông sản vẫn chịu ảnh hưởng rất mạnh của những chính sách trợ cấp và bảo hộ nặng nề. Mặc dù đã có cắt giảm những mức trợ cấp trong nước và trợ cấp xuất khẩu của các nước phát triển vẫn còn ở mức rất cao. Tuy các nước phát triển cam kết sẽ giảm bảo hộ và trợ giúp trong nước, nhưng việc thực hiện cam kết này còn rất hạn chế. Có rất nhiều vấn đề không minh bạch về thống kê và luật pháp của các nước phát triển nhằm lý giải quá trình giảm mức độ trợ giúp. Điều này thể hiện rõ nhiều nước phát triển, như các nước EU, Nhật bản, Hàn quốc, không muốn cải cách mạnh mẽ hơn nữa chính sách nông nghiệp của mình. Vấn đề nóng bỏng nhất là đối với chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp trong nước. Nhiều nước, nhất là EU, Nhật bản, Hàn quốc, đã ủng hộ các chính sách hỗ trợ nông nghiệp nhằm tạo dựng một nền nông nghiệp đa chức năng không chỉ sản xuất ra của cải vật chất mà còn góp phần vào việc gìn giữ và tăng việc làm, gìn giữ nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường và gìn giữ văn hoá. Chi phí dành cho nông nghiệp chiếm khoảng hơn một nửa ngân sách của EU. Thêm vào các khoản trợ cấp trực tiếp này, còn có nguồn hộ trợ từ người tiêu dùng khi họ thường phải mua các nông sản với giá cao hơn hẳn so với giá quốc tế (nhất là đối với đường, sữa, thịt bò) do sự bảo hộ cao qua mức thuế quan cao và hạn ngạch thuế quan. 3. Tác động của hiệp đinh Nông Nghiệp về trợ cấp Nông sản đối với các nước đang phát triển và đối với Việt Nam. 3.1 Đối với các nước đang phát triển a. Quá trình mở rộng tự do hóa thương mại Trong phân tích về phạm vi mà quá trình tự do hóa đã đạt được với tư cách là một hệ quả của việc thực hiện Hiệp định về nông nghiệp trong 3 nôi dung, nghĩa là mở cửa thị trường, trợ cấp xuất khâu và hỗ trợ trong nước, điều đáng lưu ý là tất cảt các nước có xuất phát điểm khác nhau. Một số nước đã có những thay đổi đáng kể trong các chính sách thương mại của mình trươc khi Hiệp định về nông nghiệp được thông qua, trong khi các nước khác thì cố gắng duy trì kiểu chính sách mà họ theo đuổi trước đó, thường có mục đích bảo hộ càng nhiều càng tốt. Hầu hết các nước, cả các nước phát triển và các nước đang phát triển, đã thông báo cho WTO việc thực hiện trong tất cả các lĩnh vực đã hoàn tất. b. Mở cửa thị trường Hầu hết các nhà quan sát nhất trí rằng Hiệp định về nông nghiệp có tác đọng rất hạn chế đối với mở cửa thị trường. Một lý do cơ bản của vấn đề này là các nước đã đặt ra mức thuế quan trần độc lập với những mức bảo hộ trước đó. Điều này dẫn đến việc hầu hết các nước, cả nước đang phát triển lẫn các nước đang phát triển, đều nâng mức thuế quan ràng buộc của mình lên rất cao. Tuy nhiên, những mức thuế quan ràng buộc này thường không phải là những mức thuế được áp dụng trên thực tế. Mức thuế quan áp dụng thường thấp hơn nhiều. Kết quả là các nước có thể giảm thuế ràng buộc của mình bằng cách quy định 36% hoặc 24% mà không có tác động nào đến mức thuế quan áp dụng. Nói đúng hơn về tác động này là sự khác biệt giũa các mức thuế ràng buộc và thuế áp dụng đã được giảm đi. Thứ hai, các mức độ hỗ trợ được áp dụng trong giai đoạn cơ bản (1986-1988) rất cao và giá trên thị trường thế giới thấp một cách khác thường. Một số nghiên cứu đã chỉ trích những cam kết tiếp cận thị trường quá yếu của các nước phát triển. Điều này đã có ảnh hưởng là không thể thấy rõ bất kì một tác động lớn nào đối với việc mở cửa thị trường thục sự. Liên quan tới việc mở cửa thị trường ở các nước đang phát triển, một báo cáo đã chỉ ra rằng, múc thuế quan ràng buộc bình quân đối với hàng nông sản của 32 nước đang phát triển là 84%, trong khi mức thuế quan áp dụng là 20%. Nhìn chung, có thể nói rằng, các nước Mỹ latinh là những nước có các mức thuế quan ràng buộc và các mức thuế quan áp dụng thấp nhất. Trong khi các nước châu Phi có mức thuế quan ràng buộc rất cao nhưng các mức thuế quan áp dụng khá thấp. Các nước châu Á giữa 2 thái cực này. Có một số lí do giải thích tại sao các mức thuế quan áp dụng thường