Khả năng xuất khẩu của một doanh nghiệp sẽ giảm đi theo mức độ gia tăng của việc cạnh tranh trên thị trường. Trong ngành xuất khẩu TCMN, khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp xuất khẩu TCMN thường được thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
- Quy mô xuất khẩu: Thị trường xuất khẩu TCMN là một thị trường không lớn nhưng rất khắt khe về giá cả, chất lượng và tiến độ giao hàng. Để đảm bảo hiệu quả và nâng cao khả năng trên thị trường, các doanh nghiệp có quy mô lớn sẽ có nhiều lợi thế hơn các doanh nghiệp nhỏ.
- Tính linh hoạt: Thị trường xuất khẩu TCMN có những quy luật vận động riêng của nó, thường việc thay đổi nhu cầu thị trường diễn ra rất nhanh do đó doanh nghiệp có khả năng nhanh chóng đáp ứng được yêu cầu của thị trường sẽ có nhiều lợi thế trong cạnh tranh.
- Khả năng đáp ứng về tính đa dạng của sản phẩm: Sản phẩm TCMN phục vụ cho rất nhiều nhu cầu khác nhau với nhiều góc độ khác nhau. Vì vậy một doanh nghiệp sẽ có lợi thế cạnh tranh khi có khả năng đáp ứng được các yêu cầu phong phú, đa dạng của khách hàng về chủng loại sản phẩm.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp đẩy mạnh Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở địa bàn tình Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng nghiệp hoả.
Xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu hàng TCMN nói riêng tạo nguồn vốn ngoại tệ cho nhập khẩu và phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá của địa phương, doanh nghiệp. Công nghiệp hoá tạo ra lợi ích giúp các ngành công nghiệp phát triển, sản xuất phát triển, khắc phục tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp ở các địa phương hiện nay, khắc phục tình trạng nghèo nàn, chậm phát triển của các địa phương. Công nghiệp hoá nhanh trong một thời gian ngắn đòi hỏi phải có lượng vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến.
Các nguồn vốn nước ngoài như vay, viện trợ... tuy quan trọng nhưng cuối cùng cũng phải trả bằng cách này hay cách khác, trong khi đó ngân sách của Trung ương cấp ngày càng hạn hẹp. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hoá địa phương là tích cực đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ để có ngoại tệ nhập khẩu. Bởi vậy xuất khẩu của các địa phương quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu, quyết định tốc độ công nghiệp hoá của chính địa phương đó.
Thủ hai, xuất khẩu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy kỉnh tế phát ừiểri.
ở góc độ địa phương, hiện nay vẫn tồn tại cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sự phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do vượt quá nhu cầu, nếu chỉ thụ động chờ sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé, tăng trưởng chậm chạp, sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế hạn chế.
Thị trường quốc tế là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất, xuất khẩu do đó cần xuất phát từ nhu cầu thị trường quốc tế để tổ chức sản xuất. Điều này sẽ có tác dụng tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động của xuất khẩu thể hiện: (1) Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành sản xuất có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn nếu phát triển xuất khẩu TCMN tức là tạo cơ hội cho các ngành trồng cói, đay... và các vùng nguyên liệu phát triển, sẽ phát triển các làng nghề về TCMN. Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho sản xuất. (2) Xuất khẩu tạo những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất. Nói cách khác xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến từ nước ngoài vào doanh nghiệp sản xuất.
Thứ ba, xuất khẩu góp phần tạo việc làm, cải thiện đời sổng, giảm bớt tệ nạn xã
hội.
Tác động của xuất khẩu đối với xã hội bao gồm nhiều mặt, trước hết thúc đẩy các ngành sản xuất phục hồi và phát triển, sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng vạn lao động thủ công, tạo việc làm có thu nhập ổn định. Góp phần giải quyết nỗi lo không có việc làm của thanh niên và các tầng lớp xã hội khác. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở mở rộng và thúc đẩy quan hệ kỉnh tế đổi ngoại.
Xuất khẩu là một hoạt động có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chính sách xuất khẩu hàng hoá thúc đẩy quan hệ tín dựng, đầu tư, mở rộng thị trường du lịch, vận tải quốc tế... Mặt khác các quan hệ này lại tạo điều kiện để mở rộng xuất khẩu, kinh tế phát triển và gắn bó chặt chẽ với phân công lao động quốc tế.
Thủ năm, xuất khẩu là nhân tố thúc đẩy các doanh nghiệp luôn đổi mới và hoàn thiện quản lý sản xuất kinh doanh.
Với những lý do đã trình bày ở trên cho thấy xuất khẩu hàng hoá nói chung và hàng TCMN nói riêng có vai trò hết sức quan trọng, có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thông qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội để tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường quốc tế về giá cả cũng như chất lượng sản phẩm. Những yếu tố đó đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường.
Do cạnh tranh sản xuất hàng xuất khẩu đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới, hoàn thiện công tác quản lý kinh doanh. Đồng thời xuất khẩu giúp doanh nghiệp có ngoại tệ để tái đầu tư cho quá trình sản xuất cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động vào làm việc, tạo ra thu nhập ổn định, tạo nguồn ngoại tệ để nhập khẩu vật liệu sản xuất và tiêu dùng cần thiết, vừa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, vừa thu được lợi nhuận. Ngoài ra khi tiến hành hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp có cơ hội mở rộng buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài trên cơ sở đảm bảo lợi ích cho tất cả các bên, tăng doanh số và lợi nhuận; đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín của doanh nghiệp, góp phần nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thương trường.
Xuất khẩu khuyến khích phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp, chẳng hạn như hoạt động đầu tư, nghiên cứu và phát triển các hoạt động sản xuất, marketing cũng như sự phân bố và mở rộng trong việc cấp giấy phép.
Xuất khẩu góp phần không nhỏ vào việc tạo nguồn vốn chủ yếu để đầu tư, mua sắm mở rộng kinh doanh, trang bị máy móc, tạo nguồn vốn cho nhập khẩu thiết bị, nguyên vật liệu, đổi mới dây chuyền công nghệ... Có thể nói hoạt động xuất khẩu đóng vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp.
Hàng thủ công mỹ nghệ là những sản phẩm mang đậm nét văn hoá dân tộc nên không những chỉ đáp ứng nhu cầu hàng ngày mà còn là những sản phẩm văn hoá phục vụ đời sống tinh thần. Ngày nay xu hướng mua sắm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng gia tăng, đặc biệt ở các nước phát triển. Vì vậy, cần tận dụng những điểm mạnh có được để đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Đây là việc làm cần thiết vì không những thu được nhiều ngoại tệ về cho đất nước mà còn tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động, đặc biệt là lao động nông thôn. Do hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất chủ yếu từ nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước và nguyên liệu nhập khẩu thường không đáng kể nên xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đạt mức thực thu ngoại tệ rất cao, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động nông thôn. Mặt khác, hầu hết các mặt hàng thủ công mỹ nghệ đều mang những giá trị văn hoá, lịch sử nhất định nên việc xuất khẩu các mặt hàng này cũng có một vai trò không nhỏ trong việc truyền bá, giao lưu văn hoá Việt Nam đến các nước trên thế giới.
b) Đặc điểm xuất khẩu hàng TCMN
Đặc điểm về sản phẩm:
Đặc điểm nổi bật về sản phẩm hàng TCMN chủ yếu và phổ biến là sản phẩm thủ công truyền thống in đậm sắc thái văn hoá trong sản phẩm.
Sản phẩm thủ công truyền thống chủ yếu phục vụ nhu cầu hàng ngày; phần lớn quá trình sản xuất bằng tay, riêng công đoạn hỗ trợ có thể sử dụng máy móc; sản xuất dựa trên kỹ thuật hay công nghệ truyền thống (có từ 100 năm về trước) nhưng có thể tiến hành cải tiến kỹ thuật hay công nghệ mà không ảnh hưởng cơ bản đến sản phẩm thủ công đó; sử dụng phần lớn nguyên liệu truyền thống có tại địa phương.
Sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ của các làng nghề truyền thống đều là sự kết giao giữa phương pháp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật. Các sản phẩm đều mang tính cá biệt và có sắc thái đặc trưng riêng của mỗi một làng nghề. Cùng là đồ gốm sứ, nhưng người ta vẫn có thể phân biệt đâu là gốm, sứ Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà (Bắc Ninh) với Đông Triều (Quảng Ninh). Từ những con rồng chạm trổ ở các đình, chùa, hoa văn trên các trống đồng đến những nét chấm phá trên các bức thêu... đều mang vóc dáng dân tộc, quê hương, chứa đựng ảnh hưởng về văn hoá tinh thần, quan niệm về nhân văn và tín ngưỡng tôn giáo của từng vừng.
Các sản phẩm hàng TCMN vừa có giá trị sử dựng vừa có giá trị thẩm mỹ cao, nhiều loại sản phẩm vừa phục vụ nhu cầu tiêu dùng, vừa là vật trang trí trong nhà, đền, chùa,... Người thợ thủ công sản xuất hàng thủ công, trước hết là do yêu cầu kinh tế và nguồn sống của mình. Do đó, sản phẩm thủ công truyền thống tự thân đã là sản phẩm hàng hoá. Đó là các sản phẩm có giá trị kinh tế, nhưng đậm nét mỹ thuật, mỹ nghệ duyên dáng, thanh thoát bởi đó là sự kết hợp khéo léo, nhuần nhị vẻ đẹp nghệ thuật cổ với vẻ đẹp cách tân rất hiện đại, vừa sâu lắng, tinh tế lại vừa bóng bẩy. Chứng được mua bán, trao đổi với số lượng lớn trên thị trường trong nước và quốc tế, đem lại nguồn lợi kinh tế cho đất nước, cho doanh nghiệp cũng như cho người thợ ở các làng nghề.
Đặc điểm về thị trường tiêu thụ sản phẩm:
Hiện nay, sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ không chỉ tiêu dùng trong nước mà còn được xuất khẩu sang nhiều thị trường trên thế giới.
Sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ rất khác nhau, mang nét đặc trưng của làng nghề và thoả mãn những nhu cầu riêng biệt của con người, do vậy mỗi làng nghề đều hướng tới những thị trường riêng. Vì vậy, sự thăng trầm trong thị trường tiêu thụ của các làng nghề cũng phụ thuộc vào sự thăng trầm của từng thị trường đó.
Sản phẩm hàng TCMN hiện nay không chỉ có khả năng đáp ứng được nhu cầu đa dạng trong nước mà còn được xuất khẩu sang nhiều nước, có khả năng đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới.
Đặc điểm về vốn và quan hệ tín dụng:
Vốn là yếu tố quan trọng hàng đầu đảm bảo cho các làng nghề hoạt động được trong cơ chế thị trường, vốn là yếu tố quan trọng giúp các cơ sở ở các làng nghề mua sắm nguyên liệu, dựng cụ sản xuất, trả công cho lao động... vốn đảm bảo cho quá trình sản xuất ở các làng nghề diễn ra liên tục. Mặt khác, vốn còn là yếu tố giúp các cơ sở của các làng nghề đầu tư máy móc thiết bị, mở rộng quy mô sản xuất đi lên sản xuất lớn. Nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh ở các làng nghề đòi hỏi ngày càng lớn để sản xuất hàng xuất khẩu. Đa số nguồn vốn sản xuất của các làng nghề hiện nay là của cá nhân hoặc hộ gia đình. Các nguồn vốn chủ yếu trong các làng nghề hiện nay gồm nhiều hình thức nhưng chủ yếu là hai hình thức: vốn tự có và vốn vay.
Vốn tự có hiện chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong các làng nghề, đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi cơ chế vay vốn đang gặp nhiều bất cập. Tuy nhiên, để đảm bảo làng nghề phát triển, không thể dựa hoàn toàn vào nguồn vốn tự có được, do lượng vốn này quá nhỏ so với yêu cầu đầu tư phát triển sản xuất, đổi mới công nghệ. Đặc biệt, đối với các cơ sở sản xuất đã chuyên môn hoá, cần mở rộng phát triển sản xuất luôn đi cùng với đôỉ mới công nghệ, tạo lập mặt bằng nhà xưởng.
Vốn vay đang có nhu cầu ngày càng tăng. Việc đầu tư đổi mới công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như đào tạo công nhân đòi hỏi cũng phải có vốn đầu tư. vốn tự có trong các cơ sở sản xuất của làng nghề không đáng kể so với nhu cầu đầu tư phát triển sản xuất, đặc biệt do đổi mới công nghệ hay mở rộng quy mô sản xuất. Bởi vậy, vốn vay hiện nay chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển làng nghề nói riêng cũng như ngành nghề nông thôn nói chung.
Tại các làng nghề hiện nay quy mô vốn của đa số các cơ sở còn nhỏ, mức độ đầu tư cho tài sản cố định còn thấp, nhiều cơ sở thiếu vốn nhưng lại không có nhiều cơ hội để tiếp cận các nguồn vốn vay, đặc biệt là các nguồn vốn vay ưu đãi; đã xuất hiện một số hộ và cá nhân có vốn đứng ra làm “chủ bao mua”, “cai đầu dài”, làm đại lý cung ứng nguyên liệu và bao tiêu sản phẩm cho cả làng. Nhiều “ông cai” có trong tay từ hàng trăm triệu đồng đến hàng tỷ đồng. Những nguời này có quan hệ với chủ bao mua lớn ở các đô thị như Hà Nội, Thành phố HCM và hiểu rõ nhất các kênh cung ứng và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ ạ) Cơ cẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ
Ngành thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam có thể được phân loại thành 10 tiểu ngành,
gồm các nhóm cơ bản dưới đây:
Tre, mây, cói, lá
Gốm
-Gỗ
Thêu
-Dệt
Kim loại
Giấy thủ công
Các loại nguyên liệu khác nhau
Tác phẩm nghệ thuật
Khác
Theo báo cáo mới đây của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và cơ quan hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) thì sản xuất hàng thủ công ở tất cả những tiểu ngành này chủ yếu dựa trên một hệ thống gồm 2.017 làng nghề trên toàn quốc. Trong 10 nhóm hàng nêu trên, có các nhóm hàng cần quan tâm là:
Tre, mây, cỏi và lá
Từ nguồn dồi dào nguyên liệu thô ở các địa phương như tre, mây, cói và lá và cũng gồm có các nguyên liệu thô như guột, bèo tây, chuối hoặc rơm, Việt Nam sản xuất ra những đồ dùng trong gia đình như rổ, nôi, va-li, túi mua hàng, thảm lót (đĩa, cốc), bình phong và nhiều vật dụng khác. Các sản phẩm được phục vụ cho mục đích sử dụng và trang trí, sản phẩm rất đa dạng, phục vụ những thị hiếu khác nhau của khách hàng. Sản phẩm đan thu được kim ngạch xuất khẩu cao nhất. Các sản phẩm này được sản xuất ở nhiều tỉnh, thảnh phố trên cả nước nhưng hầu hết tập trung ở Hà Tây, Hà Nam, Thái Bình, Thanh Hoá, Khánh Hoà, Tiền Giang. Trong các năm gần đây, xuất khẩu sản phẩm thủ công từ nguyên liệu bèo tây đã phát triển nở rộ. Có nhiều làng nghề ở các tỉnh phía nam như Tiền Giang, Đồng Nai, Đồng Tháp và Thành phố Hồ Chí Minh đặc biệt chuyên về các sản phẩm từ bèo tây. Hoạt động cung cấp nguyên liệu như tre, mây, lá là một ngành tự thân có tầm quan trọng đặc biệt đối với thu nhập ở vùng nông thôn. Tuy nhiên, các nguyên liệu thô dồi dào trước kia ngày càng trở nên khan hiếm. Việt Nam hiện phải nhập khẩu tre từ Trung Quốc và mây từ Lào, Campuchia và In-đô-nê-xi-a. Nguyên liệu mây càn phải có sự lưu tâm đặc biệt do nó có truyền thống rất lâu đời. Việt Nam đã luôn được nhìn nhận là một đất nước của mây (đứng thứ ba chỉ sau In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a) và người Việt Nam rất giỏi chế tạo các sản phẩm không chỉ từ các giỏ đan làm bằng mây mà còn cả những đồ dùng bằng mây sử dựng trong nhà và ngoài trời. Ghế, bàn và ngăn kéo mây sản xuất ở Việt Nam đã trở nên rất phổ biến ở nhiều nước như Đức, Italia và Mỹ với nhu cầu thậm chí còn đang tăng lên.
