Không ngoài xu thế đối thoại và hợp tác, Việt nam cũng đang trong quá trình mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế khu vực nói riêng và thế giới nói chung.
Gia nhập vào ASEAN là một bước ngoặt quan trọng trong quá trình hội nhập của Việt Nam. Chính việc đó đã đưa Việt Nam ngày càng tiến gần hơn với các nước trên thế giới, giảm bớt khoảng cách giữa các nước trong khu vực và làm nâng cao vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế.
Việt Nam cần phải cố gắng hơn nữa để “hòa nhập” chứ không “hòa tan” và không quên đi giá trị truyền thống vốn có của dân tộc khi tiếp cận được các nền văn hóa mới lạ của các nước bạn và các nước phương Tây.
Ngoài ra chúng ta cần đẩy mạnh phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm để có thể cạnh tranh được với các nước ASEAN và trên thế giới. Để thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài thì Việt Nam cần phải cải cách mạnh mẽ môi trường hành chính quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài; xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng - kỹ thuật tiên tiến tạo thuận lợi trong giao thương buôn bán; đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao để không những đáp ứng nhu cầu phát triển cho đất nước mà còn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
29 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6400 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng nền kinh tế Việt Nam từ khi gia nhập ASEAN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Thực trạng nền kinh tế Việt Nam từ khi gia nhập ASEAN
MỤC LỤC
Chương I: Sơ lược về hiệp hội các nước Đông Nam Á – ASEAN 3
1.1 Hiệp hội các nước Đông Nam Á - ASEAN 3
1.2 Việt Nam trong ASEAN 4
Chương II: Thực trạng nền kinh tế Việt Nam từ khi gia nhập ASEAN 8
2.1 Những cơ hội và thách thức khi Việt Nam
gia nhập ASEAN – Giải pháp cụ thể 8
2.1.1 Cơ hội 8
2.1.1.1 Góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam 8
2.1.1.2 Góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài 10
2.1.1.3 Tạo điều kiện cho nước ta tiếp thu qua công nghệ tiên tiến, đào tạo
cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh 11
2.1.1.4Góp phần duy trì hòa bình ổn định, tạo dựng môi trường thuận lợi để
phát triển kinh tế, nâng cao vị trí của Việt Nam trong khu vực 12
2.1.1.5Tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn lực nước ta với các nước 12
2.1.1.6Cơ hội đối với các nhà doanh nghiệp 12
2.1.1.7Cơ hội học hỏi nâng cao và hoàn thiện các giá trị văn hóa và giáo dục 12
2.1.1.8Cơ hội hoàn thiện các thể chế, hệ thống luật pháp và quản lý
Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế 13
2.1.2 Thách thức 13
2.1.3 Giải pháp 16
2.1.3.1 Đối với nhà nước 16
2.1.3.2 Đối với doanh nghiệp 17
2.2 So sánh kinh tế và trình độ phát triển của Việt Nam với một nước trong
khu vực Đông Nam Á: Thái Lan 18
2.2.1 So sánh 18
2.2.2 Chiến lược rút ngắn khoảng cách phát triển 25
2.2.2.1 Lợi thế về nguồn nhân lực, nhưng tình hình giáo dục lại
ngày càng xuống cấp 25
2.2.2.2Vị trí địa lý với bờ biển dài tiếp cận dễ dàng với
các nước phát triển trong khu vực 26
2.2.2.3Việc phân bổ các thành phố, các trung tâm kinh tế
trong cả nước tương đối hài hoà 26
2.2.2.4 Để kinh tế phát triển với tốc độ cao và bền vững trong thời gian dài
như vậy phải vừa đẩy nhanh quá trình tích luỹ tư bản vừa tạo điều kiện để
kinh tế phát triển có hiệu suất 26
Chương III: Kết luận 28
PHỤ LỤC 29
MỘT SỐ HÌNH ẢNH LIÊN QUAN 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO 30NỘI DUNG
CHƯƠNG I: SƠ LƯỢC VỀ HIỆP HỘI CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á – ASEAN
Hiệp hội các nước Đông Nam Á – ASEAN:
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations-ASEAN) được thành lập ngày 8/8/1967 bởi Tuyên bố Băng-cốc, Thái Lan, đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của khu vực.
Khi mới thành lập ASEAN gồm 5 nước là Indonesia, Malaysia, Philippine, Singapore và Thái Lan. Năm 1984 ASEAN kết nạp thêm Brunei làm thành viên thứ 6. Ngày 28/7/1995 Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp hội. Ngày23/7/1997 kết nạp Lào và Myanma. Ngày 30/4/1999, Căm-pu-chia trở thành thành viên thứ 10 của ASEAN, hoàn thành ý tưởng về một ASEAN bao gồm tất cả các quốc gia Đông Nam á, một ASEAN của Đông Nam Á và vì Đông Nam Á.
Các nước ASEAN (trừ Thái Lan) đều trải qua giai đoạn lịch sử là thuộc địa của các nước phương Tây và giành được độc lập vào các thời điểm khác nhau sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Mặc dù ở trong cùng một khu vực địa lý, song các nước ASEAN rất khác nhau về chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo và văn hoá, tạo thành một sự đa dạng cho Hiệp hội.
ASEAN có diện tích hơn 4.5 triệu km2 với dân số khoảng 575 triệu người; GDP khoảng 1281 tỷ đô la Mỹ và tổng kim ngạch xuất khẩu 750 tỷ USD. Các nước ASEAN có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và hiện nay đang đứng hàng đầu thế giới về cung cấp một số nguyên liệu cơ bản như: cao su (90% sản lượng cao su thế giới); thiếc và dầu thực vật (90%), gỗ xẻ (60%), gỗ súc (50%), cũng như gạo, đường dầu thô, dứa... Công nghiệp của các nước thành viên ASEAN cũng đang trên đà phát triển, đặc biệt trong các lĩnh vực: dệt, hàng điện tử, hàng dầu, các loại hàng tiêu dùng. Những sản phẩm này được xuất khẩu với khối lượng lớn và đang thâm nhập một cách nhanh chóng vào các thị trường thế giới. ASEAN là khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao so với các khu vực khác trên thế giới, và được coi là tổ chức khu vực thành công nhất của các nước đang phát triển.
Tuy nhiên mức độ phát triển kinh tế giữa các nước ASEAN không đồng đều. Mi-an-ma hiện là nước có thu nhập quốc dân tính theo đầu người thấp nhất trong ASEAN, chỉ vào khoảng hơn 200 đôla Mỹ. Indonesia là nước đứng đầu về diện tích và dân số trong ASEAN, nhưng thu nhập quốc dân tính theo đầu người chỉ vào khoảng trên 600 đôla Mỹ. Trong khi đó, Singapore và Brunei là hai quốc gia nhỏ nhất về diện tích (Singapore) và về dân số (Brunei) lại có thu nhập theo đầu người cao nhất trong ASEAN, vào khoảng trên 30.000 đô la Mỹ/năm.