thấp hơn. Có thể nói rằng nhiều nước đang phát triển về chính trị không thể áp dụng các mức thuế quan đẻ giữ giá các mặt hàng cơ bản, đặc biệt là ở các nước nghèo nhập siêu, nơi có một tỷ lệ lớn dân số sử dụng phần lớn thu nhập của mình để mua lương thực. Đôi khi cũng có thể cho rằng các nước đã buộc phải giữ mức thuế quan áp dụng thấp do đòi hỏi từ các tổ chức cho vay như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB). Tuy nhiên, về mặt này thật thú vị khi nhận thấy có một số nước đang phát triển vẫn tiếp tục giảm mức thuế quan áp dụng của mình sau khi đã thực hiện đầy đủ những yêu cầu cuả WTO và các tổ chức cho vay nêu trên. Dường như không có vấn đề gì về những yêu cầu của các tổ chức cho vay, vấn đề là ở chiến lược của các nước. Tuy vậy, đúng như cách mà các nước phát triển áp dụng, nhiều nước đang phát triển sử dụng mức thuế quan cao đối với các mặt hàng “nhạy cảm”. Cách này chủ yếu được áp dụng đối với những mặt hàng cơ bản mà ngành nông nghiệp các nước đó trông cậy vào. Xét một cách tổng thể, các phân tích chỉ ra rằng sự thâm nhập của các nước đang phát triển vào thị trường của các nước phát triển đã không được cải thiện đáng kể sau khi Hiệp định nông nghiệp có hiệu lực. Những mặt hàng có mức thuế quan giảm thường là những mặt hàng mà các nước đang phát triển không có lợi thế cạnh tranh trong sản xuất hoặc đơn giản là không có khả năng sản xuất. Đối với việc mở cửa thị trường ở các nước đang phát triển, được các nước đang phát triển khác quan tâm trong bối cảnh thương mại Nam- Nam, thì Hiệp định về Nông nghiệp cũng chưa có bất kì tác động cụ thể nào. Một số nước đã có mức thuế quan tương đối thấp trước khi Hiệp định về Nông nghiệp có hiệu lực. Do vậy, khi cơ hội này cho phép các nước ràng buộc thuế quan ở mức cao hơn thì không cần phải có thay đổi quan trọng nào. c. Trợ cấp xuất khẩu Trợ cấp xuất khẩu trong phạm vi của Hiệp định về nông nghiệp liên quan đến những khoản trợ cấp trực tiếp và những cắt giảm chi phí. Các hình thức trợ cấp khác, như trợ cấp khác, như trợ cấp lương thực không bao gồm ở đay. Trong số các nước thực hiện trợ cấp xuất khẩu, EU chiếm khoảng 90% tổng trợ cấp trong mấy năm qua, Mặt khác, Mỹ lại thiên về sử dụng tín dụng xuất khẩu và do vậy chỉ chiếm 1.5% tổng trợ cấp. Trong số các nghiên cứu, nghiên cứu của ngân hàng thế giới xác nhận rằng những cam kết về mặt trợ cấp xuất khẩu có tác dụng lớn nhất trong tất cả các cam kế trong Hiệp định về Nông nghiệp. Những cam kết này đã dẫn đến sự cắt giảm đáng kể trong trợ cấp và EU và Mỹ đã từng bước từ bỏ dạng trợ cấp này. Tổng mức trợ cấp xuất khẩu do các nước OCED cung cấp đã thấp hơn đáng kể so với yêu cầu của Hiệp định về Nông nghiệp. Chẳng hạn, trong thời kì 1995 – 1998, mức sử dụng chỉ tương đương 43% ngân sách cho phép và 62% khối lượng cho phép. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải giám sát thực tế này để đảm bảo rằng các nước phát triển không bắt đầu áp dụng các hình thức trợ cấp xuất khẩu khác, như tín dụng xuất khẩu và hỗ trợ lương thực. OCED đã báo cáo rằng, điều này đã diễn ra ở một số nước phát triển, đáng chú ý là việc sử dụng tín dụng xuất khẩu tăng lên. Đối với các nước đang phát triển, khả năng cung cấp những khoản trợ cấp xuất khẩu thường ít được quan tâm hơn, vì các nước này không có vốn để hỗ trợ các nhà xuất khẩu. Ngược lại, nhiều nuốc đang phát triển đã từng áp dụng các biện pháp hạn chế xuất khẩu để tăng nguồn thu cho chính phủ, ngoài nhiều mục đích khác. Tuy nhiên, những thực tế như vậy đã giảm cơ bản trước khi Hiệp định về nông nghiệp có hiệu lực. Tuy nhiên, xem ra một số nước đang phát triển đang sử dụng những khoản trợ cấp gián tiếp với mức độ nào đó, nhưng biện minh cho việc làm này bằng cách dẫn ra Hiệp định Trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO. Chẳng hạn, những khoản trợ cấp này có thể được cung cấp dưới dạng dưới dạng giảm thuế hoặc các chương trình sử dụng tiền tệ. tuy nhiên, khả năng cung cấp trợ cấp rất khác nhau, phụ thuộc vào