Doanh nghiệp phải có các can thiệp hướng vào luồng công việc và cơ
cấu của tổ chức để có sự phù hợp giữa giá trị và nhiệm vụ mới của tổ chức.
Trong thực tế không hiếm trường hợp người ta đưa ra những tuyên bố về
nhiệm vụ mới của tổ chức nhưng lại không đầu tư thích đáng cho việc rà soát
lại dòng chảy công việc, vào quản lý nhân sự và cơ cấu tổ chức. Thiếu sót này
khiến giá trị của tổ chức không hiện hữu được trong các hoạt động của doanh
nghiệp, dẫn đến xung đột giữa “văn hóa được đề xướng” với “văn hóa trong
thực tế”.
Ví dụ, trong tuyển dụng, việc đăng quảng cáo tuyển người của doanh
nghiệp cần thể hiện rõ ràng quan điểm, giá trị mà doanh nghiệp đòi hỏi. Nếu
bảng hỏi được thiết kế để đánh giá trong thi tuyển chỉ nhắm vào kiến thức, kỹ
năng là chưa đủ. Trong quy trình quản lý nhân sự nếu chuyển tải được giá trị,
mong đợi của doanh nghiệp vào khâu tuyển dụng thì các khâu sau đỡ phải xử lý.
79 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3735 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Văn hóa doanh nghiệp – bài học từ “hiện tượng FPT” và “sự cố arena”, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uyền tự hào.
Rất nhiều ý tưởng, giai thoại, truyện kể… ở FPT được lưu truyền rộng rãi,
chương trình Gặp nhau cuối tuần của VTV cũng vài lần dùng kịch bản của
FPT.
44
Điểm nổi bật của văn hóa S-ti-cô là tinh thần tự do sáng tạo, tự do ngôn
luận, miễn là hài hước, gây cười để thư giãn. Vì mục đích gây cười này, S-ti-
cô cho ra nhiều kịch, thơ, ca khúc (xuyên tạc lời), với ngôn từ khá tục. Nó
khuyến khích và đòi hỏi người tham gia phải có óc hài hước và đặc biệt là
phải hết sức bạo dạn.
Mặt tích cực của văn hóa công ty khuyến khích nhân viên bạo dạn là
những người chấp nhận được nó sẽ trở nên mạnh mẽ, tự tin. Và khi cá tính
được giải phóng, người ta có thể sáng tạo.
Tuy nhiên, lợi ích quan trọng hơn của văn hóa công ty là ở chỗ đó là cái
làm nên tinh thần của doanh nghiệp, là yếu tố gắn kết nhân viên và tạo ra sức
mạnh trường tồn cho doanh nghiệp. Một công ty phát triển không thể là nơi
nhân viên đến cãi cọ nhau, hoặc làm việc cho qua ngày rồi về.
Ông Mai Thanh Long đã nhận định: “Thành lập cùng thời điểm với
FPT có nhiều công ty tin học và máy tính khác như 3C, Hipt… Nhưng thật sự
chỉ có FPT là nhiều người biết đến nhất, phát triển nhanh nhất và mạnh nhất.
Đi theo FPT từ những ngày đầu, tôi tin rằng FPT thành công một phần rất lớn
là nhờ có văn hóa công ty”.
Trong một bài viết về vai trò của STC trong lòng người FPT, một nhân
viên của công ty đã viết: “Thật đáng tiếc, đôi khi người đời nhắc đến STC mà
quên không nói gì đến FPT. Nhưng ngược lại, hễ ai nhắc đến FPT thì cái tên
Sờ-ti-cô lúc nào cũng được nhắc tới…” Qua đây có thể thấy được hiệu quả
của STC không chỉ trong lòng nhân viên FPT mà những còn là biểu tượng, là
tiếng nói, là phong cách của công ty khi người ta nói đến FPT.
Phải nói rằng đối với một công ty chuyên về công nghệ, với áp lực
công việc và cạnh tranh vô cùng to lớn, lại ra đời vào thời điểm đất nước vừa
đổi mới, phải đối mặt với biết bao khó khăn, nhưng công ty đã vượt qua,
không những thế còn trở thành một công ty hùng mạnh như ngày nay. Không
thể phủ nhận vai trò của STC từ những ngày đầu gian khó đó, “STC là cứu
45
cánh cho các bậc tiền bối từ thời xa xưa ấy, tiếng hát, tiếng cười đã làm cho
họ quên đi cái đói, cái rét, cái phọt phẹt mà hướng về một tương lai mà đến
tận ngày nay chúng ta mới thấy nó tươi sáng, rực rỡ”, và cũng chính người
nhân viên ở trên đã viết.