Ở các nước ASEAN đang diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hoá. Nhờ chính sách kinh tế “hướng ngoại”, nền ngoại thương ASEAN đã phát triển nhanh chóng, tăng gần năm lần trong 20 năm qua, đạt trên 160 tỷ đôla Mỹ vào đầu những năm 1990 (nay là 750 tỷ đôla Mỹ). ASEAN cũng là khu vực ngày càng thu hút nhiều vốn đầu tư của thế giới. Nếu năm 2005, tổng số vốn đầu tư mà ASEAN thu hút được tăng 16,9% so với năm 2004, thì năm 2006, tổng số vốn đầu tư đã tăng 27,5%.
Việt Nam trong ASEAN:
Quá trình hội nhập ASEAN:
Ngày 28/7/1995, Việt Nam trở thành viên chính thức của ASEAN.
Ngày 15/12/1995, Việt Nam chính thức tham gia thực hiện AFTA bằng việc ký nghị định thư gia nhập hiệp định CEPT để thành lập khu cực mậu dịch tự do ASEAN.
Việt Nam bắt đầu thực hiện hiệp định CEPT từ ngày 1/1/1996 và sẽ kết thúc vào ngày 1/1/2006.
Tại thời điểm gia nhập Việt Nam đã đệ trình với các nước ASEAN bốn danh mục hàng hóa theo quy định của CEPT: danh mục loại trừ hoàn toàn, danh mục loại trừ tạm thời, danh mục cắt giảm thuế, danh mục nông sản chưa chế biến và chế biến nhạy cảm cao. Những mặt hàng đưa vào thực hiện CEPT là những mặt hàng có thể mạnh xuất khẩu của ta hoặc những mặt hàng chưa có buôn bán trao đổi gì với ASEAN.
Việt Nam trong ASEAN:
Là một bộ phận hữu cơ của ASEAN và là một thành viên có trách nhiệm của gia đình ASEAN, ngay sau khi chính thức gia nhập từ ngày 28/7/1995, Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng, thiết thực trong việc xác định các phương hướng hợp tác và tương lai phát triển cũng như các quyết sách lớn của Hiệp hội, góp phần tăng cường đoàn kết và hợp tác cũng như nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của ASEAN.
Kể từ khi tham gia ASEAN, với quyết tâm hoàn thành tốt nghĩa vụ một quốc gia thành viên, Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia vào tất cả các hoạt động hợp tác từ chính trị - an ninh, kinh tế - thương mại, cho đến hợp tác chuyên ngành.
Một trong những đóng góp đầu tiên của chúng ta trong ASEAN là nỗ lực thúc đẩy việc kết nạp các nước Lào, Myanma và Căm-pu-chia, vào hiệp hội, hình thành một khối ASEAN thống nhất qui tụ tất cả 10 quốc gia Đông Nam Á. Đây là một bước ngoặt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình phát triển của ASEAN.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong việc xác định phương hướng hợp tác và các quyết sách lớn của ASEAN, như xây dựng Tầm nhìn 2020, Tuyên bố Hà Nội về Thu hẹp khoảng cách phát triển, Chương trình hành động Viên-chăn. Và đặc biệt trong quá trình soạn thảo Hiến chương ASEAN và các Kế hoạch Tổng thể xây dựng 3 trụ cột của Cộng đồng ASEAN, Việt Nam chính là nước đã đề xuất xây dựng trụ cột thứ ba là Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN.
Ba năm sau khi là thành viên, Việt Nam đã nhận đăng cai Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội tháng 12/1998. Việc chúng ta tổ chức thành công Hội nghị này đã giúp ASEAN duy trì đoàn kết, hợp tác và củng cố vị thế quốc tế trong lúc Hiệp hội đang ở thời điểm khó khăn nhất do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 1997.
Tiếp đó, trong năm 2000 và 2001, Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch ủy ban Thường trực ASEAN; tổ chức thành công Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 34 và các Hội nghị liên quan, được bạn bè quốc tế đánh giá cao.
Với tư cách là một trong những nước sáng lập Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Việt Nam đã chủ động tham gia và có nhiều đóng góp vào tiến trình ARF, góp phần xây dựng ARF trở thành một diễn đàn đối thoại về an ninh có vị thế ở khu vực.
Trong lĩnh vực hợp tác giữa các nước thành viên của hiệp hội, Việt Nam đã đóng góp tích cực trong việc thực hiện Sáng kiến liên kết ASEAN, phát triển khu vực Tiểu vùng Mê Công mở rộng và Hành lang kinh tế Đông Tây.
Không chỉ thúc đẩy hợp tác giữa các nước thành viên, Việt Nam còn có nhiều đónggóp tích cực cho việc thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa ASEAN với các nước Đối thoại, góp phần nâng cao tiếng nói và vị thế của ASEAN trên thế giới. Việt Nam đã thực hiện tốt vai trò nước Điều phối quan hệ giữa ASEAN với Nga, Mỹ, Nhật Bản, Australia, và Canađa. Với tư cách đó, Việt Nam đã thúc đẩy quan hệ ASEAN với các nước Đối thoại này phát triển hơn cả về bề rộng lẫn chiều sâu.
Trong bối cảnh ASEAN đang bước sang một giai đoạn mới, hướng tới hoàn thành mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, Việt Nam đã và sẽ tiếp tục thúc đẩy hợp tác ASEAN với tinh thần tích cực, chủ động, và có trách nhiệm, đóng góp hơn nữa vào sự phát triển của Hiệp hội, vì hòa bình, ổn định và phát triển tại khu vực.
Việc Việt Nam sẽ chính thức đảm nhận cương vị Chủ tịch ASEAN trong năm 2010, đúng vào dịp kỷ niệm 15 năm Việt Nam gia nhập ASEAN một lần nữa cho thấy sự tin tưởng của hiệp hội vào việc Việt Nam sẽ làm tốt trọng trách của Chủ tịch ASEAN, đặt nền móng quan trọng cho sự phát triển năng động và bền vững của Cộng đồng ASEAN.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TỪ KHI GIA NHẬP ASEAN
2.1 Những cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập ASEAN – Giải pháp cụ thể
Hội nhập kinh tế trong khu vực là điều thiết yếu cho sự phát triển kinh tế của các nước trong khu vực nói chung và cho Việt Nam nói riêng, nó tạo ra những cơ hội cho sự phát triển cũng như vừa có những thách thức với các thành viên nhất là các thành viên có trình độ phát triển thấp. Việc hội nhập kinh tế trong khu vực cũng mạng lại cho Việt Nam những cơ hội thuận lợi xong bên cạnh đó cũng đem lại không ít những khó khăn và thách thức.
2.1.1Cơ hội
Tham gia vào tổ chức kinh tế trong khu vực Đông Nam Á (ASEAN) sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển một cách nhanh chóng. Những cơ hội của hội nhập đem lại mà Việt Nam tận dụng được một cách triển để sẽ làm bàn đạp để nền kinh tế sớm sánh vai với cách cường quốc năm châu.