hình thức trợ cấp mà mỗi nước đang phát triển áp dụng. d. Hỗ trợ trong nước Trong 3 lĩnh vực hỗ trợ chính, lĩnh vực hỗ trợ trong nước có sự thay đổi ít nhất. Thông qua việc giới thiệu Hộp xanh lá cây tại cuối Vòng Uruguay, những cam kết do các nước phát triển đưa ra rất dễ thực hiện, vì sự hỗ trợ theo hộp này được miễn cắt giảm. Chỉ có 5 nước OECD được xem xét tiếp cận những giới hạn hỗ trợ tối đa cho phép. Trong trường hợp các nước phát triển bị bắt buộc giảm những hình thức hỗ trợ trực tiếp bóp méo thương mại (hộp vàng), thì hỗ trợ thường biến đổi sang nhiều dạng khác để trở thành hỗ trợ theo Hộp canh lá cây hoặc Hộp xanh da trời. Các số liệu so OECD đưa ra cho thấy, sự hỗ trợ trong nước đã thực sự tăng trong thời hạn thực hiện, chứng tỏ những cam kết chỉ có tác động vừa phải. Sự tăng lên này chủ yếu được thể hiện ở những hộp màu xanh lá câu. Ước tính, trên 60% mức hỗ trợ trong nước ở các nước đang phát triển không thuộc phạm vi một đòi hỏi cắt giảm nào, cho dù hầu hết các dạng hỗ trợ này được chứng minh là động lực đối với sản xuất. Thực tế rằng những cam kết đang được đề cập về hỗ trợ trong nước được áp dụng đối với tất cả các loại sản phẩm nói chung, chứ không phải đối với những sản phẩm riêng rẽ, đã tiếp tục làm giảm tác động của Hiệp định về nông nghiệp. oxfam đã chỉ trích mạnh mẽ cách mà hiệp định về nông nghiệp được xây dựng và nhận xét rằng hiệp định này hoàn toàn chỉ được chấp nhận đối với các nước phát triển, do vậy, các nước phát triển không gặp bất cứ vấn đề gì trong thực hiện những cam kết của mình. Phần lớn hỗ trợ trong nước được tập trung ở một số ít nước. EU, Mỹ và Nhật Bản chiếm 90% tổng mức hỗ trợ trong nước. Một đánh giá về những sản phẩm được các nước OECD hỗ trợ nhiều nhất thấy rằng, đó là những sản phẩm hàng hóa thuộc diện quan tâm đặc biệt của các nước đang phát triển. Mặt khác, hỗ trợ trong nước đang phát triển thực hiện có qui mô nhỏ hơn nhiều (tuy vậy, việc đánh giá hỗ trợ trong nước ở các nước đang phát triển là không dễ dàng, vì 80% các nước đang phát triển không có khái niệm chung nào về hỗ trợ mà họ thực hiện ). Một số nước đang phát triển cam kết cắt giảm hỗ trợ trong nước đã không gặp vấn đề gì trong thực hiện những cam kết của mình. Có những dấu hiệu rõ ràng rằng Hiệp định về nông nghiệp không có tác động quyết định đối với những cách thức mà các nước đang phát triển áp dụng để hỗ trợ ngành nông nghiệp của họ. Ví dụ, việc trợ giá đã giảm mạnh ở cả Thái Lan và Brazil, cho dù trên thực tế, các kiểu hỗ trợ này được phép áp dụng trong WTO. Theo một số nhà quan sát, điều này cho thấy các nước đó đã tuân thủ những chương trình cơ cấu mà WB và IMF đã khởi xướng vào giữa những năm 1980. Nhóm nước có những thay đổi liên quan rõ rệt Hiệp định về nông nghiệp là những nước gia nhập WTO trong thời gian gần đây. Trong những trường hợp này, mức hỗ trợ tối đa đã được đặt ra ở những ngưỡng thấp vì các nước này bị đòi hổi phải giảm mức hỗ trợ để tuân thủ các yêu cầu. e. Hệ quả của tự do hóa thương mại đối với các nước đang phát triển Trên đây, chúng ta đã chứng minh rằng sự cải thiện trong mở cửa thị trường sau khi ra đời Hiệp định về Nông nghiệp ít có tác động đến những sản phẩm mà những nước đang phát triển có lợi ích. Trợ cấp xuất khẩu đã giảm, nhwung hỗ trợ trong nước ở các nước phát triển dường như lại tăng lên. Một nhận định chung là chính sách thương mại ở các nước đang phát triển cũng như ở các nước phát triển thay đổi chưa đáng kể khi thực hiện Hiệp định về Nông nghiệp. 3.2 Đối với Việt Nam a. Thực trạng thực hiện cam kết trong hiệp định Nông nghiệp về trợ cấp nông sản ở Việt Nam. Hàng nông sản là một trong những thế mạnh xuất khẩu của VN. Cụ thể:  Bảng 3: Những mặt hàng nông sản xuất – nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam 2001  2002  2003  2004  2005  10 tháng 2006  1. Xuất khẩu  Gạo (1.000 tấn)  Cà phê (1.000 tấn)  Hạt tiêu (1.000 tấn)  Hạt điều (1.000 tấn)  Cao su (1.000 tấn)  Rau quả (triệu USD)  Chè (1.000 tấn)  Đậu phọng (1.000 tấn)  2. Nhập khẩu  Bông (1.000 tấn)  3.721  931  57  44  308  344  68  78  98  3.236  722  78  62  455  221  77  106  98  3.810  749  74  82  432  152  59  82  92  4.060  975  112  105  513  179  99  45  138  5.202  885  110  103  574  234  89  55  146  4365  718  112  104  582  219  87  12  152  Nguồn: Kinh tế 2005-2006 VN và thế giới.  