Gốm sứ
Nghề gốm của Việt Nam có thể được chia ra làm 04 nhóm chính: Bộ đồ ăn, bình và lọ hoa, tượng và những vật dụng trang trí khác. Tuỳ thuộc vào công nghệ và nhiệt độ nung mà các sản phẩm sẽ là gốm, sứ. sành hay đất nung. Nghề gốm đã có ở Việt Nam từ hàng ngàn năm nay và các cơ sở sản xuất gốm phân bổ trên khắp cả nước. Tuy nhiên, một số trung tâm sản xuất sản phẩm gốm lớn nằm ở Hà Nội (Bát Tràng), Đồng Nai và Bình Dương. Gần đây, các sản phẩm nghệ thuật làm từ sành phục vụ nhu cầu trang trí nhà và vườn đã phát triển mạnh ở các tỉnh Đồng Nai, Vĩnh Long, Hà Nam và Bắc Ninh và đã thu hút được sự chú ý đặc biệt của các nhà nhập khẩu trên khắp thế giới.
Thêu ren và các sản phẩm dệt
Các sản phẩm thêu ren bằng tay hầu hết là khăn trải bàn, quần áo, váy, túi và những vật dụng sử dụng thông thường. Những sản phẩm này được tạo ra chủ yếu ở các làng nghề trong các tỉnh Hà Tây, Thái Bình, Ninh Bình và Hà Nam. Trước kia, những sản phẩm này chủ yếu được xuất khẩu sang các nước Đông Âu nhưng ngày nay, thị trường xuất khẩu đã mở rộng sang nhiều nước, đặc biệt là Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp và Italia. Các nhà xuất khẩu sản phẩm này gặp nhiều khó khăn trong hoạt động thâm nhập thị trường mới và cạnh tranh với các sản phẩm sản xuất bằng máy từ các nhà máy của Trung Quốc.
Sản phẩm dệt ở Việt Nam được tạo ra từ 432 làng nghề, trong đó có nhiều sản phẩm tò các dân tộc thiểu số. Các nguyên liệu sử dụng phổ biến là lụa, cotton, len và sợi lanh. Hầu hết 90% các làng nghề dệt đan phân bổ ở các tỉnh phía Bắc, đặc biệt là khu vực đồng bằng Sông Hồng. Quy mô sản phẩm dệt nhìn chung không đa dạng và hầu hết thành phẩm có giá trị gia tăng thấp. Sản phẩm từ lụa và cotton là các nguồn thu nhập chính. Khăn tay làm từ cotton (ở Thái Bình, Hà Tây, Nam Định...), sản phẩm dùng trong nhà tắm và nhà bếp làm từ các nguyên liệu dệt khác (Ninh Bình, Hà Tây...) là một số những sản phẩm dệt có tiềm năng xuất khẩu cao nhất. Tuy nhiên, hầu hết các nguyên liệu cotton thô đều phải nhập khẩu. Nhóm khác gồm có các dân tộc thiểu số sống ở các khu vực miền núi sử dụng các khung cửi và một số nguyên liệu đặc biệt và nhuộm màu tự nhiên. Đây là các nhóm sản phẩm có tiềm năng phát triển rất tốt nếu chúng ta phát triển các thị trường ngách cũng như tập trung vào thị trường thương mại bình đẳng. Do những khó khăn về nguồn nguyên liệu thô, các nhà sản xuất đang ngày càng sử dựng các nguyên liệu thô nhập khẩu giá rẻ, điều này sẽ làm giảm chất lượng các sản phẩm. Đối với các sản phẩm dệt và các sản phẩm của người thiểu số định hướng để xuất khẩu, điều vô cùng quan trọng quyết định đến thành công là sự sẵn có của nguyên liệu thô chất lượng cao, cải thiện chất lượng và phát triển thị trường
Sản phẩm đá quý và kim loại
Các vật phẩm dùng để trang trí và sản phẩm quà tặng làm từ kim loại như tượng nhỏ, đồ trang sức, chuông, chiêng và khung tranh. Trong số những sản phẩm này, các vật dụng như đồ mạ bạc, đồ đồng chế tác và đồ đúc bằng đồng thiếc được xuất khẩu. Gần đây, sản phẩm chế tác đồng đã tăng mạnh về kim ngạch xuất khẩu, đặc biệt do sự kết hợp giữa sản phẩm đồng chế tác với các nguyên liệu tự nhiên khác như mây, bèo tây và các nguyên liệu khác. Trên cơ sở kết hợp nguyên liệu này, có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm đa dạng trong thời điểm hiện nay. Có 45 làng nghề chạm khảm/tạc đá trong nước. Mặc dù 90% phân bổ ở miền Bắc, nhưng những làng nghề nổi tiếng nhất cả trong nước và quốc tế lại thuộc khu vực miền Trung (thành phố Đà Nằng). Thiết kế đang thịnh hành về chạm khảm đá cơ bản tập trung vào hình ảnh tôn giáo, tượng phật, tượng người, động vật và dụng cụ trong nhà. Thẳm mỹ của những thiết kế này cơ bản thiên về châu á. Đá rắn chủ yếu được sử dụng đối với các sản phẩm truyền thống như hình ảnh về phật, hình ảnh động vật truyền thống, các cột kiến trúc trang trí, lồng cầu thang... Nhiều thiết kế có thể được áp dụng đối với các loại đá mềm. Đá trắng có thể được nhuộm thảnh nhiều màu khác nhau, do đó, có thể tương thích với những thiết kế đa dạng. Những sản phẩm từ đá cho EU, Hoa Kỳ và Canađa gồm có tượng và các vật dụng trong vườn. Sử dụng đá mềm đang có xu hướng tăng lên. Các nhà mua hàng nước ngoài thường thích những thiết kế đơn giản và chưa hoàn thiện trên các sản phẩm đá thủ công.
Gỗ mỹ nghệ
Nhóm sản phẩm có ưu thế lớn của ngành gỗ là đồ dùng trong nhà, chiếm hơn 70% kim ngạch xuất khẩu. Hầu hết hoạt động sản xuất đồ dùng làm từ gỗ tập trung ở các tinh khu vực phía Bắc của Việt Nam như Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Dương, Nam Định, Hà Tây, trong khi đó thì ngành chế biến gỗ công nghiệp lại chủ yếu tập trung ở các tỉnh miền Trung và miền Nam. Các nhóm sản phẩm quan trọng tập trung vào sản phẩm bàn và đồ bếp. ở Việt Nam, những sản phẩm này chủ yếu được làm từ gỗ nhẹ hơn như gỗ thông và gỗ thích. Cũng có các hoạt động sản xuất lớn về các phụ kiện như khung tranh, khung ảnh, khung gương. Một số các sản phẩm thủ công đồ gỗ đòi hỏi sự tinh xảo như tượng, gỗ chạm khảm đang có xu hướng gia tăng, đặc biệt phục vụ cho các thị trường châu á như Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan.