2.1.1.1 Góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam
Biểu đồ 1:Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN
6 tháng đầu năm 2005 - 2010
Nội dung của hội nhập là mở cửa thị trường vì vậy khi Việt Nam gia nhập ASEAN sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng với việc được hưởng những ưu đãi về thuế quan, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ khác tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập thị trường trong khu vực Đông Nam Á.
Biểu đồ 2: Quan hệ ngoại thương Việt Nam-ASEAN giai đoạn năm 2005- 2009
Biểu đồ 3: Tỷ trọng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
giữa Việt Nam - ASEAN giai đoạn từ năm 2005-2009
2.1.1.2 Góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP CỦA ASEAN TẠI VIỆT NAM
Khu công nghiệp
Địa điểm
Việt Nam - Singapore
Bình Dương
Việt Nam – Thái Lan AMATA
Đồng Nai
Việt Nam – Malaysia
Đà Nẵng
Việt Nam – Malaysia
Nội Bài, Hà Nội
Nguồn: www.vietbao.vn
Gia nhập ASEAN là cơ hội để thị trường nước ta mở rộng, điều này sẽ làm hấp dẫn những nhà đầu tư. Họ sẽ mạng vốn và công nghê. Vào nước ta sử dụng lao động và tài nguyên sẵn có của nước ta làm sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực với các ưu đãi mà nước ta có cơ hội mở rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp trong nước huy động và sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Hiện nay, đã có trên 80 nước có dự án đầu tư vào Việt Nam, trong đó có nhiều công ty và tập đoàn lơn có cộng nghe tiên tiến. Điều này góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước theo hướng công nghiệp, phát triển lượng sản xuất và công ăn việc làm.
Biểu đồ 4: FDI của các nước trong khu vực Asean vào Việt Nam (Tính từ năm 1988 đến tháng 6/2011 - tỷUSD)
Do nước ta nằm ở vị trí chiến lược, cộng với nguồn tài nguyên phong phú, nhân công dồi dào, tình hình chính trị ổn định đã giúp ta thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư của các nước bạn và trên trên thế giới. Đây là thuận lợi mà rất ít nước có được. Qua đó các nhà đầu tư đã tạo được nhiều việc làm cho người dân, đồng thời nâng cao mức sống của người dân Việt Nam.
2.1.1.3 Tạo điều kiện cho nước ta tiếp thu qua công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh.
- Việt Nam gia nhập ASEAN sẽ góp phần tranh thủ được kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cúa các nước để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Hội nhập kinh tế trong khu vực là con đường để khai thông thị trường nước ta với khu vực, tạo môi trường đàu tư hấp và hiệu quả. Qua đó các kĩ thuật, công nghệ quốc gia nước ngoài nhằm phát triển năng lực kĩ thuật nhất là công nghệ quốc gia. Trong những năm, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật nhất là công nghê thông tin và viễn thông phát triển mạnh tạo điều kiện để tiếp cận và phát triển công nghê mới.
- Ngoài việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài để tạo cơ hội tiếp nhận tiến bộ kĩ thuật và công nghệ nước ta vẫn có thể sử dụng ngoại tệ có được nhờ xuất khẩu để nhập công nghệ mới phục vụ các nhu cầu sản xuất kinh doanh.Việc gia nhập ASEAN cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh vực.
2.1.1.4 Góp phần duy trì hòa bình ổn định, tạo dựng môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao vị trí của Việt Nam trong khu vực.
2.1.1.5 Tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn lực nước ta với các nước
Với dân số trên 80 triệu người nguồn nhân lực của nước ta khá dồi dào, việc hội nhập kinh tế trong khu vực sẽ tạo cơ hội để nguồn nhân lực của nước ta khia thông và giao lưu với các nước. Nước ta có thể thông qua hội nhập để xuất khẩu lao động hoặc có thể sử dụng lao động thông qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu. Đồng thời tạo cơ hội để nhập khẩu lao động kỹ thuật cao, các công nghệ mới, các phát minh sáng chế mà nước ta chưa có.
2.1.1.6 Cơ hội đối với các nhà doanh nghiệp
Theo các nhà kinh tế trọng thương, tất cả các quốc gia, các doanh nghiệp đều có thể tìm cho mình một ưu thế tương đối nào đó trong một nền kinh tế. Một khi quy mô nền kinh tế này được mở rộng thì ưu thế này càng tăng lên. Bên cạnh đó, việc gia nhập kinh tế trong khu vực sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam cọ xát trên thị trường để nâng cao trình độ quản lý, công nghệ, tiếp thị, chăm sóc khách hàng, thương thuyết hợp đồng để có thể tham gia vào thị trường thế giới một cách vững vàng và tự tin. Điều này giúp cho doanh nghiệp sản xuất và quản lý tốt có thể thu hút thêm được nguồn vốn và nhân lực từ các doanh nghiệp bị phá sản do kém cạnh tranh.
2.1.1.7 Cơ hội học hỏi nâng cao và hoàn thiện các giá trị văn hóa và giáo dục
Trong một nền kinh tế hội nhập thì việc trao đổi văn hóa – giáo dục giữa Việt Nam và các nước trên thế giới sẽ giúp chúng ta tìm hiểu, học hỏi và hấp thu những phương pháp giáo dục tích cực của các quốc gia trên thế giới mà gần nhất là các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á.
Bên cạnh đó, chúng ta rất có nhiều cơ hội giới thiệu với bạn bè láng giềng và vươn xa hơn là bạn bè thế giới những giá trị văn hóa Việt Nam, văn hóa Châu Á hết sức quý báu và đặc trưng. Người dân nước ta vốn được đánh giá chung là cần cù, sáng tạo, chịu khó học hỏi, như thế việc hội nhập sẽ tạo cho ta nhiều cơ hội tự hoàn thiện mình trong một nền kinh tế toàn cầu. Các nhân viên Việt Nam làm việc tại các công ty nước ngoài , các công ty đa quốc gia, các xí nghiệp liên doanh sẽ được học hỏi phong cách làm việc chủ động, có hiệu quả cao của các nhà quản lý có tầm cỡ cao trong khu vực. Ngay chính lực lượng lao động xuất khẩu đang làm việc tại nước ngoài, các sinh viên đang được đào tạo ở nước ngoài cũng sẽ là một đội ngũ tiềm năng giúp hoàn thiện các giá trị văn hóa và giáo dục Việt Nam. Các doanh nghiệp sẽ phải làm việc với các bạn tầm cỡ quốc tế và khu vực nên có nhiều cơ hội học hỏi văn hóa quản lý, tổ chức, đối nội đối ngoại để nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Đây là cơ hội hết sức cần thiết và quý giá cho một quốc gia đang tìm tòi hướng đi phát triển đúng đắn và hiệu quả như nước ta.