Hiện tại và tương lai hàng nông sản vẫn là mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam (VN). Song trên thực tế với phí vận chuyển nông phẩm xuất khẩu của VN còn nhiều bất hợp lý (chiếm 85% tổng chi phí xuất khẩu); với giá cước vận chuyển cao hơn các nước khác từ 0,5-1,5 USD/kg cộng với chất lượng nông sản không đồng đều, kỹ thuật canh tác, thu hoạch chưa đạt tiêu chuẩn an toàn quốc tế (EurepGAP), bao bì sản phẩm chưa hấp dẫn vv… Đây là những trở ngại không nhỏ trên đường hội nhập WTO. Đặc biệt là ngành chăn nuôi sẽ bị tác động rất lớn do khả năng cạnh tranh rất thấp cả về năng suất, chất lượng và giá cả do thức ăn chăn nuôi gia súc hiện nay ở VN quá cao so với các quốc gia trong khu vực từ 10-20% và hơn mức bình quân của thế giới là 20-25%. Thêm vào đó với phương thức chăn nuôi thả rông trâu bò, gà, vịt ở các hộ gia đình để tận dụng sản phẩm phụ trong sản xuất nông nghiệp và đời sống (trong khi đó 90% sản phẩm chăn nuôi tại các nước phát triển xuất phát từ các trang trại) khiến cho việc cung ứng sản phẩm chăn nuôi của VN gặp nhiều khó khăn khi mà chăn nuôi phổ biến là phân tán và manh mún hơn là chăn muôi công nghiệp tập trung.   Để có thể tăng trưởng cao liên tục và ổn định, hàng nông sản của VN cần có một chính sách hợp lý ví như chính sách ruộng đất có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Tại VN ruộng đất bị chia nhỏ manh mún dẫn đến khả năng áp dụng cơ giới hóa đồng bộ gặp nhiều khó khăn, hạn chế việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, không đáp ứng được yêu cầu của thị trường về hàng hóa chất lượng cao, khối lượng lớn, giá cạnh tranh. Hiện nay ở VN số nông hộ có diện tích trên dưới một ha rất phổ biến; trong khi đó ở một số nước phát triển cũng có chính sách hạn điền nhưng thay vì quy định mức giới hạn trên như ở VN thì các quốc gia này chỉ quy định mức giới hạn dưới để tránh tình trạng manh mún về đất đai làm giảm hiệu quả canh tác. Trong khi các hộ nông dân thiếu đất đai thì tại các nông trường quốc doanh đang kiểm soát 25% diện tích đất nông nghiệp nhưng sản xuất kém hiệu quả và chỉ tạo ra 1% GDP (TS. Lê Đăng Doanh). Tổ chức lại sản xuất nông nghiệp trên cơ sở tăng cường hợp tác thông qua các chính sách và giải pháp thích hợp là tiền đề cho việc phát triển nông nghiệp trong thời kỳ hậu WTO.  Bối cảnh hội nhập quốc tế đang đặt ra các yêu cầu Việt Nam phải mở cửa thị trường, thay đổi các chính sách kinh tế. Cam kết quan trọng của Việt Nam trong lĩnh vực trợ cấp và hỗ trợ nông nghiệp là xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu sau khi gia nhập WTO .Việt Nam không được thực hiện các biện pháp trợ cấp làm bóp méo thương mại, đặc biệt là các biện pháp trợ cấp xuất khẩu. Do nguồn tài chính hạn hẹp, phần lớn các hình thức trợ cấp nông nghiệp của nước ta đều nằm trong nhóm “hộp xanh lá cây”. Theo số liệu thống kê đàm phán gia nhập WTO, cơ cấu chính sách hỗ trợ trong nước cho ngành nông nghiệp (giai đoạn 1999-2001) cho thấy các chính sách thuộc nhóm hộp xanh (được phép áp dụng) của Việt Nam chiếm 84,5% tổng nhóm hỗ trợ trong nước, tập trung chủ yếu trong xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, dịch vụ khuyến nông, các chương trình hỗ trợ vùng, hỗ trợ khắc phục thiên tai, dự trữ công vì mục đích đảm bảo an ninh lương thực, 10,7% được dùng vào các chương trình phát triển mà chủ yếu là hỗ trợ đầu tư. Các chính sách hỗ trợ đào tạo, nghiên cứu khoa học, dịch vụ kiểm tra giám sát dịch bệnh và sâu bệnh, hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số chi hỗ trợ trong nhóm hộp xanh, mới chiếm tỷ lệ khoảng 1-3%. Chỉ có 4,9% dùng để hỗ trợ lãi suất mua tạm trữ thuộc