Ngoài ra, STC còn là cái nôi để phát hiện và nuôi dưỡng tài năng nghệ
thuật ẩn giấu dưới những con người tưởng chừng như khô khan, như Nghệ sĩ
nhân dân Khắc Thành, Nghệ sĩ ưu tú Hưng Đỉnh… Và đây cũng là sân chơi
cho tất cả thành viên FPT thể hiện cái “tôi” của riêng mình. Một trong những
nguyên tắc của FPT là: “Hãy chứng tỏ bản thân và hãy tự tin”. Ở FPT chúng
ta có thể thấy tất cả các thành viên sẵn sàng lên sân khấu, lên đài ti vi mà
không chút ngượng ngùng, với một trạng thái hoàn toàn tự tin. Đây là một
công ty của Việt Nam và bản thân những nhân viên đó là người châu Á, đã
quen với những suy nghĩ điềm đạm và khiêm tốn. Nhưng người Mỹ thì khác,
họ luôn muốn thể hiện bản thân ngay từ bé. Và cách mà sếp huấn luyện nhân
viên, những nhân viên cũ huấn luyện những nhân viên mới, cả sinh viên thực
tập lâu năm truyền cho những sinh viên mới chập chững bước chân vào FPT,
dường như cũng theo một đặc điểm chung của dân Mỹ. Đó là khuyến khích
nhân viên của mình thể hiện bản thân và niềm tin rằng họ là số một (quả thật
hiện nay họ đang là số một – công ty tin học số một lớn nhất Việt Nam hiện
nay). Đây cũng là một trong những “chất FPT” mà người ta hay nhắc đến.
Một nhân viên FPT kể về ngày đầu gia nhập đội quân này: “Thú thật, ngày
đầu mới bước chân vào FPT, tôi cũng không quen và nhiều khi cũng cảm thấy
hơi khó chịu vì có cảm giác chúng ta đang tự đề cao mình. Sau này, khi đã
ngấm chất FPT, tôi hiểu ra, nếu chúng ta không có niềm tin, không khuyến
khích nhân viên như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ bị nhiều công ty nước ngoài
hoặc rất nhiều công ty khác đánh bại. Chỉ có những niềm tin như thế mới
khiến tất cả những nhân viên FPT dám nhận những trách nhiệm mà đa phần là
quá sức mình”. Chắc hẳn mỗi người khi lần đầu tiên được khuyến khích thể
46
hiện cái tôi mình như một bài hát, sáng tác một bài thơ hoặc lên sân khấu sẽ
để lại một cảm giác khó quên và sẽ giúp mình tự tin lên rất nhiều. Vào FPT ta
có thể chứng kiến người này hay người khác, là những người đi trước khuyến
khích những nhân viên hay những sinh viên thực tập, câu hỏi đầu tiên bao giờ
cũng là: “Chú có tài năng là gì?” Nếu cậu đó trả lời là: “Em biết hát” thì sẽ
nhận được câu tiếp theo: “Chú hát một bài cho anh em nghe nào”. Đối với họ,
điều quan trọng là dám hát chứ không cần hát hay. Và có thể thấy là họ rất
không ưa những câu trả lời đại loại như: “Em chẳng có tài năng gì” hoặc một
câu trả lời tròn trịa như: “Em biết mỗi thứ một tí…” Vì vậy ở FPT, cái “tôi”
được hết sức coi trọng trong cái “chúng ta” của chung FPT.
Không thể phủ nhận được rằng STC nói riêng và văn hóa doanh nghiệp
FPT nói chung đã góp phần làm lớn mạnh công ty như ngày nay. FPT đã có
những cú chuyển mình ngoạn mục. Doanh số năm đầu tiên thành lập (1988)
chỉ là khoảng 1,3 tỉ đồng. sau 6 năm, công ty mới đạt doanh số trên 100 tỉ
đồng và sau 15 năm (2003) đã đạt mốc trên 200 triệu USD, năm 2008 đạt con
số vô cùng đáng tự hào trên 1 tỉ USD [6].
4.2. Tác động phi tích cực
Tuy vậy, việc hai học viên nam của FPT Arena ăn mặc hở hang nhảy
múa trước mấy nghìn khán giả (gồm cả trẻ em, người cao tuổi và quan chức)
bị đông đảo ý kiến cho là phản cảm, thách thức dư luận.
Sự cố hai học viên trung tâm FPT Arena châm ngòi cho một cuộc tranh
cãi lớn trên nhiều diễn đàn, khi xã hội phê phán gay gắt văn hóa FPT và một
số nhân viên FPT phản công. Từ đó cũng lật lại nhiều vấn đề về văn hóa
doanh nghiệp - khái niệm được đề cập nhiều và ngày càng được nhấn mạnh ở
Việt Nam trong đời sống kinh tế hiện đại.
Ngoài ra, ông Mai Thanh Long, giám đốc FPT Arena, đã bị cách chức -
là người nghiên cứu rất sâu về văn hóa doanh nghiệp và đã từng làm luận văn
tốt nghiệp cao học quản trị kinh doanh về đề tài này.
47
Ông Long định nghĩa văn hóa doanh nghiệp “là sự tổng hòa những thói
quen, tập quán, thủ tục trong phạm vi một doanh nghiệp, lặp đi lặp lại theo
thời gian và trở nên hằn sâu trong suy nghĩ của mọi người trong doanh
nghiệp”.
Với cách định nghĩa này, tổ chức nào, cộng đồng nào cũng có một thứ
văn hóa riêng. Ngay cả các doanh nghiệp Nhà nước cũng có văn hóa của họ.
Tuy nhiên thực hiện màn múa khỏa thân như hai học viên ARENA đã làm thì
không được coi là văn hóa, và đã bị phản đối vô cùng dữ dội từ phía dư luận
và ngay chính những người FPT.
Nhiều người lật lại văn hóa STC và mặt trái của nó: không phù hợp với
văn hóa Việt Nam. Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu đã rất giận dữ khi biết được ca
khúc “Đoàn Vệ quốc quân” của ông bị xuyên tạc thành “công ty ca” [13].