2.1.1.8 Cơ hội hoàn thiện các thể chế, hệ thống luật pháp và quản lý Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế
Một khi ta mở rộng phòng tay bạn bè, đối tác, các thể chế, định chế, hệ thống pháp luật và quản lý Nhà nước của chúng ta sẽ có nhiều cơ hội được đóng góp và hoàn thiện. Khi tham gia vào một sân chơi chung, chúng ta sẽ có dịp so sánh, cân nhắc để đặt ra những nhiệm vụ cụ thể trước mắt và lâu dài, nhìn nhận những yếu kém, bất cập để phán đấu tự hoàn thiện mình nhằm đạt đến một nền quản lý nhà nước hiệu quả hơn, hệ thống luật pháp chặt chẽ, nghiêm minh hơn và các thẻ chế vững mạnh, có thể phát huy tối đa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa theo phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”.
2.1.2 Thách thức
Bước đầu gia nhập ASEAN và kể cả sau này nữa, nó không chỉ đem lại những lợi ích mà còn đặt nước ta trước nhiều thử thách. Nếu chúng ta không có biện pháp ứng phó tốt thì sự thua thiệt về kinh tế và xã hội có thể rất lớn. Ngược lại, nếu chúng ta có chiến lược thông minh, chính sách khôn khéo sẽ hạn chế được thua thiệt, giành được lợi ích nhiều hơn cho đất nước:
Mặc dù nền kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng nhanh chóng, thuộc vào loại nhanh thứ hai ở châu Á, chỉ sau có Trung Quốc, song có điều chưa thể hoàn toàn yên tâm vì nguy cơ tụt hậu vẫn còn đó. Các số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê vào năm 2004 đã cho thấy, nếu xét theo GDP thực tế, Việt Nam hiện vẫn chỉ ở vị trí xếp hạng thứ 7 trong khối 10 nước ASEAN (đứng trước Myanma, Campuchia và Lào) và đứng thứ 58 trên thế giới, vẫn thuộc vào nhóm nước nghèo.
So sánh GDP giữa Việt Nam và Thái Lan (USD)
2002
2003
2004
2005
Thái Lan
2043
2173
2346
2580
Việt Nam
439
471
509
549
Hệ số so sánh TL/VN (lần)
4,65
4,61
4,60
4,69
Nguồn: Số liệu của ASEAN Statistic Unit
Để thực hiện được mục tiêu của Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX (2001) đề ra là trở thành nước công nghiệp. Chúng ta cần phải phấn đấu vượt qua một số trở ngại, thách thức sau đây trong tiến trình hội nhập ASEAN nói riêng và hội nhập kinh tế quốc tế nói chung:
Nguy cơ tụt hậu
Sự tồn tại một hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật của nền sản xuất xã hội còn nhiều lạc hậu, bao gồm cả những vấn đề còn rất nan giải như hệ thống máy móc, thiết bị chủ yếu là ở các thế hệ cũ, hệ thống giao thông - dịch vụ tài chính, ngân hàng... cùng với quá trình đô thị hoá tuy đã khá hơn nhiều so với trước song vẫn còn khấp khểnh chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển bền vững ở nước ta.
Năng lực cạnh tranh còn thấp, chậm được cải thiện.
Do các nước trong khu vực ASEAN có nền văn hóa tương đồng nhau nên có nhiều sản phẩm giống nhau.
Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) xét về các chỉ số cạnh tranh của nền kinh tế, Việt Nam xếp thứ 48/53 nước được xem xét năm 1999, 60/75 nước năm 2001 và 65/80 năm 2002.
Năng lực quản lý doanh nghiệp còn yếu. Nhiều doanh nghiệp nhà nước tồn tại được là nhờ có sự bảo hộ, trợ cấp của Nhà nước. Tỷ lệ doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ còn lớn. Xét về tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá như giá cả, chất lượng, mạng lưới tổ chức tiêu thụ và uy tín doanh nghiệp thì sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam cũng còn thua kém hơn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
Trình độ lao động còn thấp và hiện tượng “chảy máu chất xám”
Tuy những năm gần đây Việt Nam đã phát triển một cách vượt bậc nhưng vẫn còn đó những hạn chế, bất cập về nguồn nhân lực trình độ cao trước yêu cầu của hội nhập quốc tế và khu vực.
THÔNG SỐ CUNG – CẦU NHÂN LỰC TRỰC TUYẾN TẠI VIỆT NAM
Quý
Q3/2007
Q2/2007
Q1/2007
Q4/2006
Q3/2006
Chỉ số cầu
15.964
15.025
10.550
7.792
6.163
Chỉ số cung
10.719
11.580
8.864
9.661
10.254
Nguồn: www.vietnamworks.com
Trong các kỳ thi Olympic quốc tế, Việt Nam đã giành được nhiều huy chương vàng, bạc, đồng. Điều đó chứng tỏ nước ta có rất nhiều nhân tài nhưng vì chúng ta chưa có chính sách đào tạo, thu hút nhân tài cụ thể nên đã xảy ra hiện tượng “chảy máu chất xám”, những người có trình độ đã bị các công ty nước ngoài thu hút về làm việc còn các công ty của ta vẫn chưa thuyết phục được họ.
Nguy cơ phá hoại Xã hội Chủ nghĩa và phai nhạt bản sắc dân tộc
Khi mở của hội nhập thì nền văn hóa phương Tây xâm nhập vào Việt Nam càng nhiều, ảnh hưởng vào nước ta dưới nhiều dạng hình thức khác nhau, các loại hình văn hoá phẩm đồi truỵ lôi kéo, dụ dỗ người dân vào con đường lệch lạc trong cách sống, dẫn đến dễ bị tha hoá, biến chất thành những con người ích kỷ, thực dụng nên gây ra nhiều tệ nạn xã hội hòng chống phá chế độ Xã hội chủ nghĩa, đường lối đúng đắn của Đảng, của Nhà nước ta.
Bên cạnh việc hội nhập thì Việt Nam phải cải cách mạnh mẽ hơn nữa, đặc biệt là môi trường hành chính quốc gia, tập trung đẩy nhanh quá trình hoàn thiện kinh tế thị trường, giảm chi phí, tăng sức cạnh tranh cho các nhà đầu tư; nỗ lực đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao để đáp ứng nhu cầu phát triển không chỉ cho đất nước mà còn cho các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam.
Ngoài ra còn những khó khăn, thách thức khác là tình trạng môi trường thiên nhiên ngày càng xấu hơn, thiên tai, dịch bệnh do đó càng gia tăng mạnh, chủ nghĩa khủng bố vẫn đang là hiểm hoạ lớn nhất của thế giới không riêng gì Việt Nam... Những vấn đề này đòi hỏi chúng ta phải có biện pháp giải quyết triệt để, nếu không thì nguy cơ Việt Nam sẽ trở thành bãi rác của thế giới.
2.1.3 Giải pháp:
2.1.3.1 Đối với nhà nước:
- Tăng cường đối thoại và hợp tác nhằm đối phó những về các vấn đề chính trị-an ninh để nâng cao hiểu biết và tin cậy giữa các quốc gia; đẩy mạnh việc xây dựng các chuẩn mực và quy tắc ứng xử chung trong quan hệ giữa các nước.