nhóm "đèn đỏ" được xem là có thể bóp méo thị trường nhưng còn thấp xa so với mức WTO cho phép. Theo bà Nguyễn Thị Hồng, chuyên gia Dự án Hỗ trợ thương mại đa biên giai đoạn 2 (Mutrap 2) .Hiện tổng mức hỗ trợ trong nước (AMS) chiếm 3,4%, thấp hơn nhiều so với mức được phép theo quy định WTO là 10% giá trị sản lượng và tổng mức hỗ trợ tình gộp (ASM) trên 4000 tỷ đồng /năm. Điều này cho thấy, về nguyên tắc không phải cắt giảm và Việt Nam còn nhiều địa dư để điểu chỉnh tăng trợ cấp. b.Tác động của hiệp định AoA về trợ cấp Nông sản đối với Việt Nam Với quy mô dân số sống ở nông thôn là 60, 41 triệu người, diện tích đất sản xuất nông nghiệp có 9, 531 triệu hecta (bình quân 0,15ha/người), sản xuất nông nghiệp chủ yếu mang tính nhỏ lẻ, chất lượng thấp. Kể cả với những mặt hàng Việt Nam đã có thị phần đáng kể trên thế giới, trợ cấp xuất khẩu là cần thiết trong nhiều trường hợp do thị trường nông sản diễn biến rất phức tạp, giá thành hạ. Những doanh nghiệp nhà nước sẽ gặp nhiều khó khăn khi Việt Nam (VN) gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) có thể điểm mặt ngay, đó là: doanh nghiệp (DN) mía đường, chăn nuôi, rau quả.. Riêng mía đường đang hưởng hỗ trợ rất cao (98,7%) nên ngành này đang và sẽ chịu ảnh hưởng đáng kể khi buộc phải cắt giảm trợ cấp. Với việc gia nhập WTO, VN sẽ phải mở cửa nhập khẩu trong hạn ngạch là 25% với đường thô, ngoài hạn ngạch là 65%, khối lượng nhập khẩu trong hạn ngạch còn tăng 5% mỗi năm. Cùng nằm trong nhóm ngành gặp khó khăn với ngành mía đường là ngành sản xuất rau quả. Đại diện các DN rau quả cho rằng theo cam kết cắt giảm thuế đối với hoa quả khi VN gia nhập WTO thì  nho tươi sẽ giảm ngay lập tức từ 40% xuống còn 20% và xuống 10% sau năm năm. Khi còn bảo hộ, rau quả VN đã phải đối mặt với sự cạnh trạnh rất gay gắt không chỉ ở thị trường quốc tế mà ngay cả sân nhà từ hoa quả Trung Quốc, Thái Lan... Nay, với việc cắt giảm thuế, mở cửa hội nhập, DN trái cây VN sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức hơn. Nguyên nhân là do ngân sách dành cho nông nghiệp còn thấp. “ Nhưng không phải nông dân nào cũng được hưởng lợi. Nông dân sản xuất trong lĩnh vực đầu vào thay thế xuất khẩu như mía đường, hoặc trồng những loại cây không có chức năng cung cấp hàng hóa cho thị trường mà mang tính tự cung tự cấp là chính, hoặc nông dân ở vùng xa xôi hẻo lánh... sẽ hưởng lợi ít nhất, thậm chí là thiệt hại từ việc thực hiện các cam kết WTO” - bà Hồng nhấn mạnh. Tuy nhiên, vẫn có nhiều chính sách không bị cấm lại chưa được sử dụng như trợ cấp điều chỉnh cơ cấu thông qua chương trình rút các nguồn lực khỏi sản xuất nông nghiệp, chi trả trực tiếp cho người sản xuất thay vì cho người xuất khẩu. Bên cạnh đó, chúng ta vẫn chưa có những hỗ trợ riêng cho thu nhập như chương trình bảo hiểm thu nhập và mạng lưới an sinh thu nhập cho nông dân... Về xuất khẩu nông sản, chúng ta chưa tận dụng được trợ cấp chi phí tiếp thị, chi phí chuyên chở trong nước và quốc tế, quỹ xúc tiến xuất khẩu cho vay tín dụng để xuất khẩu. Tuy nhiên không thể phủ nhận được những tác động tích cực của hiệp định trợ cấp nông sản đối với Việt Nam. Đây là một cơ hội cho Việt Nam để: điều chỉnh các chính sách trong nước: Rà soát lại hệ thống quy phạm pháp luật phù hợp với WTO, thông lệ quốc tế tạo ra các cơ hội: - Thu hút đầu tư (Công nghệ hiện đại, đào tạo nguồn nhân lực) - Môi trường kinh doanh trong nước bình đẳng - Tạo ra tính minh bạch cho hệ thống chính sách điều hành - Chính phủ quan tâm nhiều hơn và tăng đầu tư cho nông nghiệp. - Mở rộng thị trường: Xâm nhập thị trường trên 150 nước thành viên, chiếm trên 90% khối lượng và giá trị thương mại thế giới. - Giải quyết bất công trong thương mại, giải quyết các tranh chấp - Nền sản xuất trong nước sẽ phải tự điều chỉnh phát triển để phù hợp với thị trường - Các dịch vụ liên quan đến nông nghiệp, xuất khẩu nông sản. c. Các giải pháp kiến nghị Trước hết, WTO yêu cầu việc trợ cấp phải có chương trình cụ thể, tiêu chí rõ ràng. Trong đó, Việt Nam lại thường xử lý theo tình huống và ứng phó ngắn hạn với thị trường, không đảm bảo tính minh bạch.   