Một người Việt Nam ở nước ngoài - nhà báo, dịch giả Trần Lê - nói:
"Nếu coi đó là một phần của cái gọi là văn hóa công ty, thì những gì FPT làm
giống như trò chơi trội của một đám trọc phú hãnh tiến. Họ chơi trội và
hướng nhân viên đi theo họ, lại còn bày đặt nâng nó lên tầm văn hóa”.
Mặt trái của văn hóa công ty đã bộc lộ: một khi văn hóa công ty không
nhận được sự đồng cảm từ cộng đồng bên ngoài, thậm chí đi ngược lại với
những chuẩn mực chung, thì lúc đó, công ty sẽ bị cô lập.
Các thành viên trong đó sẽ giống như một nhóm co cụm lại với nhau trong
thứ văn hóa của riêng họ. Điều này không mang lại lợi ích gì cho xã hội, và bất lợi
cho chính các cá nhân trong doanh nghiệp (chủ yếu là cho giới nhân viên).
Tác động đầu tiên đó là kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp. Văn
hóa doanh nghiệp với tư cách là nền “tiểu văn hóa” (subcultures) của nền văn
hóa dân tộc, cũng có những tác động đến doanh nghiệp giống như tác động
của nền văn hóa dân tộc đối với 1 quốc gia. Văn hóa dân tộc có thể là yếu tố
kìm hãm sự phát triển của bất kỳ quốc gia nào đặc biệt là khi nền văn hóa đó
chứa đựng những giá trị mang tính lạc hậu, bảo thủ, đi ngược lại xu thể chung
48
của thế giới. Tương tự, văn hóa doanh nghiệp cũng có thể kìm hãm doanh
nghiệp đổi mới, mở rộng cho phù hợp với những thay đổi của thị trường trong
và ngoài nước nếu văn hóa doanh nghiệp phát triển theo hướng cục bộ.
Thứ hai đó là níu kéo đổi mới và sáng tạo khi môi trường kinh doanh
thay đổi. Con người nhìn chung rất khó thay đổi phong cách sống, những thói
quen, thông lệ, và nhất là quan niệm đã ăn sâu vào tâm trí họ, đặc điểm đó
khiến họ khó chấp nhận và hòa nhập với những thay đổi của môi trường xung
quanh. Khi doanh nghiệp muốn thay đổi chiến lược, muốn mở rộng thị
trường, nhưng các thành viên lại không chấp nhận (nói cách khác là không
làm quen được) chiến lược mới và cố bám lấy những giá trị cũ, điều này nhất
định sẽ gây khó dễ cho hoạt động kinh doanh, thậm chí còn là nguyên nhân
dẫn đến sự thất bại hay suy yếu của doanh nghiệp.
Những yếu tố văn hóa doanh nghiệp lỗi thời cũng có tác động tiêu cực
không kém đến các doanh nghiệp. Phong cách quản lý truyền thống dựa trên
tinh thần Nho giáo, ý thức hệ gia trưởng, thống trị trong các tập đoàn này (ví
dụ như: nạn dùng bái mù quáng, đánh giá năng lực chủ yếu dựa vào thâm niên
làm việc, sự phụ thuộc vào những giá trị tập thể) là một trong những nguyên
nhân khiến cho các tập đoàn trở nên kém linh hoạt trước những thay đổi, bóp
nghẹt đi tính sáng tạo cá nhân, làm giảm hiệu quả hoạt động của công ty.
Bên cạnh những lời phê phán gay gắt, coi FPT là thiếu văn hóa, thì có
một số ý kiến ôn hòa hơn cho rằng nếu việc xuyên tạc bài hát, viết truyện,
diễn kịch bậy... là hành động bột phát thì không sao, nhưng không coi đó là
văn hóa công ty.
Vậy đến đây, vấn đề quay trở lại câu hỏi: Văn hóa công ty đến mức nào thì
không đi ngược lại những chuẩn mực chung của cộng đồng? Và cuối cùng thì văn
hóa công ty có thật sự cần thiết không, khi ngay cả đến Bill Gates cũng chẳng đòi
hỏi nhân viên Microsoft phải xây dựng một thứ văn hóa riêng? [11].
49
Ông Đỗ Lộng Đẩu (tạp chí Nhà quản lý), một người nghiên cứu lâu năm về
quản trị doanh nghiệp, cho rằng văn hóa công ty luôn cần thiết, nhất là khi Việt
Nam đã mở cửa để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, và khi chúng ta muốn chứng
kiến những doanh nghiệp có thể kỷ niệm sinh nhật lần thứ 20 trở lên.
"Có thể Bill Gates không đòi hỏi nhân viên của ông ta phải xây dựng
thứ văn hóa đặc trưng, nhưng chắc chắn trong sự trường tồn của Microsoft
phải có đóng góp của một yếu tố gắn kết con người và tạo động lực cho mỗi
cá nhân làm việc hết mình: văn hóa công ty" - ông Đẩu nói.
Và ai cũng biết đến một Google Company nổi tiếng với thứ văn hóa
“coi công ty như nhà”, nuông chiều nhân viên bằng cơ sở vật chất, trang thiết
bị hiện đại tối tân.