Phân loại các sản phẩm thủ công mỹ nghệ
Phân loại theo tỉnh chất của sản phẩm, có hai nhóm lớn:
Nhóm các sản phẩm độc đáo, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc như: chạm, khảm vàng - bạc, chạm khảm gỗ, đồ sơn mài, tranh dân gian, đồ gốm mỹ nghệ, lụa tơ tằm, thổ cẩm, thêu... Đây là nhóm các mặt hàng không thể mất vị trí trong quá trình CNH, HĐH bởi sản phẩm mang tính nghệ thuật, không thể sản xuất hàng loạt bằng máy móc được. Đối với các nghề và làng nghề sản xuất các mặt hàng này, chứng ta cần phải phát huy được công nghệ truyền thống, động viên được các nghệ nhân tích cực truyền nghề để tránh đứt gãy nghề truyền thống, song vẫn cần phải sử dụng một số yếu tố kỹ thuật hiện đại vào những khâu sản xuất cần thiết, nhưng chủ yếu là cải tiến, nhằm giảm nhẹ sức người, nâng cao hiệu quả công nghệ truyền thống và sự sáng tạo của nghệ nhân.
Nhóm các sản phẩm mà phần nhiều mang giá trị sử dụng như gạch, ngói thông dụng, dệt may thông dụng, nông cụ, đồ gỗ thông dụng, các hàng nhựa - cao su - thuỷ tinh, đường kẹo, nước chấm... Nhìn về tương lai, những làng nghề sản xuất các mặt hàng này sẽ bị sức ép mạnh của kỹ thuật và công nghệ hiện đại.. Bởi thế, những nghề và làng nghề đó cần được đầu tư đổi mới công nghệ, đi dần vào guồng máy công nghiệp hiện đại.
Phân loại theo mục đích sản xuất, có 3 nhóm sản phẩm:
Các sản phẩm được sản xuất nhằm mục đích xuất khẩu đáp ứng nhu cầu của khách hàng quốc tế (xuất khẩu qua hải quan và xuất khẩu tại chỗ cho khách du lịch quốc tế).
Các sản phẩm được sản xuất nhằm mục đích tiêu thụ trên thị trường trong nước, đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong nước.
Các sản phẩm được sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính gia đình sản xuất tự sản tự tiêu (phần sản phẩm này chiếm tỷ trọng rất nhỏ).
Phân loại theo định hướng khách hàng tiêu thụ, cỏ 3 nhóm sản phẩm cơ bản:
Các sản phẩm được sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu trang trí trong các gia đình
hoặc văn phòng, khách sạn, nhà hàng,... Nhóm sản phẩm này chủ yếu là hàng TCMN tinh xảo, có tính dị biệt cao đáp ứng nhu cầu các thị trường “ngách” đa dạng trong và ngoài nước.
Các sản phẩm được sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu ăn, mặc, ở, đi, lại và sử dụng làm phương tiện sinh hoạt của con người... Đây là các sản phẩm được sản xuất hàng loạt với các tập khách hàng tương đối lớn và thông dụng, tính dị biệt của sản phẩm không cao.
Các sản phẩm đáp ứng nhu cầu sản xuất như nguyên liêu, công cụ...
Hiện nay, phạm vi hoạt động kinh doanh của không ít làng nghề không còn bó hẹp trong từng địa phương như trước đây nữa mà đã trở nên rộng rãi, ở cả quy mô quốc gia và quốc tế. ở hầu hết các làng nghề, tính chất “bí truyền” đã bị phá vỡ, nên công nghệ truyền thống từ “làng gốc” đã phát triển sang các làng nghề khác trong xã, trong vùng, hình thành nên các xã nghề, vùng nghề, các cụm công nghiệp làng nghề. Vì thế, quy mô sản phẩm hàng hoá của các làng nghề truyền thống ngày càng lớn, chuyển sang sản xuất hàng loạt.
Phân loại theo quốc tịch của khách hàng:
Các tập khách hàng quốc tế (đối với các sản phẩm xuất khẩu qua biên giới và xuất khẩu tại chỗ) gồm: các nhà nhập khẩu nước ngoài, các nhà sản xuất và người tiêu dùng có quốc tịch nước ngoài.
Các tập khách hàng trong nước gồm: các nhà sản xuất trong nước (đối với các sản phẩm là nguyên liệu, vật liệu, công cụ sản xuất ...); các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp và chủ đầu tư xây dựng (đối với các sản phẩm là vật liệu xây dựng, trang trí nội thất); người tiêu dùng ở các đô thị và nông thôn (đối với các sản phẩm thủ công mỹ nghệ và hàng tiêu dùng đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ, ăn, ở, đi lại của dân cư...).
Phân loại theo hình thức lưu thông phân phổi và tiêu dùng, có các tập khách hàng
sau:
Các nhà nhập khẩu nước ngoài trực tiếp ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với các doanh nghiệp ở các làng nghề truyền thống.
Các doang nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam ký hợp đồng cung cấp nguyên liệu thu mua sản phẩm để sản xuất hoặc hợp đồng thu mua gom sản phẩm của các làng nghề xuất khẩu.
Các thương nhân ở các đô thị lớn ký hợp đồng.
Các chủ thể tổ chức sản xuất kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ
Tất cả các nhóm ngành chính về gỗ, mây, tre, cói, gốm, dệt, thêu và sơn mài thông thường được sản xuất thông qua các hộ gia đình nhỏ trong làng nghề. Nguyên liệu thô hoặc là được sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu (các nhóm nguyên liệu như mây, tre, cói, chạm khắc gỗ, gốm...) thường được các cá nhân hoặc các hộ sản xuất đơn lẻ trực tiếp khai thác và thu hoạch từ các khu rừng lân cận ở các địa phương hoặc ở các tỉnh khác trong nước. Sau đó, họ bán nguyên liệu này cho những người thu gom với giá rất thấp để kiếm sống hàng ngày. Đối với các sản phẩm khác như dệt và thêu, hầu hết nguyên liệu thô gồm có vải hoặc chỉ được nhập khẩu do nguyên liệu sẵn có trong nước chất lượng thấp. Tơ Việt Nam có chất lượng tốt nhưng kỹ thuật nhuộm lại không đảm bảo.
Doanh nghiệp thu gom nguyên liệu thu thập nguyên liệu thô từ những nhà sản xuất nguyên liệu, tiến hành phân loại cơ bản xong rồi họ vận chuyển nguyên liệu tới các nhà bán buôn ở các tỉnh. Nhiều khâu trung gian tham gia vào mạng lưới này làm cho kênh nguyên liệu thô trở nên phức tạp và làm nâng giá mặt bằng sản xuất.
Doanh nghiệp xử lý nguyên liệu thô thu mua nguyên liệu từ những nhà thu gom hay những người bán buôn ở các tỉnh. Họ hoàn toàn khác những nhà sản xuất nguyên liệu/thu gom nguyên liệu/nhà bán buôn do họ tham gia vào nhiều hơn khâu xử lý và bán nguyên liệu đã được chế biến
Nhà sản xuất chủ yếu là các hộ gia đình tại làng nghề ở các khu vực nông thôn, đây là lực lượng lao động chính trong sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Ngành gốm phát triển ở mức độ cao hơn với sự xuất hiện của nhiều nhà máy tuyển dụng các lao động làm việc dài hạn.
Mặc dù mức thu nhập vẫn còn thấp, nhưng sản xuất hàng thủ công vẫn mang lại cho các hộ nhỏ kiếm được nguồn thu phi nông nghiệp bền vững bên cạnh việc sản xuất lương thực cơ bản. Trong nhiều trường hợp, thu nhập từ sản xuất hàng thủ công cao hơn so với sản xuất nông nghiệp. Chẳng hạn, với công việc đan ghế mây, một người nông dân có thể kiếm được trung bình 20.000 đồng/ngày (tương đương với 1 euro), số tiền này gấp hai lần so với việc người đó kiếm được từ sản xuất lúa trên diện tích gieo trồng trung bình là 360 m2.