Bên cạnh đó, WTO quy định hỗ trợ trực tiếp cho nông dân nhưng do số nông dân đông, không có sự quản lý cụ thể nên nhà nước thường hỗ trợ thông qua doanh nghiệp. Nông dân chỉ là người hưởng lợi gián tiếp. Đây chính là những điểm cần sửa đổi để trợ cấp của chúng ta trở nên hợp lý hơn. Theo ông Antonia Cordella, chuyên gia của Mutrap 2, để những chính sách mới có lợi cho nông dân và nông nghiệp, cần các biện pháp hướng về mở rộng tiếp cận thị trường, cải thiện hệ thống tiếp thị và quan trọng hơn cả là hệ thống thông tin thị trường. “Khi người nông dân chỉ biết quan tâm đến phát triển sản phẩm và phó thác khâu phân phối, tiếp thị cho người môi giới, trung gian thì việc cần làm đối với cơ quan quản lý là phải cung cấp thông tin thị trường càng nhiều càng tốt” - ông Cordella nói. Hầu hết các chính sách hỗ trợ trong nước đều thuộc chính sách hộp xanh và hộp phát triển ( là các chính sách WTO cho phép các nước đang phát triển được phép áp dụng), vì vậy có thể tiếp tục duy trì và bên cạnh đó là đẩy mạnh những chính sách “Hộp xanh mới”. Một vài chính sách “Hộp xanh lá cây” mới có thể áp dụng cho Việt Nam: - Tăng cường phạm vi và việc áp dụng các dịch vụ tư vấn (áp dụng GAP) - Huấn luyện cho nhà chế biến (GMP) - Cải thiện các công cụ tiếp thị. - Nâng cao hiệu quả các kênh phân phối - Tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng SPS và cải tiến chất lượng - Thực hiện khả năng truy tìm nguồn gốc - Đẩy mạnh các dịch vụ tẩy trùng, thanh tra - Đẩy mạnh các chính sách nhằm gia tăng giá trị cho các sản phẩm của nông dân - Đẩy mạnh việc tập hợp các thửa ruộng nhỏ lẻ thành các trang trại lớn (cả trang trại gia đình). - Bổ sung khối lượng thức ăn chăn nuôi để tăng sản lượng (ví dụ sữa, trứng) và chất lượng (ví dụ thịt bò). (Nguồn: Antonio Cordella, Hội thảo Rà soát các nghĩa vụ của Việt Nam đối với Hiệp định Nông nghiệp và đề xuất chính sách phù hợp với quy định của WTO, 4/2007). Trong bối cảnh hội nhập, xu hướng thặng dư thương mại giảm được dự báo sẽ diễn ra gay gắt. Theo ông Antonio Berenguer, Tham tán Thương mại, Phái đoàn Uỷ ban Châu Âu tại Việt Nam, Việt Nam cần xây dựng các chính sách nhằm: Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản xuất trong nước bằng cách cắt giảm chi phí sản xuất, tăng sản lượng Tập trung nhiều hơn vào những chủ trang trại tư nhân Tập trung vào xúc tiến thương mại và cung cấp thông tin tới nông dân Nâng cao tiêu chuẩn và chất lượng, sức khoẻ cây trồng vật nuôi. Là thành viên của WTO, các chính sách hỗ trợ sẽ chuyển từ biện pháp “hộp đỏ” sang các “hộp xanh”, vì vậy Việt Nam cần nhắm vào các loại hàng hoá mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh, và áp dụng các biện pháp “hộp xanh mới”. Bên cạnh những nỗ lực trong nước VN cần phải vượt qua những rào cản phi thuế quan tại thị trường của các quốc gia. Nhất là khi VN là thành viên của WTO thì rào cản thuế quan đối với sản phẩm nông nghiệp sẽ thuận lợi vì các nước thành viên có nghĩa vụ phải giảm thuế nhập khẩu đối với hàng nông sản của chúng ta. Nhưng chúng ta phải nỗ lực phấn đấu để vượt qua những rào cản phi thuế quan. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng nông sản xuất khẩu phải hiểu rõ hệ thống rào cản phi thuế quan của từng thị trường để điều chỉnh sản xuất theo hướng nâng cao chất lượng và thỏa mãn những tiêu chuẩn của đối tác. Không vì lợi trước mắt mà gây tổn hại lâu dài cho chính bản thân doanh nghiệp và cả những doanh nghiệp trong cùng ngành.  