- Để tận dụng được những cơ hội thu hút đầu tư từ các nước khác, Việt Nam cần phải tiếp tục cải thiện một cách đồng bộ và toàn diện môi trường đầu tư, tiếp tục các nỗ lực tự do hóa nền kinh tế và thi hành các chính sách cải cách, xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết để đổi mới kinh tế và tạo ra các ngành công nghiệp xuất khẩu có tính cạnh tranh hơn.
- Điềuchỉnhnềnkinhtếcủa mìnhtheohướngmởcửa,giảmvàhơnnữalàtháorỡcácràocảnthươngmại làmchoviệctraođổi,giaolưuhànghoávàlưuthôngcácnhântốsảnxuất ngàycàngthuậnlợihơn.
- Nhà nước cần có sự tham khảo ý kiến đóng góp của các doanh nghiệp nhằm tránh tình trạng các chính sách liên tục gây nên sự xáo trộn về kế hoạch sản xuất của các doanh nghiệp.
- Nhà nước cần đưa ra các biện pháp cân đối lại nguồn thu ngân sách để bù đắp lại phần thiếu hụt do cắt giảm thuế nhập khẩu.
- Ưu tiên tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Khu vực kinh tế tư nhân phát triển sẽ có thể tạo ra một khả năng cạnh tranh lớn cho hàng hoá Việt Nam cả về chất lượng và mẫu mã.
- Cần chú trọng xây dựng các biện pháp phi thuế quan tinh vi hơn như các biện pháp về tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh, về nhãn hiệu hàng hoá, về chất lượng sản phẩm và có định hướng theo chính sách bảo hộ sản xuất trong nước.
- Đơn giản hoá thủ tục xuất nhập khẩu, giảm thiểu mọi rắc rối về vấn đề thủ tục trong quan hệ thương mại của VN với các nước.
- Cần có kế hoạch và lịch trình cắt giảm thuế cho từng mặt hàng. Cần đặt mục tiêu thực hiện kế giảm thuế đối với những ngành có lợi thế so sánh trước mắt và đối với những ngành có lợi thế so sánh tiềm năng.
- Giữ nguyên mức thuế nhập khẩu đối với các nước ngoài ASEAN tạo ra sự chênh lệch giữa các nước ASEAN với các nước ngoài ASEAN, kích thích nước ngoài đầu tư vào ASEAN nói chung và VN nói riêng.
2.1.3.2 Đối với doanh nghiệp:
- Tăng cường hợp tác, tự cường khu vực, tăng cường phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô, tổ chức tập huấn những hiểu biết về ASEAN và AFTA cho các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh trên trường quốc tế.
- Sử dụng hợp lý sức mạnh tổng hợp của các nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực, đảm bảo hiệu quả chất lượng cao nhất.
- Tìm những phân khúc thị trường để đẩy mạnh những mặt hàng xuất khẩu, tiến hành đổi mới, thường xuyên thay đổi công nghệ sản xuất, để tăng khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế.
- DN cần biết tận dụng những ưu đãi về thuế quan (CEPT) để tăng tỷ lệ nguyên liệu nhập từ các nước ASEAN với mức thuế suất thấp.
- Các DN Việt Nam phải nâng cao hơn nữa sức cạnh tranh cho hàng hóa, tận dụng những lợi thế ASEAN là thị trường gần, có nhiều nét tương đồng, dân số đông, tốc độ tăng trưởng cao, chi phí cho quảng cáo và tiếp thị thấp,...
- Tổ chức đoàn khảo sát và nghiên cứu tìm các mặt hàng có thế mạnh để đẩy mạnh XK sang ASEAN cũng như phối hợp với các nước ASEAN để hợp tác trao đổi thông tin, hợp tác trong các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng các trang web riêng để cho DN tiếp cận.
- DN cần thâm nhập sâu hơn vào các nước thành viên ASEAN để tăng thị phần và xây dựng thương hiệu của mình.
- Để tăng cường khả năng cạnh tranh hàng hoá của Việt Nam các nhà bán lẻ trong nước cần thiết lập các mỗi quan hệ với nhau cũng như hợp tác cùng nhau trong từng ngành, giữa các ngành hoặc trong từng vùng cần nhằm xây dựng được chiến lược cạnh tranh hợp lý, nâng cao chất lượng hàng hoá, xây dựng và quảng bá thương hiệu bằng cách cải thiện phương thức kinh doanh, vốn, trình độ quản lý, công nghệ,...
- Tăng cường hợp tác nội khối, DN phải tích cực xuất ngoại tìm hiểu và tích cực phối hợp với DN bạn tăng cường đầu tư tiếp cận học hỏi những kỹ năng, kinh nghiệm,...của các nước phát triển trên thế giới, trang bị cho mình thật đầy đủ những kiến thức về hội nhập.
- Đào tạo, tuyển dụng cán bộ chuyên môn am hiểu pháp luật
- Phải đào tạo cho những con người của doanh nghiệp mình, sao họ có những kiến thức và kỹ năng tương đương với nguồn nhân lực của các nước tiên tiến.
- Hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô, tăng cường xuất khẩu thành phẩm,..
- Tìm nguồn nguyên liệu mới thay thế cho những tài nguyên đã cạn kiệt.
- Khai thác có hiệu quả đi đôi với tái tạo những tài nguyên có thể phục hồi.
- Hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường.
2.2 So sánh kinh tế và trình độ phát triển Việt Nam với 1 nước trong khu vực Đông Nam Á: Thái Lan
2.2.1 So sánh:
So với các nước trong khu vực, trình độ phát triển của kinh tế Việt Nam hiện nay nằm ở đâu? Sau đây ta thử so sánh Việt Nam với Thái Lan:
Hai nước có số dân xấp xỉ nhau (năm 1990, dân số Việt Nam là 66 triệu người, Thái Lan là 56 triệu; vào cuối năm 2003 dân số Việt Nam là 81 triệu và Thái Lan là 63 triệu)
Có cấu tạo tài nguyên gần giống nhau, và nhất là vào thập niên 1950, hai nước hầu như có cùng trình độ phát triển. Theo tư liệu của ECAFE, tiền thân của ESCAP (Uỷ ban của Liên hợp quốc về kinh tế và xã hội châu Á - Thái Bình Dương), vào năm 1954 thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam là 117 USD trong khi của Thái Lan vào năm 1952 là 108 USD.
Việc so sánh nước này với nước khác không phải dễ vì khó có một chỉ tiêu tổng hợp nào có thể biểu diễn tổng quát trình độ phát triển của một nước. Tuy nhiên, khảo sát một nhóm các chỉ tiêu cơ bản ta cũng có thể có một hình dung tương đối đầy đủ.