Mức thu nhập thay đổi từ một nhóm sản phẩm này so với nhóm sản phẩm khác, với những người sản xuất đồ nội thất, tỷ lệ trung bình là 1,5 đôla Mỹ/ngày (thuộc diện thu nhập cao) trong khi ở tiểu ngành thêu lại có mức thu nhập ở mức thấp nhất với trung bình khoảng 0,55 đôla Mỹ/ngày.
Sản xuất theo kiểu gia đình ở các khu vực nông thôn thực sự rẻ hơn so với sản xuất tại nhà máy ở các thành phố lớn.
Người thu gom sản phẩm là những người sống tại các làng nghề và có vai trò như cầu nối giữa những thương gia kinh doanh mặt hàng này với các nhà sản xuất. Họ giữ trọng trách đối với nhiều loại công việc, từ cung cấp nguyên liệu cho người sản xuất (không thường xuyên), giám sát sản xuất, thu gom hàng và đôi khi họ cũng phụ trách khâu hoàn thiện sản phẩm (xử lý, nhuộm màu...) và đóng gói.
Cơ sở kinh doanh hàng thủ công ở nông thôn là những doanh nghiệp sản xuất quy mô nhỏ đặt tại các làng và có nhiều nhân công, có trang thiết bị căn bản và cũng thực hiện hoạt động thu gom sản phẩm, giám sát sản xuất và hoạt động hoàn thiện sản phẩm.
Doanh nghiệp cung cấp máy móc hiện tại không có vai trò lớn do trang thiết bị sử dụng trong ngành thủ công mỹ nghệ rất đơn giản, chỉ bao gồm lò nung gốm, máy sấy, máy tiện, máy nặn, máy may nhỏ, máy khoan, thiết bị phun dùng cho sản xuất đồ nội thất hoặc máy may cho sản phẩm dệt...
Doanh nghiệp xuất khẩu tìm kiếm nguồn hàng từ các nhà sản xuất ở các làng nghề, các nhà thu gom sản phẩm hoặc các nhà kinh doanh sản phẩm này ở nông thôn. Hầu hết các đơn hàng thực hiện theo hình thức hợp đồng phụ (subcon tract) với các nhà sản xuất. Trong một số trường hợp, các nhà xuất khẩu cũng cung cấp cho các nhà sản xuất ở các làng nghề nguyên liệu thô hoặc những cấu phần được làm sẵn.
Một phàn của hoạt động sản xuất đang ngày càng có xu hướng được thực hiện tại nhà máy của các nhà xuất khẩu (sản phẩm cần những kỹ năng hoặc trang thiết bị đặc biệt, khâu hoàn thiện sản phẩm, sản xuất những cấu phàn làm sẵn cho những thợ dệt và thợ gốm đòi hỏi công nghệ hiện đại) với lực lượng lao động gồm vài trăm, thậm chí hàng ngàn người.
Trước đây, các nhà xuất khẩu hàng thủ công ở một số thành phố chính và các tinh khác hầu như đều là những doanh nghiệp nhà nước. Vài năm trở lại đây, có sự gia tăng nhanh chóng về số lượng các công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân hoạt động kinh doanh rất thành công và đang cạnh tranh mạnh với các doanh nghiệp quốc doanh. Các nhà xuất khẩu khu vực tư nhân có tầm quan trọng ngày càng tăng.
Doanh nghiệp nhập khẩu hầu hết là những nhà bán buôn ở Châu Âu, Châu á hoặc Chây Mỹ, các cửa hàng lớn ở nước ngoài và những chuỗi bán lẻ mua trực tiếp từ các nhà sản xuất hoặc xuất khẩu của Việt Nam. Một số khách hàng quốc tế có đại lý hoặc văn phòng đại diện ở Việt Nam để tìm kiếm các sảm phẩm thủ công. Một vài người trong số họ là những doanh nghiệp lớn có thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Những công ty nước ngoài này có vai trò quan trọng trên thị trường và họ mua với số lượng lớn.
Toàn bộ khối lượng xuất khẩu hàng thủ công Việt Nam hiện nay phụ thuộc lớn vào một số rất ít những nhà mua hàng lớn. Một chuỗi bán lẻ ở Châu Âu chiếm khoảng 20% khối lượng xuất khẩu trên toàn quốc, một số ít hãng khác cũng nắm giữ vị trí quan trọng. Sự có mặt và các hoạt động mua hàng của những chuỗi như vậy ở Việt Nam mang lại một lợi thế lớn cho đất nước và cũng là lý do chính làm cho ngành có mức tăng trưởng nhanh chóng. Tuy nhiên, sự chiếm ưu thế cũng là một mối đe dọa lớn do ngành phải phụ thuộc nhiều vào họ.
Thông thường, các công ty nước ngoài tìm kiếm sản phẩm thông qua các nhà xuất khẩu (công ty tư nhân và những công ty xuất khẩu của nhà nước). Khách hàng thường lập kế hoạch sản xuất của họ trước từ 3-6 tháng. Họ cung cấp cho các nhà xuất khẩu catalogue, hình ảnh và những bức vẽ cùng với mã hàng và đặt hàng theo các mã hàng của họ.
Doanh nghiệp bán lẻ trong nước, đặc biệt là các cửa hàng ở các thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cũng có vai trò quan trọng trong marketìng sản phẩm thủ công của Việt Nam Các sản phẩm thủ công trưng bày ở những cửa hàng này hầu hết được các chủ cửa hàng lấy từ các làng nghề hoặc do các nhà thu gom và đôi khi do các công ty tư nhân ở các làng nghề giới thiệu.
Các cửa hàng tự phân biệt mình bằng chất lượng sản phẩm hàng hoá. Một số các cửa hàng chuyên về các sản phẩm chất lượng cao. Trong trường hợp này, thu nhập của họ hầu hết là do xuất khẩu cho các khách hàng nước ngoài và họ cũng đã mang đến khá nhiều thiết kế mới và thông tin cho các làng nghề. Họ phát triển các sản phẩm mới như một chiến lược cạnh tranh với các cửa hàng khác. Nhiều cửa hàng cũng nhằm vào đối tượng khách hàng là dân cư trong nước và khách du lịch.
Công ty giao nhận và kho vận hoặc là các công ty trong nước hoặc là các công ty nước ngoài cung cấp nhiều loại hình dịch vụ, từ tờ khai và thủ tục hải quan tới thuê contener, thuê tàu, vận chuyển nội địa... Cạnh tranh giữa các công ty vận chuyển rất khốc liệt. Mỗi công ty thường có thế mạnh trên một tuyến vận chuyển cụ thể.
Quan niệm, đặc điểm và vai trò của làng nghề
Quan niệm về làng nghề
Làng, xã với cơ cấu và tổ chức của nó là hiện tượng đặc thù của xã hội Việt Nam, được hình thành và phát triển rất lâu đời - Là nơi sinh ra các làng nghề thủ công. Quá trình phát triển của làng nghề là quá trình phát triển của tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn.
“Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một thôn (làng) có các nghề tách ra khỏi sản xuất nông nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập, chiếm ưu thế về số hộ, số lao động và số thu nhập so với nghề nông” [21, tr7].
Làng nghề có nhiều loại, có loại làng một nghề, làng nhiều nghề; có loại làng nghề truyền thống, làng nghề mới
Làng một nghề là những làng ngoài nghề nông ra chỉ còn thêm một nghề duy nhất chiếm ưu thế tuyệt đối như: Lụa Vạn Phúc, gốm Bát Tràng, chạm bạc Đồng Xâm...