Sờ-ti-cô và những thứ tương tự có được coi là văn hóa doanh nghiệp
hay không là tùy cách đánh giá của mỗi người. Song, có thể nói việc giải
phóng cá tính cũng như thỏa mãn nhu cầu tự thể hiện bằng mọi cách cũng là
điều cần thiết, nhưng đó mới chỉ là bước mở đầu, cấp thấp trong việc tạo ra
một thứ văn hóa công ty lành mạnh và có ảnh hưởng tốt tới xã hội.
50
CHƢƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG VIỆC
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ DOANH
NGHIỆP Ở VIỆT NAM
1. Giải pháp chung cho các doanh nghiệp Việt Nam
1.1. Giải pháp đối với Nhà nƣớc
1.1.1. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong kinh doanh
Công cuộc đổi mới được khẳng định từ Đại hội toàn quốc lần thứ VI
của Đảng (12-1986) và thể chế kinh tế thị trường được công nhận đã mở ra
cho các doanh nghiệp, doanh nhân nước ta những điều kiện mới có ý nghĩa
quyết định để từng bước hình thành văn hóa doanh nghiệp phù hợp với đặc
điểm, xã hội nước ta, đó là văn hóa doanh nghiệp Việt Nam. Công cuộc đổi
mới đã đem lại sự giải phóng các lực lượng sản xuất, quyền tự do kinh doanh
của mọi công dân trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Đó cũng là
phát huy sức mạnh của toàn dân tộc cho công cuộc chấn hưng đất nước, mọi
người được tự do phát huy tài năng trí tuệ trong kinh doanh, làm giàu cho
mình và cho đất nước như Đại hội IX của Đảng đã quyết định. Có thể nói đây
là sự thể hiện nổi bật của văn hóa lãnh đạo, văn hóa quản lý: là sự lãnh đạo
phù hợp với quy luật phát triển của thời đại, phù hợp với nguyện vọng của cả
dân tộc, một dân tộc gan góc đấu tranh chống ngoại xâm trong hàng thế kỷ, nay
không cam tâm chịu mãi cảnh nghèo nàn, lạc hậu. Chính công cuộc đổi mới đã
mở đường cho sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp tư nhân và đội ngũ
doanh nhân mới, mở đường cho sự hình thành và phát triển văn hóa doanh nhân
mới, mở đường cho sự phát triển văn hóa doanh nghiệp Việt Nam.
Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam được hình thành là một phần quan
trọng của văn hóa Việt Nam được lưu truyền và bồi đắp từ thế hệ này đến thế
51
hệ khác mà chúng ta cần gìn giữ và bồi đắp tiếp trong giai đoạn công nghiệp
hóa, hiện đại hóa hiện nay và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. văn hóa
doanh nghiệp nước ta tiếp thu những nhân tố văn hóa trong kinh doanh hình
thành qua nhiều năm của các nền kinh tế hàng hóa trên thế giới, đồng thời tiếp
thu và phát huy những tinh hoa văn hóa trong kinh doanh của cha ông, vận
dụng phù hợp với đặc điểm xã hội ngày nay, đó là hiện đại hóa truyền thống
đi đôi với sự truyền thống hóa hiện đại. Chỉ có như vậy mới kết hợp được tốt
truyền thống và hiện đại. Đó là sự kết hợp có chọn lọc và nâng cao, từng bước
hình thành văn hóa doanh nghiệp mang đặc sắc Việt Nam.
1.1.2. Xây dựng môi trường cho văn hóa doanh nghiệp
Có thể thấy rõ: văn hóa doanh nghiệp bao gồm các yếu tố pháp luật và
đạo đức. Văn hóa doanh nghiệp không thể hình thành một cách tự phát mà
phải được hình thành thông qua nhiều hoạt động của bản thân mỗi doanh
nghiệp, mỗi doanh nhân, của Nhà nước và các tổ chức xã hội. Thực tiễn cho
thấy hệ thống thể chế, đặc biệt là thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế
hành chính, thể chế văn hóa tác động rất sâu sắc đến việc hình thành và hoàn
thiện văn hóa doanh nghiệp.
Xây dựng văn hóa doanh nghiệp đem lại lợi ích to lớn cho doanh
nghiệp. Lợi ích trước nhất là ở chỗ văn hóa doanh nghiệp tạo ra sự cố kết, tính
thống nhất cao, hướng tới những mục tiêu mà doanh nghiệp đã vạch ra bằng
những hành động tự nguyện, phối hợp nhịp nhàng.
Văn hóa doanh nghiệp còn tạo ra môi trường làm việc thân thiện, hiệu
quả, trong đó năng lực và sự sáng tạo của cá nhân được phát huy. Các thành
viên sẽ tự hào và gắn bó sâu sắc với doanh nghiệp. Tình trạng biến động nhân
sự hoặc chảy máu chất xám sẽ ít xảy ra. Văn hóa doanh nghiệp đem lại lợi ích
như vậy, nhưng làm thế nào để xây dựng văn hóa doanh nghiệp?