Mặc dù VN là một nước nhiệt đới, cây trái quanh năm nhưng do thị hiếu tiêu dùng và nhu cầu nguyên liệu trong nước nên thời gian qua chúng ta đã nhập khẩu nhiều loại nông phẩm như: bông, rau quả, sữa, cà phê, thịt gia súc và gia cầm, đậu nành, dầu thực vật vv… Nông phẩm nhập khẩu có ưu thế về chất lượng, giá cả, mẫu mã vv.. Do vậy có lợi thế cạnh tranh đối với nông phẩm sản xuất trong nước kém về chất lượng và giá cả chưa hợp lý. Chính điều này buộc chính phủ VN phải có những biện pháp bảo hộ hợp lý. Năm 1999 Quỹ hỗ trợ phát triển được thành lập nhằm hỗ trợ thực hiện các dự án kinh tế quan trọng và phát triển các vùng có điều kiện khó khăn nhằm tạo điều kiện để nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản trong nước. Quỹ hỗ trợ phát triển nhằm khuyến khích mở rộng sản xuất xuất khẩu hàng hóa, mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh của hàng hóa VN trên thị trường quốc tế. chính phủ thực hiện hỗ trợ lãi suất khi doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để mua hàng hóa xuất khẩu. Những mặt hàng xuất khẩu bị lỗ hay cạnh tranh kém hoặc bị rủi ro thì chính phủ can thiệp bằng biện pháp thuế nhằm nâng đỡ doanh nghiệp. Ngoài ra chính phủ còn hỗ trợ tài chính để doanh nghiệp xúc tiến thương mại, phát triển thị trường, thưởng xuất khẩu. Sự hỗ trợ cho nông sản của chúng ta tập trung vào các hình thức:  + Hỗ trợ dạng hộp xanh lá cây. Dựa trên quy định của Hiệp định nông nghiệp của WTO chúng ta thực hiện hỗ trợ sản xuất nông nghiệp theo các nhóm:  Thứ nhất, dịch vụ chung, phù hợp với quy định của WTO chính phủ VN cung cấp dịch vụ và phúc lợi cho nông nghiệp dưới các hình thức: (1) Nghiên cứu khoa học: chính phủ VN cấp kinh phí cho các Viện nghiên cứu thực hiện các đề tài khoa học có liên quan đền nông nghiệp như: giống cây trồng và gia súc, kỹ thuật canh tác, nghiên cứu kinh tế vv..; (2) Đào tạo: Nhà nước cấp kinh phí cho các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề để đào tạo cán bộ kỹ thuật, kinh tế, công nhân lành nghề phục vụ sản xuất nông nghiệp; (3) Công tác khuyến nông: Một hệ thống khuyến nông từ Trung ương đến làng bản được thành lập. Nhà nước cấp kinh phí để hệ thống khuyến nông họat động, nhiều cán bộ khuyến nông hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Cơ sở vật chất kỹ thuật cho công tác khuyến nông được Nhà nước hỗ trợ.   Thứ hai, dự trữ công vì mục đích an ninh lương thực; chính phủ VN thực hiện một số chương trình dự trữ quốc gia như: lúa gạo, giống lúa, ngô, rau, thuốc bảo vệ thực vật vv…  Thứ ba, hỗ trợ lương thưc thực phẩm trong nước; chính phủ áp dụng một số chương trình hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp cho các vùng khó khăn về sản xuất nông nghiệp (vùng sâu, vùng xa, vùng bị thiên tai vv…).  Thứ tư, hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu; chính phủ tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua các hình thức ưu đãi thuế, đầu tư, tín dụng của chính phủ.  + Hỗ trợ dạng hộp xanh da trời. VN áp dụng biện pháp phi thuế quan thuộc dạng này bằng các “Chương trình phát triển”. Dạng hỗ trợ này của Chính phủ bao gồm: (1) Trợ cấp đầu tư của chính phủ, hiện nay trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của VN đang có phong trào chuyển dịch mô hình sản xuất từ hộ nông nghiệp sang kinh tế trang trại. Chính phủ VN đã thực hiện trợ cấp đầu tư phát triển dưới hình thức hỗ trợ tài chính, cho vay với lãi suất ưu đãi để phát triển kinh tế trang trại. Bên cạnh đó với những khoản nợ xấu chính phủ có thể thực hiện khoanh nợ hoặc xóa nợ. (2) Trợ cấp đầu vào cho người sản xuất nông nghiệp có thu nhập thấp. Chính phủ VN thành lập hệ thống ngân hàng người nghèo nhằm cung cấp vốn ưu đãi cho người nghèo để họ có khả năng phát triển sản xuất. Khi người nghèo gặp khó khăn trong việc thanh toán vốn vay thì Chính phủ có thể cấp bù chênh lệch lãi suất, khoanh nợ, xóa nợ. Hiện nay người nghèo vay từ Ngân hàng phục vụ người nghèo lãi suất là 5,4%/năm cho khu vực vùng núi cao, hải đảo và 6,0%/năm cho các vùng còn lại thấp rất nhiều so với lãi suất vay vốn tại các ngân hàng thương mại. (3) Trợ cấp dành cho sản xuất nhằm khuyến khích các hộ nông dân từ bỏ cây thuốc phiện chuyển sang sản phẩm nông nghiệp khác với các hình thức hỗ trợ giống cây trồng và gia súc.  