Bảng số liệu thống kê kinh tế của 2 nước:
Chỉ tiêu so sánh
Kinh tế số liệu thống kê Thái Lan
Kinh tế số liệu thống kê Việt Nam
Viện trợ theo% GDP
0,5%
5,4%
Xếp hạng 107.
Xếp hạng 47. gấp 10 lần so với Thái Lan
Tự do kinh tế
2,45
1,3
Xếp hạng 40. hơn 88% so với Việt Nam
Xếp hạng 138.
Xuất khẩu sang Mỹ
$ 3,492,300,000.00
$ 1,046,800,000.00
Đứng thứ 17. 2 lần so với Việt Nam
Xếp hạng 36.
GDP
$ 596,500,000,000.00
$ 262,500,000,000.00
Xếp hạng 22 trong năm 2006 hơn 127%so với Việt Nam.
Xếp hạng 37 trong năm 2006.
Tốc độ tăng trưởng GDP> hàng năm%
4,46 hàng năm%
8,42 hàng năm%
Xếp hạng 92 trong năm 2005.
Xếp hạng thứ 20 trong năm 2005 hơn 89% so với Thái Lan.
GDP (bình quân đầu
người)
$ 9,216.00 bình quân đầu người
$ 3,120.98 bình quân đầu người
Xếp hạng 69 trong năm 2006. hơn Việt Nam 195%
Xếp hạng 127 trong năm 2006.
GDP bình quân đầu người, PPP> quốc tế hiện hành $
8,677.48 PPP $
3,071.03 PPP $
Xếp hạng 57 trong năm 2005. hơn Việt Nam 183%
Xếp hạng 108 trong năm 2005.
GDP> PPP
$ 510,268,000,000.00
$ 222,172,000,000.00
Đứng thứ 19 hơn 130% so với Việt Nam
Xếp hạng 37.
Chỉ số GINI
41,98
37,55
Đứng thứ 11 trong năm 2002. hơn 12%so với Việt Nam
Xếp hạng thứ 14 trong năm 2002.
GNI
$ 118,000,000,000.00
$ 32,761,600,000.00
Xếp hạng thứ 30. 3 lần so với Việt Nam
Xếp hạng 53.
Tổng thu nhập quốc gia (mỗi GDP)
$ 22,48 cho mỗi $ 100
$ 14,42 cho mỗi $ 100
Xếp hạng 120. hơn 56% so với Việt Nam
Xếp hạng 159.
Hộ gia đình tiêu dùng cuối cùng chi phí, vv> hằng số Hoa Kỳ năm 2000 $ (bình quân đầu người)
1,398.7 hằng số Hoa Kỳ năm 2000 $ cho mỗi c
449,7 hằng số Hoa Kỳ năm 2000 $ cho mỗi c
Xếp hạng 50 vào năm 2005. 2 lần so với Việt Nam
Xếp hạng 82 trong năm 2005.
Chỉ số phát triển con người
0,778
0,704
Xếp hạng 73 hơn 11% so với Việt Nam
Xếp hạng 109.
Thu nhập loại
Thấp hơn thu nhập trung bình
Mức thu nhập thấp
Phân phối thu nhập> Nghèo nhất 10%
2,8%
3,6%
Xếp hạng 46.
Đứng thứ 19 hơn 29% so với Thái Lan
Phân phối thu nhập> Phong phú nhất 10%
32,4%
29,9%
Xếp hạng 44. 8% so với Việt Nam
Xếp hạng thứ 60.
Phân phối thu nhập> Phong phú nhất 20%
48,4%
44,5%
Xếp hạng 38. hơn 9% so với Việt Nam
Xếp thứ 64.
Tổng dự trữ trừ vàng> hiện tại USD
50690680000 $
9050884000 $
Xếp hạng thứ 13 trong năm 2005. 5 lầnso với Việt Nam
Xếp hạng 51 trong năm 2005.
Một chỉ tiêu thường được đem so sánh là tổng sản phẩm quốc gia (GNP) hoặc tổng sản phẩm trong nước (GDP) tính trên đầu người. Theo tư liệu của Ngân hàng thế giới, vào năm 2003, GNP đầu người ở Việt Nam là 480 USD, ở Thái Lan là 2.190 USD).
Tuy nhiên, những con số này không phản ảnh mức sống của dân chúng vì sức mua của đồng USD khác nhau giữa nước này với nước khác (PPP). Để so sánh chính xác hơn phải dựa trên GNP hoặc GDP tính theo tỷ giá so sánh ngang sức mua. Vào năm 2003, GNP trên đầu người theo PPP của Việt Nam gần 2.500 USD, người Thái Lan có mức sống cao hơn người Việt Nam khoảng ba lần.
Tuy nhiên, ở đây còn hai vấn đề nữa. Thứ nhất là vấn đề phân phối. Nếu việc phân phối lợi tức quá bất bình đẳng thì ý nghĩa của việc tăng tổng sản phẩm trên đầu người bị giảm đi. Vấn đề thứ hai liên quan đến môi sinh, môi trường, điều kiện làm việc. Hai nước dù có cùng thu nhập trên đầu người (trên cơ sở PPP) nhưng khác nhau ở mặt này thì rõ ràng là chất lượng cuộc sống của dân chúng không giống nhau. Tóm lại, nếu ta phát triển công bằng hơn và trong điều kiện môi trường, môi sinh tốt hơn thì không cần phải đạt gần 7.500 USD mới bằng mức sống của Thái Lan hiện nay.
Một cụm các chỉ tiêu khác chỉ trình độ phát triển của một nước liên quan đến trình độ chuyển dịch cơ cấu của một nền kinh tế. Những nước có mật độ dân số đông và xuất phát từ nền nông nghiệp lạc hậu phải qua con đường công nghiệp hoá mới phát triển được và mới hiện đại hoá được bản thân nền nông nghiệp.
Thống kê của Ngân hàng thế giới cho thấy vào năm 1994, tỷ trọng của công nghiệp trong GDP của Việt Nam là khoảng 22%, xấp xỉ tỷ trọng của Thái Lan vào khoảng năm 1980. Theo tính toán của Vũ Quang Việt (1994), chuyên viên cao cấp về thống kê của Liên hợp quốc thì vào năm 1993, tỷ lệ này của Việt Nam chỉ có 15%. Trong cuốn sách xuất bản tám năm trước, chúng tôi căn cứ trên con số này và đánh giá tỷ trọng công nghiệp trong GDP của Việt Nam tương đương với Thái Lan vào năm 1970 (Trần Văn Thọ 1997, Chương 15). Dĩ nhiên sau năm 1993, công nghiệp của Việt Nam phát triển nhanh và vào thời điểm gần đây, theo World Development Indicators của Ngân hàng thế giới, tỷ lệ đó của Việt Nam đã vượt quá 20%, tương đương với Thái Lan vào đầu thập niên 1980 (Thái Lan vào năm 2001 là 32%).