Như trên đã nói, chính người chủ hay người sáng lập doanh nghiệp
đóng vai trò quyết định trong việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp. Bên cạnh
52
đó, sự chia sẻ, đồng thuận, và cùng nhau thực hiện của mọi thành viên trong
doanh nghiệp cũng là nhân tố không thể thiếu. Tuy vậy, yếu tố môi trường
bên ngoài cũng rất quan trọng. văn hóa doanh nghiệp chỉ có thể hình thành và
phát triển khi mà các thể chế chính trị, kinh tế khơi dậy tinh thần kinh doanh
trong nhân dân, khuyến khích mọi người, mọi thành phần kinh tế cùng hăng
hái làm giàu cho mình và cho đất nước, khuyến khích doanh nghiệp thực hiện
các biện pháp hợp pháp trong việc mưu cầu lợi nhuận cao, ngăn chặn những
hàng vi phạm pháp, những kiểu làm ăn phi văn hóa, chạy chọt cửa sau, lợi
dụng các quan hệ không lành mạnh để kiếm lời.
Như vậy ở đây, Nhà nước có vai trò tạo ra môi trường thuận lợi cho văn
hóa doanh nghiệp phát triển. Thiếu một sân chơi bình đẳng, công bằng, lành
mạnh cho doanh nghiệp thì khó lòng nói đến văn hóa doanh nghiệp. Mặt
khác, quan hệ giữa cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp cũng cần phải
đặt trên nền tảng văn hóa, như ý kiến của ông Lê Đăng Doanh – cố vấn kinh
tế của Thủ tướng Chính phủ: “Để cho kinh doanh có văn hóa, viên chức phải
hành xử đúng pháp luật, có trách nhiệm và có văn hóa. Không thể đòi hỏi
doanh nghiệp trong sạch nếu bộ máy tham nhũng, cũng như không thể đòi hỏi
doanh nghiệp phải có văn hóa trong khi viên chức Nhà nước cũng ứng xử tư
lợi và thiếu văn hóa”.
Xin nêu lên một số điểm về thể chế cần được quan tâm để hình thành
và ngày càng hoàn thiện văn hóa doanh nghiệp phù hợp với đặc điểm nước ta.
Một là, khơi dậy tinh thần kinh doanh trong nhân dân, khuyến khích
mọi người, mọi thành phần kinh tế cùng hăng hái tìm cách làm giàu cho mình
và cho đất nước. Xóa bỏ quan niệm cho rằng kinh doanh là xấu, coi thường
thương mại, chỉ coi trọng quan chức, không coi trọng thậm chí đố kỵ doanh
nhân. Xóa bỏ tâm lý ỷ lại, dựa vào bao cấp của Nhà nước, đề cao những nhân
tố mới trong kinh doanh, những ý tưởng sáng tạo, sáng kiến tăng năng suất
lao động, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Tôn vinh những doanh nhân
53
năng động, sáng tạo, kinh doanh đạt hiệu quả cao, có ý chí vươn lên, làm rạng
rỡ thương hiệu Việt Nam trên thị trường thế giới.
Trong thực tế, trải qua những năm đổi mới, bằng thể nghiệm của bản
thân cũng như của mỗi gia đình, ngày nay, nhân dân ta đã thấy rõ việc chuyển
đổi từ kế hoạch hóa tập trung sang thể chế thị trường là tất yếu, thái độ của
người dân đối với kinh tế thị trường là thái độ thiện cảm. Vấn đề còn lại là các
cơ quan Nhà nước phải tiếp tục thay đổi tư duy quản lý, đề xuất những chủ
trương, chính sách quản lý đủ mạnh để khuyến khích hơn nữa tinh thần kinh
doanh trong các thành phần kinh tế, tạo môi trường thuận lợi về thể chế và
tâm lý xã hội cho sự phát triển kinh tế tư nhân, xóa bỏ sự phân biệt đối với
kinh tế tư nhân kể cả trong tư duy cũng như trong các chủ trương, chính sách
cụ thể.
Hai là Nhà nước cần tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị
trường, từng bước hình thành thể chế kinh tế thị trường phù hợp với đặc điểm
nước ta. Thực tế cho thấy, thể chế kinh tế có tác động rất lớn đối với hình
thành văn hóa doanh nghiệp. Do đó, điều cần nhấn mạnh là thể chế kinh tế
phải đủ sức khuyến khích doanh nhân phát huy truyền thống văn hóa doanh
nghiệp của thời đại, kết hợp chặt chẽ giữa truyền thống văn hóa trong kinh
doanh của cha ông, bổ sung những nhân tố mới trong văn hóa doanh nghiệp
của thời đại đảm bảo cho kinh tế thị trường triển khai lành mạnh, đạt hiệu quả
cao, văn hóa doanh nghiệp được hình thành với những đặc điểm của nước ta.
Thể chế đó phải được chú trọng khuyến khích doanh nghiệp xác định
đúng đắn chiến lược kinh doanh, có mục tiêu phấn đấu lâu dài, nâng cao sức
cạnh tranh, có chương trình làm ăn căn cơ theo định hướng quy hoạch, kế hoạch
chuyển đổi cơ cấu của nền kinh tế, không những phải thành công trong nước mà
còn vươn ra thế giới, đạt hiệu quả cao trong hội nhập kinh tế quốc tế, khắc phục
tâm lý kinh doanh cò con, manh mún, không đầu từ lớn, làm ăn lâu dài.