Làng nhiều nghề là những làng ngoài nghề nông ra còn có một số nghề khác
Làng nghề truyền thống là những làng mà ở đó nghề được hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử, được nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác
Làng nghề mới là những làng nghề xuất hiện do sự lan toả của các làng nghề truyền thống trong những năm gàn đây (những năm sau cách mạng), đặc biệt trong quá trình đổi mới, thời kỳ chuyển sang kinh tế thị trường.
Các nhân tẻ chủ yếu ảnh hưởng đến việc khôi phục và phát triển của các làng nghề ở nông thôn
Sự biến động của nhu cầu thị trường
Các chính sách của Nhà nước
Kết cấu hạ tầng (Hệ thống đường giao thông, hệ thống cung cấp điện nước, bưu chính viễn thông, y tế, giáo dục, điều kiện sinh hoạt...)
Yếu tố truyền thống (sự lưu giữ truyền đạt những kinh nghiệm, kỹ thuật của sản xuất, những thói quen nghề nghiệp, những đức tính kiên trì, cần mẫn sáng tạo và cả ý chí quyết tâm đạt tới giá trị sản phẩm tốt, bền, đẹp về hình dáng mẫu mã của các nghệ nhân, thợ cả cho người thợ thế hệ sau)
Nguồn nguyên liệu là nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển làng nghề, tới việc đa dạng hoá sản phẩm trong các làng nghề (khối lượng, chất lượng và khoảng cách cung cấp nguyên vật liệu cho làng nghề có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của các làng nghề bởi lẽ chất lượng nguyên liệu ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm làng nghề làm ra, trữ lượng nguyên vật liệu ảnh hưởng đến sự tồn tại lâu dài của làng nghề, khoảng cách cung cấp nguyên vật liệu ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm của các cơ sở sản xuất).
Đặc điểm của các làng nghề ở nông thôn Việt Nam
Làng nghề tồn tại ở nông thôn gắn bó mật thiết với sản xuất nông nghiệp
Sản xuất trong các làng nghề (đặc biệt là làng nghề thủ công truyền thống) chủ yếu bằng phương pháp thủ công, công nghệ thô sơ, lạc hậu
Hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong các làng nghề nông thôn chủ yếu là quy mô gia đình
Phương pháp dạy nghề chủ yếu được thực hiện theo phương thức truyền nghề
Sản phẩm của các làng nghề đa dạng trong đó có một số sản phẩm có tính mỹ thuật cao, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc.
Vai trò của làng nghề trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn
Làng nghề không chỉ đơn thuần làm ra các sản phẩm hàng hoá, mà còn là nơi tiềm ẩn những giá trị văn hoá tinh thần và nơi bảo lưu, giữ gìn công nghệ truyền thống lâu đời của dân tộc. Môi trường văn hoá làng nghề phản ánh sinh động cách sống, lối sống và nếp sống giàu tính nhân văn. Có thể khái quát vai trò của làng nghề trên một số mặt chủ yếu sau:
Góp phần tích cực trong việc giải quyết việc làm cho người lao động ở khu vực nông thôn
Là nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Góp phần tăng khối lượng hàng hoá và sự đa dạng về chửng loại hàng hoá phục vụ cho nhu cầu nền kinh tế
Tạo điều kiện và thúc đẩy xây dựng một nông thôn Việt Nam mới, hiện đại
Góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc
Các hình thức xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
ạ) Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là xuất khẩu hàng hoá do chính doanh nghiệp sản xuất hoặc đặt mua của các doanh nghiệp sản xuất trong nước, sau đó xuất khẩu sản phẩm này cho khách nước ngoài.
Hình thức xuất khẩu trực tiếp đòi hỏi chính các doanh nghiệp trực tiếp bán sản phẩm của mình ra nước ngoài. Hình thức này có ưu điểm là công ty có thể kiểm soát toàn bộ hoặc từng phần kế hoạch marketing ở nước ngoài, thu thập được thông tin phản hồi ở thị trường, từ đó có thể cải tiến sản phẩm trong sản xuất, trong kinh doanh xuất khẩu, tập trung nỗ lực của mình cho sản phẩm do mình sản xuất và bảo vệ tốt hơn nhãn hiệu, bản quyền và những tài sản vô hình, đem lại nhiều lợi nhuận cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá, do không mất khoản chi phí trung gian và tăng uy tín cho doanh nghiệp nếu hàng hoá thoả mãn yêu cầu của đối tác giao dịch, có điều kiện thâm nhập thị trường, chủ động trong sản xuất, tiêu thụ hàng hoá. Tuy nhiên, phương thức này còn bộc lộ một số nhược điểm như: không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể áp dụng được, đòi hỏi một lượng vốn tương đối lớn và có quan hệ tốt với bạn hàng, dễ gặp rủi ro, sai lầm khi giao dịch ở một thị trường mới, người tiến hành phải có năng lực hiểu biết về kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương và phải có thời gian tích luỹ kinh nghiệm. Nếu các doanh nghiệp không nắm bắt kịp thời thông tin hoặc am hiểu ít về thị trường thế giới và đối thủ cạnh tranh thì rủi ro trong hình thức kinh doanh này không phải là ít.
Xuất khẩu gián tiếp
Hình thức xuất khẩu này không đòi hỏi sự tiếp xúc giữa nhà sản xuất và người mua ở nước ngoài. Nhà sản xuất bán sản phẩm của mình cho một công ty khác và công ty đó tiếp tục làm công tác xuất khẩu trực tiếp. Phương thức này thường áp dụng đối với các công ty có quy mô nhỏ hoặc trung bình mới xâm nhập thị trường chưa đủ điều kiện xuất khẩu trực tiếp. Hình thức xuất khẩu gián tiếp cũng gặp phải một số nhược điểm là nhà sản xuất không tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. Điều này làm cho nhà sản xuất không biết được sở thích mong muốn của khách hàng. Các doanh nghiệp có thể thực hiện xuất khẩu gián tiếp thông qua các hình thức sau:
Các công ty quản lý xuất khẩu (Exporrt Management Company - EMC): Công ty quản lý xuất khẩu hoạt động như một phòng xuất nhập khẩu của công ty. EMC sẽ thực hiện việc tìm kiếm thị trường cho nhà sản xuất, cố vấn cho nhà sản xuất về thị trường nước ngoài. Dịch vụ EMC được thanh toán bằng tiền hoa hồng.
Khách hàng nước ngoài (Foreign Buyer): Là hình thức xuất khẩu thông qua các nhân viên của các công ty nhập khẩu nước ngoài. Họ là những người được đào tạo và có hiểu biết về điều kiện cạnh tranh trên thị trường thế giới. Hình thức này nhà sản xuất không cần phải đích thân ra nước ngoài để đàm phán trực tiếp với đối tác. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng cần xem xét kỹ khách hàng để thiết lập mối quan hệ.
Nhà uỷ thác xuất khẩu (Exporrt Commission House): Là những người đại diện cho người mua nước ngoài cư trú trên nước của nhà xuất khẩu. Hoạt động dựa trên lợi ích của người mua và người mua trả tiền uỷ thác. Khi chuẩn bị có đơn đặt hàng nhà uỷ thác lập phiếu đặt hàng với nhà sản xuất và lo mọi chi tiết liên quan đến quá trình xuất khẩu. Bán hàng cho các nhà uỷ thác là một phương thức thuận lợi cho xuất khẩu, việc thanh toán diễn ra nhanh chóng cho nhà sản xuất, những vấn đề vận chuyển do nhà uỷ thác chịu hoàn toàn.