Về tỷ lệ của hàng công nghiệp trong tổng xuất khẩu, vào năm 2002 Việt Nam đã vượt mức 50%, tương đương với Thái Lan vào đầu thập niên 1980. Tổng hợp hai chỉ tiêu công nghiệp hoá và với vài phân tích bổ sung, ta có thể kết luận là vào đầu thế kỷ 21, Việt Nam đi chậm hơn Thái Lan độ 20 năm.
Tám năm trước, căn cứ theo dữ liệu thống kê năm 1993 hoặc 1994, tôi đã cho rằng Việt Nam đi chậm hơn Thái Lan độ 25 năm (Trần Văn Thọ 1997, Chương 15). Hai con số 25 năm và 20 năm vào hai thời điểm 1997 và 2003 nên được đánh giá như thế nào? Việt Nam đã phát triển nhanh hơn Thái Lan trong giai đoạn sau năm 1993 nên vào thời điểm gần đây, khoảng cách giữa Việt Nam và Thái Lan phải ngắn hơn khoảng cách 25 năm. Đây là lĩnh vực khó có sự chính xác về con số cụ thể nhưng ta có thể hình dung khoảng cách hiện nay giữa hai nước là khoảng 20 năm.
Bảng số liệu về xuất nhập khẩu của 2 nước:
Chỉ Tiêu
Năm
Việt Nam
Thái Lan
Kim ngạch xuất khẩu (Tỷ USD)
2009
56,6
150,3
2010
71,6
193,2
Kim ngạch nhập khẩu (Tỷ USD)
2009
68,8
130,8
2010
84
179,3
Cán cân thương mại (Tỷ USD)
2009
-12,2
19,5
2010
-12,4
13,9
Đặc biệt, về tình hình xuất nhập khẩu thì kim ngạch nhập khẩu (KNNK) hàng hoá năm 2009 của Việt Nam khoảng 68,8 tỷ USD, xuất khẩu đạt khoảng 56,6 tỷ USD với cán cân thương mại là -12,2 tỷ USD. Trong khi đó tổng kim ngạch nhập khẩu của Thái Lan là 130,8 tỷ USD, xuất khẩu là khoảng 150,3 tỷ USD với cán cân thương mại là 19,5 tỷ USD. Như vậy, Thái Lan có cán cân thương mại dương tức là cán cân thương mại có thặng dư, còn Việt Nam là cán cân thương mại có thâm hụt, Việt Nam lại là một nước nhập siêu, tình trạng nhập siêu kéo dài gây ảnh hưởng khá lớn đến nền kinh tế, nó làm sụt giảm nguồn dự trữ ngoại hối, tang nợ quốc gia và gây sức ép giảm giá đồng ngoại tệ…
Qua sự so sánh trên, ta thấy rằng:
Trong nửa sau thế kỷ 20, dòng thác công nghiệp đã lan nhanh cả về bề sâu và bề rộng tại vùng Đông Nam Á. Công cuộc đổi mới đã đưa Việt Nam hội nhập vào làn sóng công nghiệp tại khu vực này nhưng vào đầu thế kỷ 21, giữa Việt Nam và các nước lân cận còn một khoảng cách lớn về trình độ phát triển.
Trong vài thập niên tới, với lợi thế về nguồn nhân lực và lợi thế của nước đi sau trong một khu vực mà công nghệ, tư bản và tri thức kinh doanh đang di chuyển nhộn nhịp, Việt Nam hoàn toàn có khả năng rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, đó mới chỉ là tiềm năng và cơ hội. Điều kiện đủ là phải có quyết tâm vì mục tiêu thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, mạnh dạn đổi mới hơn nữa để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế và tích cực thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Đó là những yếu tố quan trọng để tư bản tích luỹ nhanh và kinh tế phát triển có hiệu suất, hai điều kiện tiên quyết để có tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững, tạo khả năng đuổi kịp các nước chung quanh.
2.2.2 Chiến lược rút ngắn khoảng cánh phát triển:
Phân tích trong phần trên cho thấy một cách khái quát là Việt Nam đi chậm hơn Thái Lan khoảng 20 năm.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là ta phải cần một thời gian như vậy mới bằng mức của Thái Lan bây giờ. Các nước đi sau nếu có chính sách đúng đắn có thể đốt giai đoạn và đây là khuynh hướng chung có thể thấy trong trường hợp của Nhật Bản, Hàn Quốc và nhiều nước khác.
Thêm vào đó, như đã nói ở trên, nếu ta phát triển trong sự phân phối đồng đều hơn, và trong điều kiện môi sinh, môi trường tốt hơn, nghĩa là chất lượng phát triển tốt hơn, thì ta có thể đạt được mức sống bằng Thái Lan bây giờ với mức lợi tức đầu người thấp hơn. Sau đây là một số những vấn đề và chính sách cụ thể:
2.2.2.1 Lợi thế về nguồn nhân lực, nhưng tình hình giáo dục lại ngày càng xuống cấp:
So với Thái Lan, Việt Nam hiện nay có một số lợi thế, nhất là về mặt nhân lực. Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tổng kết các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, thu nhập, đã đưa ra một chỉ số tổng hợp về việc phát triển nhân lực (human development index) của 177 nước. Theo Human Development Report 2004 (UNDP), vào năm 2002, Việt Nam xếp thứ 112 và Thái Lan thứ 76. Nếu xếp hạng theo GDP bình quân đầu người tính theo PPP thì Việt Nam đứng thứ 124, Thái Lan 67.
Các thống kê này cho thấy so với GDP/đầu người, Việt Nam có trình độ về nguồn nhân lực tương đối cao. Nếu nhìn các chỉ tiêu về nguồn nhân lực ở một số khía cạnh hẹp hơn như tỷ lệ người lớn biết chữ, ta thấy Việt Nam không thua kém bao nhiêu so với Thái Lan
Chú trọng quan tâm giải quyết triệt những vấn đề về giáo dục
Trình độ về nguồn nhân lực của Việt Nam sẽ được nâng cao hơn nữa và nếu lợi thế này được phát huy, khả năng rút ngắn khoảng cách với các nước chung quanh sẽ rất lớn.
2.2.2.2 Vị trí địa lý với bờ biển dài tiếp cận dễ dàng với các nước phát triển trong khu vực:
Yếu tố này cùng với sự ổn định về chính trị, xã hội và tiềm năng về con người nói trên đã khiến nhiều công ty nước ngoài quan tâm đến Việt Nam từ đầu thập niên 1990.
Cải thiện môi trường đầu tư
Ta sẽ không thiếu tư bản, công nghệ và tri thức kinh doanh cần thiết để đuổi theo các nước chung quanh trong quá trình phát triển.
2.2.2.3 Việc phân bổ các thành phố, các trung tâm kinh tế trong cả nước tương đối hài hoà:
Nếu có kế hoạch từ bây giờ, dân số và hoạt động kinh tế sẽ được phân tán rộng khắp cả nước.
Tránh tình trạng ô nhiễm môi trường và ngăn ngừa sự chênh lệch quá lớn về lợi tức giữa các tầng lớp dân chúng và giữa các khu vực. Đây là điều kiện để nâng cao chất lượng phát triển.