54
1.1.3. Nâng cao nhận thức cộng đồng về vai trò của doanh nhân và tầm
quan trọng của văn hóa doanh nghiệp
Nhận thức bao giờ cũng là khởi điểm cho mọi hành động. Hiện nay,
chúng ta vẫn còn thiếu những định hướng xã hội nhằm tạo dựng văn hóa, văn
hóa tiêu dùng, tạo nên bầu không khí và áp lực dư luận xã hội đối với vấn đề
này. Sự chú ý của các tổ chức xã hội, các tổ chức phi chính phủ ở nước ra cho
đến nay hầu như vắng bóng trên lĩnh vực này. Chính vì thế việc nâng cao
nhận thức cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng và phát
triển văn hóa doanh nghiệp. Mà chủ thể của văn hóa doanh nghiệp là doanh
nhân, và sự nhìn nhận đúng đắn và khách quan về vai trò của đội ngũ doanh
nhân trong xã hội cũng có tác động tích cực đến sự phát triển của cộng đồng
doanh nghiệp và văn hóa doanh nghiệp Việt Nam.
Thái độ trân trọng, tôn vinh anh hùng và biểu dương truyền thống anh
hùng đã tạo cho nhân dân ta niềm vinh dự chính đáng nhưng trong xã hội ta
dường như chưa có tập quán tôn vinh những nhà doanh nghiệp thực thụ. Thái
độ trân trọng và tôn vinh những nhà doanh nghiệp làm ăn giỏi sẽ tạo ra trong
nhân dân một niềm vinh dự, tự hào chính đáng. Đó là đặc điểm văn hóa, là sức
mạnh tinh thần luôn thôi thúc khát vọng làm giàu mà chúng ta đang rất cần hiện
nay. Một môi trường văn hóa, xã hội không thuận lợi sẽ hạn chế rất lớn quá trình
hình thành những giá trị văn hóa mới rất cần thiết cho thời kỳ mới.
Cần đổi mới những quan điểm về kinh doanh, về đảng viên có được
làm kinh tế tư nhân cũng như những nhận thức mới về các nhà doanh nghiệp
trong điều kiện hiện nay. Đây là vấn đề khá nhạy cảm những lại rất cần cho
sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và tạo nền tảng cho việc
xây dựng và phát triển của văn hóa doanh nghiệp. Cần phải thấy rằng doanh
nhân là chủ thể quan trọng, là tế bào của nền kinh tế, mà ở đó tạo ra của cải
cho xã hội, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tạo ra giá trị gia tăng,
55
nộp thuế cho Nhà nước, là người thực hiện đầu tư làm tăng trưởng kinh tế.
Nếu không có doanh nghiệp thì cũng không có nền kinh tế hàng hóa. Nếu có
nhưng yếu hay thiếu thì cũng không thể hy vọng về một nền kinh tế phát triển
bền vững. Mọi chủ trương, đường lối, biện pháp kinh tế dù có thần kỳ đến đâu
cũng sẽ trở thành lý thuyết, nếu nó không trực tiếp hoặc gián tiếp tác động
tích cực đến doanh nghiệp, đến môi trường pháp lý cho doanh nhân làm ăn.
Do những tố chất của mình, doanh nghiệp tạo nên cơ nghiệp cho mình và làm
giàu cho xã hội. Vì vậy, xã hội muốn giàu có thì phải hỗ trợ cho họ, cho chính
những doanh nghiệp đó một môi trường thuận lợi. Một môi trường kinh
doanh sống động, thông thoáng làm động lực thúc đẩy doanh nhân thường
phải hội tụ đủ điều kiện, trong đó Chính phủ có vai trò đặc biệt với những
chính sách nhất quán, đồng bộ, thực tiễn, thông thoáng, tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động.
Khi nói đến môi trường xã hội có tác động tới doanh nhân để hình
thành nên văn hóa doanh nghiệp, không thể không nhắc đến văn hóa nói
chung. Xưa kia, người ta xếp các giai tầng xã hội và đã rất coi trọng học vấn
thể hiện qua trật tự “sĩ, nông, công, thương”. Ngành kinh doanh được đặt ở
cuối cùng, dường như người ta còn xem nhẹ đội ngũ doanh nhân. Hiện nay
vài trò doanh nhân đã được nhận thức và khuyến khích rõ rệt những vẫn nhiều
người còn cho rằng người làm kinh doanh là người “tính toán”, chỉ biết cái lợi
của riêng mình. Thái độ này là không tích cực và không tạo điều kiện cho sự
hình thành văn hóa doanh nghiệp. Cần hướng cho xã hội một cách nhìn nhận
mới về hoạt động của các nhà doanh nghiệp không phải chỉ đơn thuần vì mục
tiêu lợi nhuận, mà còn thấy ở đây sự phát huy truyền thống yêu nước, tính
cộng đồng một cách sáng tạo. Họ là những con người biết tự làm giàu cho bản
thân và cho đất nước, họ là những người không cam chịu nghèo nàn, lạc hậu
càng không chấp nhận tụt hậu trước những tiến bộ nhanh chóng của thế giới
và khu vực – đó mới chính là những người yêu nước. Chính vì thế mà họ cần
56
được tạo mọi điều kiện cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội. Đồng thời,
chúng ta cần đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy Nhà
nước và toàn bộ hệ thống chính trị, ở các cấp, các ngành từ TW đến cơ sở, tạo
dư luận xã hội tôn vinh sự làm giàu chính đáng bằng tài năng, kiên quyết
chống lại sự làm giàu bất chính.