Ngày 7.11.2006 VN chính thức là thành viên thứ 150 của đại gia đình WTO với xuất phát điểm GDP năm 2005 đạt 52,4 tỷ USD (1% GDP thế giới) và kim ngạch xuất khẩu là 32,4 tỷ USD (0,3% tổng kim ngạch xuất khẩu thế giới). Việc tham gia WTO tạo những cơ hội cho VN thâm nhập thị trường nông sản thế giới với kim ngạch 548 tỷ USD/năm. Song chúng ta cũng sẽ phải chia sẻ thị trường nội địa 82 triệu dân trong điều kiện cạnh tranh công bằng. Trong lĩnh vực nông nghiệp các cam kết của chính phủ VN khi gia nhập WTO là: Bỏ trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản, hỗ trợ nông sản nội địa sẽ chỉ được duy trì ở mức tối đa 10% giá trị sản lượng như các nước đang phát triển khác trong WTO và mức cam kết cắt giảm bình quân đối với sản phẩm nông nghiệp là từ 25,2% xuống còn 21%. Một số sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu được chính phủ VN cam kết cắt giảm thuế biểu hiện trong bảng sau:  Bảng 4: Cam kết cắt giảm thuế một số sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam TT Mặt hàng Cam kết với WTO Thuế suất khi gia nhập (%) Thuế suất cuối cùng(%) Thời hạn thực hiện (năm) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 Thịt bò  Thịt heo  Sữa nguyên liệu  Sữa thành phẩm  Thịt chế biến  Bánh kẹo (thuế suất BQ)  Bia  Rượu  Thuốc lá điếu  Xì gà  Thức ăn gia súc  Bột mì  Cam  Chuối  Đậu các loại  Đường tinh luyện  Hạt điều  Khoai tây  Thịt cừu, dê  20  30  20  30  40  34,4  65  65  150  150  10  20  40  40  30  100  40  20  10  14  15  18  25  22  25,3  35  45-50  135  100  7  15  20  25  20  85  25  10  7  5  -  2  5  5  3-5  5  5-6  3  5  2  3  5  5  3  5  5  5  3  Nguồn: www.mof.gov.vn  Những cam kết trên đây thể hiện rõ quyết tâm hội nhập của chính phủ VN song cũng là thách thức, khó khăn rất lớn đối với sản xuất nông nghiệp trong nước - nơi là nguồn sống của trên 75% dân số và cũng là nơi tạo việc làm cho khoảng 70% lao động. KẾT LUẬN Sự ra đời của Hiệp định Nông nghiệp của WTO - một văn bản quan trọng đầy đủ các họat động liên quan tới thương mại nông sản - đã đưa tới sự cạnh tranh công bằng hơn giữa các quốc gia về sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp. Các nước đã có những động thái tích cực trong cam kết về cắt giảm thuế, các hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu. Nỗ lực của các quốc gia để đi tới việc thực hiện đúng những điều khoản trong Hiệp định đang mở ra những hướng đi lạc quan hơn cho một thị trường nông sản công bằng, minh bạch. Qua quá trình thực hiện bài tiểu luận về “Quy định trong Hiệp định Nông nghiệp của GATT/WTO về trợ cấp nông sản”, chúng em đã có thêm nhiều những kiến thức, những hiểu biết hữu ích về Hiệp định Nông nghiệp của GATT/WTO. Tuy nhiên, bài tiểu luận này cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy chúng em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của cô để chúng em hoàn thiện hơn nữa bài tiểu luận này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách và các ấn phẩm - GS.TS. Bùi Xuân Lưu & PGS.TS. Nguyễn Hữu Khải, 2009. Giáo trình Kinh tế Ngoại thương, Hà Nội: Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông. - Ban pháp chế - Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam VCCI, Hiệp định Nông nghiệp: các hiệp định và nguyên tắc WTO. - Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, 2005. Tác động của các hiệp định WTO đối với các nước đang phát triển, Hà Nội. - Antonio Cordella, 4/2007. Hội thảo Rà soát các nghĩa vụ của Việt Nam đối với Hiệp định Nông nghiệp và đề xuất chính sách phù hợp với quy định của WTO, Hà Nội. 2. Website - Bộ Công thương, Vấn đề trợ cấp nông nghiệp trong vòng Doha và tác động tới Việt Nam, [Online] tại [truy cập ngày 23/10/2011]. - Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Cam kết về trợ cấp nông nghiệp [Online] tại [truy cập ngày 23/10/2011]. - Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế: Nông nghiệp trong WTO [Online] (cập nhật ngày 16/11/2007) tại [truy cập ngày 22/10/2011].

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuy định trong Hiệp định Nông nghiệp của GATT-WTO về trợ cấp nông sản.doc
Luận văn liên quan