2.2.2.4 Để kinh tế phát triển với tốc độ cao và bền vững trong thời gian dài như vậy phải vừa đẩy nhanh quá trình tích luỹ tư bản vừa tạo điều kiện để kinh tế phát triển có hiệu suất
Thứ nhất, vấn đề tích luỹ tư bản.
Vấn đề hiện nay của Việt Nam là phải tạo môi trường thuận lợi để kích thích tư bản trong nước và nước ngoài tích cực đầu tư. (Để tích luỹ tư bản nhanh và có hiệu quả cần tăng đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI))
Tuy nhiên, FDI giảm liên tục từ năm 1997, gần đây mới hồi phục nhưng còn yếu. Trong tình trạng doanh nghiệp tư nhân trong nước còn nhỏ bé, các doanh nghiệp nhà nước còn yếu kém và đang trong quá trình cải cách, nếu không có một sự xoay chiều mạnh mẽ trong FDI thì kinh tế Việt Nam khó có thể tăng trưởng được ở mức cao.Nhìn sang các nước châu Á lân cận, ta thấy họ ngày càng nhận thức vai trò quan trọng của FDI trong xu thế toàn cầu hoá, và ra sức tạo điều kiện để thu hút FDI hơn nữa. Các nước này với quá trình phát triển và thu hút FDI trong nhiều thập kỷ đã xây dựng được một nền công nghiệp vững mạnh hơn Việt Nam rất nhiều. Có thể nói trình độ kỹ thuật, công nghệ, bề dày của tri thức quản lý kinh doanh tại các nước này đã tăng nhanh và phụ thuộc nhiều vào độ lớn của FDI được tích luỹ (FDI stock). Là một nước đi sau, FDI stock của Việt Nam quá nhỏ so với các nước lân cận là đương nhiên. Nhưng vấn đề đáng quan tâm ở đây là lưu lượng hàng năm (flow) của FDI vào Việt Nam cũng quá nhỏ so với Thái Lan chẳng hạn. Để rút ngắn khoảng cách, thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, phải quan tâm hơn đến vai trò của FDI.
Thứ hai là vấn đề phát triển có hiệu suất.
Cùng với việc đẩy mạnh tích luỹ tư bản, phát triển có hiệu suất là biện pháp hữu hiệu nhất để rút ngắn khoảng cách với các nước xung quanh. Tích luỹ tư bản dù được đẩy mạnh cũng không thể vượt qua một giới hạn nhất định vì vấn đề môi trường và những hạn chế về vốn, về công nghệ và thị trường, v.v.. Do đó, với cùng một tốc độ về tích luỹ tư bản nhưng nước nào phát triển có hiệu suất thì nền kinh tế sẽ phát triển với tốc độ cao hơn.
Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh (giữa các thành phần kinh tế) và hội nhập tích cực vào thị trường thế giới để tư bản và các yếu tố sản xuất khác được sử dụng một cách có hiệu quả nhất.
Có kế hoạch dài hạn trong việc xây dựng nguồn nhân lực đồng thời tạo cơ chế để nhân tài được sử dụng đúng chỗ.
Tạo môi trường để khoa học và công nghệ ứng dụng rộng rãi tại Việt Nam, tri thức về công nghệ và quản lý, kinh doanh được phổ biến rộng khắp.
Bộ máy hành chính cần phải được cải cách nhanh (quy rõ trách nhiệm và quyền hạn các cấp để có thể phân cấp quản lý) và tạo cơ chế để người tài giỏi và có phẩm chất đạo đức giữ những chức vụ quản lý nhà nước.
Bộ máy hành chính như hiện nay dễ làm tăng phí tổn hành chính của doanh nghiệp và làm nảy sinh những hiện tượng tiêu cực. Trong trạng thái đó, doanh nghiệp sẽ tìm cách tạo quan hệ không chính đáng với quan chức quản lý mà kinh tế học phát triển gọi là mưu tìm đặc lợi (rent-seeking) thay vì nỗ lực tìm kiếm thị trường, cải tiến công nghệ để giảm giá thành và tăng phẩm chất hàng sản xuất. Một nước phát triển nhanh và có hiệu suất khi các doanh nghiệp hăng hái, nỗ lực trong việc mưu tìm lợi nhuận (prrofit-seeking) chân chính hơn là mưu tìm đặc lợi.
CHƯƠNG III: KẾT LUẬN
Không ngoài xu thế đối thoại và hợp tác, Việt nam cũng đang trong quá trình mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế khu vực nói riêng và thế giới nói chung.
Gia nhập vào ASEAN là một bước ngoặt quan trọng trong quá trình hội nhập của Việt Nam. Chính việc đó đã đưa Việt Nam ngày càng tiến gần hơn với các nước trên thế giới, giảm bớt khoảng cách giữa các nước trong khu vực và làm nâng cao vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế.
Việt Nam cần phải cố gắng hơn nữa để “hòa nhập” chứ không “hòa tan” và không quên đi giá trị truyền thống vốn có của dân tộc khi tiếp cận được các nền văn hóa mới lạ của các nước bạn và các nước phương Tây.
Ngoài ra chúng ta cần đẩy mạnh phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm để có thể cạnh tranh được với các nước ASEAN và trên thế giới. Để thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài thì Việt Nam cần phải cải cách mạnh mẽ môi trường hành chính quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài; xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng - kỹ thuật tiên tiến tạo thuận lợi trong giao thương buôn bán; đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao để không những đáp ứng nhu cầu phát triển cho đất nước mà còn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy gia nhập vào ASEAN chỉ được 14 năm chưa phải là một chặng đường dài nhưng Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng và khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong khu vực và cả trên trường quốc tế. Tiếng nói của Việt Nam ngày càng được vang xa và lan tỏa.
Phía trước của ASEAN tuy cũng nhiều cơ hội để phát triển, song cũng không ít thách thức đòi hỏi Việt Nam cũng như các thành viên khác trong ASEAN phải tăng cường hợp tác, liên kết chặt chẽ hơn nữa; cố gắng biến ý tưởng “Tầm nhìn ASEAN 2020” thành hiện thực.
PHỤ LỤC
MỘT SỐ HÌNH ẢNH
Các nước trong khối ASEAN
Hội nghị cấp cao ASEAN lần VI
Hội nghị xúc tiến thương mại với Mianma
Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 12
Quan hệ hợp tác với Thái Lan được mở cửa
Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách Lịch sử nâng cao lớp 12 – NXB Bộ GD & ĐT
Sách Địa lí nâng cao lớp 11 – NXB Bộ GD & ĐT
www.vietbao.vn (Việt Báo)
www.mofa.gov.vn (Bộ ngoại giao Việt Nam)
www.aseansec.org (Trang web của ASEAN)
www.nationmaster.com
luanvan.net.vn
tailieu.vn
Và một số tài liệu tham khảo khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dlkt_hoan_chinh_0079.docx