Sự tôn vinh của xã hội đối với đội ngũ doanh nghiệp làm cho các doanh
nhân cảm thấy thực sự tự tin vì biết mình đang được mọi người ủng hộ. Hơn
thế nữa, họ sẽ cảm thấy có trách nhiệm hơn trong việc kết hợp lợi ích cá nhân
với lợi ích người tiêu dùng và toàn xã hội – đó là khởi nguồn của văn hóa
doanh nghiệp.
1.2. Giải pháp đối với doanh nghiệp
1.2.1. Xây dựng môi trường làm việc hiệu quả
Để người lao động có thể làm việc hiệu quả thì môi trường làm việc
đóng một vài trò vô cùng quan trọng. Môi trường làm việc ở đây không chỉ về
mặt vật chất mà còn cả về tinh thần. Công ty FPT có một điểm mạnh đó là các
lập trình viên có thể làm việc từ 12-13 tiếng một ngày có lẽ bởi vì họ đã tạo ra
được một môi trường làm việc thực sự hứng thú cho nhân viên. Vậy môi
trường làm việc cần các yếu tố nào?
Thứ nhất, đó phải là một môi trường mang tính cạnh tranh cao. Môi
trường đó tạo ra được mục tiêu, định hướng cho toàn thể nhân viên phấn đấu,
đồng thời cũng đảm bảo sự công bằng cho mọi nhân viên. Từ đó là động lực
cho nhân viên cống hiến hết mình vì công ty.
Thứ hai, trong môi trường làm việc đó, nhân viên có thể bộc lộ, thể
hiện hết khả năng của mình, thể hiện cái “tôi” trong cái “chúng ta” của cả
doanh nghiệp. Nhờ vậy mà cá nhân có thể phát huy hết sở trường, và đồng
thời thực thi những luật lệ nhất định trong công ty, để dân chủ nhưng không
quá trớn, tạo nên một tổ chức đoàn kết, vững mạnh. Và trong chính công ty
57
FPT, họ khá nổi tiếng là một tập thể đoàn kết, cùng nhau vượt qua mọi khó
khăn để cùng tiến lên, khẳng định vị thế như ngày nay.
Thứ ba, cần tạo ra một phong trào tinh thần cho nhân viên. Khi công
việc căng thẳng, nếu không có một sân chơi về tinh thần cho nhân viên thì
khó có thể tái tạo sức lao động một cách hiệu quả. Đây cũng là một hình thức
giúp các nhân viên trong cùng công ty có cơ hội giao lưu, học hỏi, giúp đỡ lẫn
nhau và cùng nhau tiến bộ.
1.2.2. Nâng cao năng lực của nhà lãnh đạo, đảm bảo sự cam kết và gương
mẫu đi đầu của các cấp lãnh đạo trong doanh nghiệp
Chúng ta đã biết văn hóa của người đứng đầu hoặc của nhóm người
quản lý cao nhất trong doanh nghiệp là nguồn đầu vào có ảnh hưởng mạnh mẽ
đối với văn hóa doanh nghiệp, chỉ sau ảnh hưởng của văn hóa dân tộc. Văn
hóa kinh doanh ở trình độ cao hay thấp, mục tiêu tồn tại của doanh nghiệp là
gì cơ bản phụ thuộc vào người lãnh đạo doanh nghiệp. Trong nhân cách nhà
doanh nghiệp thì các yếu tố bản lĩnh và phẩm chất đạo đức có tác động trực
tiếp tới văn hóa doanh nghiệp và do đó sẽ ảnh hưởng đến nền văn hóa doanh
nghiệp chung. Nếu một nhà kinh doanh kém năng lực thì sẽ khó có thể tồn tại
trong cạnh tranh, sẽ không có cơ hội tạo ra văn hóa riêng cho doanh nghiệp
của mình. Hoặc ngay cả khi người lãnh đạo có năng lực kinh doanh, giỏi về
quản lý, song không dám hay không muốn nói lên quan điểm cá nhân, chủ
kiến về công việc kinh doanh thì cũng không thể tạo ra văn hóa kinh doanh
của doanh nghiệp, bên cạnh đó còn nhiều nhân tố khác như phẩm chất đạo
đức, điều kiện để cho cái lợi gắn với cái đẹp, cái đúng,…
Các công ty muốn đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội trong kinh doanh
thì lãnh đạo công ty chẳng những đưa ra được những tuyên bố công khai về
những giá trị mà công ty phải hướng tới mà các giá trị này còn được nhóm
lãnh đạo cao nhất cam kết thực hiện bằng việc gương mẫu và chuyển tải
58
chúng thường xuyên, liên tục vào các hoạt động của công ty. Thực tế này sẽ
tạo dựng niềm tin và hành vi noi theo cho nhân viên.
Trong thực tế, không ít tổ chức khó thành công trong việc phát triển
văn hóa tổ chức. Lãnh đạo những doanh nghiệp này thường ở trong tình trạng
không đưa ra được những tuyên bố rõ ràng về sứ mệnh, về mục tiêu, về giá trị
cần phải xây dựng hoặc có sự không phù hợp giữa những tuyên bố này với
những cách thức thực thi chúng (các tổ chức công trước khi diễn ra các thay
đổi thường ở trong tình trạng này). Nếu như ở đây cần sự cảnh báo, phải
chăng đó là do có khoảng cách đáng kể giữa những điều tốt đẹp được nói ra
trong các tuyên bố với hành vi quản lý trong thực tế. Hậu quả của tình trạng
này là sự phá hủy tính thống nhất và niềm tin của các thành viên trong doanh
nghiệp. Sự mập mờ này khiến cấp dưới và nhân viên hoặc rơi vào lúng túng,
thụ động hoặc tự phát hành động, bởi họ là những người chịu ảnh hưởng
nhiều của văn hóa tổ chức trong khi tổ chức lại chịu ảnh hưởng văn hóa của
cấp lãnh đạo.