Môi giới xuất khẩu (Exporrt Borker): Là thực hiện chức năng làm môi giới giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu mà không xử lý mua bán trực tiếp. Người môi gới được nhà xuất khẩu uỷ nhiệm và tà hoa hồng cho hoạt động của họ. Những người này thường chuyên về một mặt hàng, nhóm hàng nhất định. Điểm quan trọng là họ có thể hoạt động độc lập cho người bán và người mua
Hãng buôn xuất khẩu (Export Merchants): Hãng buôn xuất khẩu thường đóng tại nước xuất khẩu và mua hàng của người chế biến hoặc của nhà xuất khẩu, sau đó tiếp tục thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu. Những rủi ro trong quá trình xuất khẩu hàng hoá do hãng buôn chịu. Nhược điểm khi sử dựng hãng buôn xuất khẩu là không thể tiếp cận với thị trường nước ngoài. Do đó không nhạy cảm với thị trường nước ngoài trước sự biến động của thị trường.
Hiệp hội xuất khẩu (Export Association): Liên kết với nhau giữa các thảnh viên để xuất khẩu ra thị trường, thống nhất giá bán tạo ra sức mạnh cho các thành viên xâm nhập thị trường.
Thời gian qua xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của ta diễn ra với hình thức này là: Doanh nghiệp ngoại thương với vai trò trung gian xuất khẩu thay cho các đơn vị sản xuất bằng các thủ tục cần thiết để xuất khẩu và hưởng phần trăm phí uỷ thác theo giá trị hàng xuất khẩu.
Ưu điểm của hình thức này là hạn chế được rủi ro, trách nhiệm ít bởi người đứng ra xuất khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng, không đòi hỏi vốn lớn. Tuy nhiên, lợi nhuận thu được cho doanh nghiệp ngoại thương không cao. Còn đối với doanh nghiệp xuất khẩu, khi thực hiện phương thức này họ sẽ mất một khoản phí uỷ thác mà không được tiếp cận với khách hàng nước ngoài, không tìm hiểu được về thị trường xuất khẩu...
Buôn bán đối lưu
Buôn bán đối lưu là hình thức trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi với nhau có giá trị tương đương, ở đây mục đích xuất khẩu không phải thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một hàng hoá có giá trị tương đương, vì những đặc điểm đó người ta gọi phương thức này là xuất nhập khẩu liên kết hoặc phương thức hàng đổi hàng.
Các hình thức buôn bán đối lưu như: hàng đổi hàng, giao dịch bù trừ, mua đối lưu, chuyển giao nghĩa vụ, bồi hoàn, mua lại.
Gia công xuất khẩu (gia công quốc tế)
Gia công quốc tế là một hình thức kinh doanh, trong đó một bên nhận gia công nguyên vật liệu hay bán thành phẩm của bên kia đặt gia công nhằm thu lợi nhuận (phí gia công).
Hình thức này được vận dựng khá phổ biến, nó mang lại lợi ích to lớn cho cả 2 bên đặt gia công và bên nhận gia công. Phương thức này đặt ra về phía nhà nước càn phải có một cơ chế định hướng và quản lý hoạt động gia công, về phía các doanh nghiệp phải nghiên cứu lựa chọn khai thác có hiệu quả hình thức gia công.
Các hình thức gia công như gia công thuê, gia công mua đứt bán đoạn và gia công kết hợp.
Xuất khẩu tại chỗ
Xuất khẩu tại chỗ là hình thức kinh doanh mà hàng xuất khẩu không cần vượt qua biên giới quốc gia nhưng khách hàng vẫn có thể mua được, ở hình thức này doanh nghiệp không cần phải đích thân ra nước ngoài đàm phán trực tiếp với người mua mà chính người mua lại tìm đến với doanh nghiệp do vậy doanh nghiệp không phải làm thủ tục hải quan, không phải thuê phương tiện vận chuyển, không phải mua bảo hiểm hàng hoá. Hình thức này thường được áp dụng với nước có thế mạnh về du lịch, có nhiều tổ chức nước ngoài đóng tại quốc gia đó.
Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng TCMN
ạ) Các nhân tổ của môi trường vĩ mô
Các nhân tố thuộc môi trường kinh tế
Hoạt động xuất nhập khẩu thực chất là bắc cầu để giao lưu hàng hoá giữa trong nước và ngoài nước, trong quá trình đó sẽ bộc lộ sự khác nhau về trình độ phát triển kinh tế và xã hội giữa các nước. Bởi vậy trình độ phát triển kinh tế giữa các nước, trình độ dân trí, thu nhập và mức sống của dân cư, sự ổn định của môi trường pháp luật... của quốc gia nhập khẩu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô hoạt động xuất khẩu đối với doanh nghiệp xuất khẩu của quốc gia xuất khẩu.
Một nền kinh tế phát triển ổn định của quốc gia nhập khẩu sẽ tạo điều kiện tốt để các doanh nghiệp mở rộng xuất khẩu, ngược lại, một nền kinh tế suy thoái, khủng hoảng chắc chắn sẽ không kích thích việc nhập khẩu. Điều này làm giảm khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu.
Một yếu tố khác có ảnh hưởng đến khả năng mở rộng xuất khẩu của các doanh nghiệp đó là tỷ giá hối đoái. Xuất khẩu là đưa hàng hoá từ nước này sang bán ở nước khác để thu ngoại tệ. Vì vậy mỗi tỷ giá của đồng nội tệ với các ngoại tệ sẽ quyết định tính kinh tế của việc xuất khẩu. Các doanh nghiệp sẽ đẩy mạnh xuất khẩu khi mối quan hệ này có lợi cho họ, ngược lại khi mối quan hệ này bất lợi, các doanh nghiệp sẽ có xu hướng giảm xuất khẩu.
Các nhân tẻ thuộc về môi ừĩĩờng chính trị, pháp luật
Hoạt động xuất khẩu này rất nhạy cảm với sự thay đổi của tình hình chính trị thế giới và trong nước; việc thay đổi đường lối đối nội, đối ngoại một quốc gia thường kéo theo sự thay đổi chính sách xuất nhập khẩu, điều này trực tiếp tác động tới khả năng mở rộng hay thu hẹp hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Xuất khẩu còn phụ thuộc vào đường lối, chính sách của quốc gia xuất khẩu và nhập khẩu trong từng giai đoạnh nhất định. Điều này được thể hiện thông qua các chính sách thuế, chính sách bảo hộ xuất khẩu và chính sách hạn chế xuất khẩu...
Ngược lại, những quy định của quốc gia nhập khẩu về hạn mức nhập khẩu, nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật, về thuế quan, quy định về thủ tục giao dịch, về bảo hành sản phẩm cũng như việc thực hiện nghiêm túc hay không các quy định ấy trong thực tế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng đẩy mạnh xuất khẩu trong một doanh nghiệp.
Các nhân tố thuộc về môi ừĩỉờng tự nhiên
Các điều kiện tự nhiên sẽ quyết định khả năng của nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể khai thác để chế biến xuất khẩu, nó ảnh hưởng đến lợi thế so sánh của một doanh nghiệp trong việc đẩy mạnh xuất khẩu.
Các yếu tố địa lý, địa hình, vị trí của doanh nghiệp trong quan hệ với hệ thống giao thông quốc tế cũng như khoảng cách tới thị trường tiêu thụ quan trọng sẽ có ảnh hưởng, quyết định đến chi phí vận tải và thời gian cần thiết đưa hàng hoá đến nơi tiêu dùng.
Ngoài ra vị trí địa lý cũng có ý nghĩa lớn trong việc tạo ra khả năng để phát triển các dịch vụ tái xuất khẩu, chuyển khẩu và xuất khẩu tại chỗ.
Các nhân tẻ thuộc về môi trường tâm lý - xã hội
Truyền thống lịch sử và văn hoá của quốc gia nhập khẩu là một nhân tố ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu của bất cứ một doanh nghiệp nào. Tập quán, thị hiếu, thói quen tiêu dùng của dân chúng chính là sự biểu hiện cụ thể nhất của lối sống trong một quốc gia.
Để đảm bảo cho hàng hoá của doanh nghiệp sản xuất ra có thể thâm nhập vào một thị trường nào đó trên thế giới, người sản xuất cần phải có sự am hiểu thật sâu sắc về truyền thống dân tộc, đời sống văn hoá, phong cách sống của dân cư nước nhập khẩu để từ đó hiểu rõ về thị hiếu, thói quen của người tiêu dùng. Thực tế cho thấy hàng xuất khẩu của Việt Nam nói chung và hàng TCMN nói riêng khi xuất khẩu sang các nước Châu á thì rất dễ dàng, song khi xuất khẩu sang các nước Châu Âu, Bắc Mỹ thì lại gặp rất nhiều trở ngại, khó khăn chủ yếu là do các nhà sản xuất Việt Nam chưa có hiểu biết đầy đủ về thị hiếu, thói quen tiêu dùng của người tiêu dùng các nước phương Tây.
Các nhân tố thuộc môi trường vi mô
Quy mô và yêu cầu của thị trường về sản phẩm
Đe có thể đẩy mạnh xuất khẩu của một doanh nghiệp, trước hết trên thị trường phải có nhu cầu về sản phẩm mà doanh nghiệp xuất khẩu với một quy mô đủ lớn, đồng thời sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất cũng phải có khả năng đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường về chất lượng, chủng loại, mẫu mã, uy tín, giá cả và các dịch vụ kèm theo... khả năng đáp ứng các yêu cầu của thị trường là điều kiện cơ bản để một doanh nghiệp có thể đẩy mạnh xuất khẩu của mình.
Khả năng đáp ứng của các ngành cung cấp nguyên liệu
Đe có thể mở rộng và phát triển xuất khẩu hàng TCMN của một doanh nghiệp bất kỳ, vấn đề quan trọng mà doanh nghiệp phải quan tâm đó là khả năng đáp ứng các nguồn cung cấp, đặc biệt là nguồn nguyên liệu. Chính khả năng đáp ứng của các nguồn cung cấp nguyên liệu về quy mô, chất lượng, cơ cấu chủng loại sẽ là nhân tố cơ bản quyết định quy
mô, chất lượng, cơ cấu, sản phẩm xuất khẩu của một doanh nghiệp trên thị trường. Nói
cách khác khả năng đáp ứng của các nguồn cung cấp nguyên liệu sẽ là nhân tố ảnh hưởng lớn đến khả năng đẩy mạnh xuáat khẩu hàng TCMN của một doanh nghiệp.
Ngoài ra khả năng đáp ứng đầy đủ nhu cầu về các yếu tố cơ sở hạ tầng như: giao thông vận tải, điện nước, thông tin liên lạc... cũng có vai trò rất lớn trong việc đảm bảo khả năng đẩy mạnh xuất khẩu của một doanh nghiệp.
Mức độ cạnh tranh trên thị trường
Khả năng xuất khẩu của một doanh nghiệp sẽ giảm đi theo mức độ gia tăng của việc cạnh tranh trên thị trường. Trong ngành xuất khẩu TCMN, khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp xuất khẩu TCMN thường được thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
Quy mô xuất khẩu: Thị trường xuất khẩu TCMN là một thị trường không lớn nhưng rất khắt khe về giá cả, chất lượng và tiến độ giao hàng. Để đảm bảo hiệu quả và nâng cao khả năng trên thị trường, các doanh nghiệp có quy mô lớn sẽ có nhiều lợi thế hơn các doanh nghiệp nhỏ.
Tính linh hoạt: Thị trường xuất khẩu TCMN có những quy luật vận động riêng của nó, thường việc thay đổi nhu cầu thị trường diễn ra rất nhanh do đó doanh nghiệp có khả năng nhanh chóng đáp ứng được yêu cầu của thị trường sẽ có nhiều lợi thế trong cạnh tranh.
Khả năng đáp ứng về tính đa dạng của sản phẩm: Sản phẩm TCMN phục vụ cho rất nhiều nhu cầu khác nhau với nhiều góc độ khác nhau. Vì vậy một doanh nghiệp sẽ có lợi thế cạnh tranh khi có khả năng đáp ứng được các yêu cầu phong phú, đa dạng của khách hàng về chủng loại sản phẩm.
Khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng: Đặc điểm cơ bản của sản phẩm TCMN là để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của người dân ở nước nhập khẩu. Vì vậy tiêu chuẩn chất lượng thường rất chặt chẽ, các sản phẩm chỉ được phép nhập khẩu khi đã xác định là đủ tiêu chuẩn chất lượng. Muốn xâm nhập và mở rộng thị trường để đẩy mạnh xuất khẩu, các doanh nghiệp phải có khả năng đáp ứng được các yêu cầu này, đây hiện đang là khâu yếu của các doanh nghiệp xuất khẩu TCMN Việt Nam nói chung.
Giá cả tiêu thụ: Vì các doanh nghiệp xuất khẩu hiện tại của Việt Nam chưa có khả năng tổ chức hoạt động phân phối, tiêu thụ sản phẩm ở các nước nhập khẩu mà thường bán hàng thông qua hệ thống phân phối của các khách hàng trung gian nước ngoài. Trong trường hợp này, yếu tố giá cả tỏ ra là một yếu tố cạnh tranh khá mạnh trong việc thuyết phục các khách hàng trung gian tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp mình.
Tên tuổi, uy tín của nhà xuất khẩu: về mặt tâm lý, người tiêu dùng tỏ ra an tâm và sẵn sàng chấp nhận sản phẩm của một nhà cung cấp mà mình đã tin dùng và đã có uy tín hơn là một nhà cung cấp ít tên tuổi.
Khả năng hoạt động hữu hiệu của các trung gian
Để thực hiện hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu TCMN phải thông qua một loạt các trung gian khác như: các trung gian vận chuyển, các trung gian thanh toán, các trung gian phân phối, tiêu thụ sản phẩm... Chính khả năng hoạt động hữu hiệu của các trung gian này sẽ góp phần quan trọng trong việc đẩy mạnh xuất khẩu của một doanh nghiệp.
Các yếu tố nội tại của doanh nghiệp và cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu
Doanh nghiệp và cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu có thể có những cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu, tuy nhiên các cơ hội đó có được doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nắm bắt để trở thành hiện thực hay không còn tuỳ thuộc vào khả năng nội tại của mình. Khả năng nội tại đó được thể hiện trên các khía cạnh sau:
Trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất: Đe sản phẩm có thể thâm nhập và cạnh tranh được trên thị trường xuất khẩu thì sản phẩm của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất phải có khả năng đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu khắt khe nhất của thị trường về chất lượng. Chính trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất sẽ quyết định khả năng đó.
Trình độ tay nghề của công nhân: Ngoài vấn đề kỹ thuật sản xuất, tay nghề của người thợ làm ra sản phẩm TCMN là một yếu tố rất quan trọng để sản xuất gia công hàng TCMN xuất khẩu vì nó ảnh hưởng đến chất lượng, giá thành sản phẩm... Khả năng xuất khẩu sẽ tăng lên nếu doanh nghiệp, cơ sở sản xuất có một đội ngũ lao động chất lượng cao, có khả năng sản xuất mọi loại sản phẩm theo yêu cầu của thị trường với chất lượng cao nhất và chi phí ít nhất. Điều này sẽ góp phần tạo ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trên thị trường xuất khẩu về giá cả, chất lượng và tính đa dạng của sản phẩm.
Trình độ tồ chức quản lý: Hoạt động xuất khẩu TCMN đòi hỏi phải có sự nỗ lực phối hợp cao và đồng bộ giữa tất cả các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh từ khâu tổ chức nghiên cứu thị trường, thiết kế sản phẩm đến khâu cung cấp nguyên vật liệu, tổ chức sản xuất, bảo quản, vận chuyển, tiêu thụ... Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp, cơ sở
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1_giai_phap_xuat_khau_hang_thu_cong_my_nghe_thanh_hoa_9123.doc