Năng lực ở đây là năng lực chuyên môn, năng lực quản lý, và đó cũng
chính là những điều kiện cần để hình thành văn hóa kinh doanh của doanh
nghiệp. Ngày nay trong nền kinh tế tri thức, khoa học kỹ thuật phát triển, như
vũ bão, để chiến thắng trong cạnh tranh thì trước hết lãnh đạo doanh nghiệp
phải là người có tài năng. Tài năng trong việc nắm bắt các thành tựu khoa học
và công nghệ, trong việc tìm hiểu, đánh giá thực trạng thị trường, dự báo được
chiều hướng thay đổi cung – cầu, từ đó có thể đi trước, đón đầu trong việc
vạch ra kế hoạch hành động của doanh nghiệp, trong quản lý tài chính để mỗi
đồng vốn bỏ ra đều mang lại hiệu quả cao, không để xảy ra thất thoát, lãng
phí, trong việc quản lý nhân lực để có thể phát huy được tính sáng tạo và tài
năng của mỗi người ở các vị trí và định hướng cho họ phấn đấu vì lợi ích của
cá nhân cũng như lợi ích lâu dài của doanh nghiệp. Để có thể nâng cao năng
lực của lãnh đạo doanh nghiệp thì chính người lãnh đạo đó phải ý thức được
59
tầm quan trọng của điều này và tự họ phải luôn ý thức để tự học, trau dồi
trong quá trình hoạt động sản xuất – kinh doanh, quản lý doanh nghiệp. Vấn
đề mà họ cần quan tâm trước hết đó là những thông tin về thị trường, tiến bộ
khoa học kỹ thuật… và không chỉ ở trong phạm vi trong nước mà còn cả ở thị
trường nước ngoài. Bên cạnh việc nâng cao năng lực thì việc trau dồi phẩm
chất đạo đức cũng rất có ý nghĩa. Nói đến phẩm chất đạo đức không chỉ là
vấn đề nhân cách, uy tín của nhà kinh doanh. Người ta phải hiểu rằng là người
lãnh đạo thì nhân cách của họ có ảnh hưởng trực tiếp đến các nhân viên trong
quá trình họ trực tiếp thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, và chính thông
qua việc cung cấp những hàng hóa dịch vụ họ kinh doanh sẽ tạo nên hình ảnh
của doanh nghiệp. Người lãnh đạo doanh nghiệp phải nhận thức được rằng
chính phẩm chất đạo đức trong kinh doanh là một trong những yếu tố quyết
định sự thành công trong kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.3. Nâng cao nhận thức và trình độ của đội ngũ nhân viên
Như phần trên đã trình bày, văn hóa doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp
tới tinh thần, thái độ làm việc của mỗi thành viên doanh nghiệp và lòng trung
thành của họ đối với doanh nghiệp. Ngược lại, chính thái độ, tinh thần làm
việc của mỗi nhân viên trong từng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
thể hiện văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp. Đội ngũ nhân viên của doanh
nghiệp có nhận thức được tầm quan trọng của việc tạo dựng hình ảnh của
công ty mình, có thực hiện tốt những mục tiêu mà công ty theo đuổi, có thực
hiện hoạt động kinh doanh vì lợi ích của công ty, của người tiêu dùng thì mới
làm cho văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp có cơ hội phát triển.
Nhân viên chính là người trực tiếp thực hiện hoạt động kinh doanh, là
người quyết định mục tiêu, lý tưởng của lãnh đạo doanh nghiệp có thể thành
hiện thực hay không. Chính vì thế, việc nâng cao trình độ chuyên môn cho
nhân viên là tối quan trọng để đảm bảo chất lượng sản phẩm doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, phải cho họ thấy tầm quan trọng của mình trong thành công của
60
doanh nghiệp. Muốn nhân viên làm việc hết mình vì doanh nghiệp thì chính
lãnh đạo doanh nghiệp phải quan tâm đến lợi ích của họ, phải cho họ thấy
rằng lợi ích của họ gắn chặt với lợi ích của công ty mà công ty có phát triển
bền vững hay không dựa trên việc họ có quan tâm đến lợi ích bạn hàng, khách
hàng và lợi ích toàn xã hội hay không. Sự quan tâm đó thể hiện trong từng
hoạt động kinh doanh, trong giao tiếp với bạn hàng, khách hàng. Như vậy, lợi
ích kinh tế ảnh hưởng nhiều đến thái độ, ý thức công việc của nhân viên, nếu
công ty trả lương xứng đáng cho họ thì tự họ cũng sẽ nhận thấy mình phải tự
nâng cao nhận thức và trình độ của mình, tự họ sẽ hết lòng vì công ty. Tuy
nhiên, lương không phải là yếu tố duy nhất. Như từ đầu đã trình bày, lợi ích
kinh tế không phải là tất cả những gì mà các doanh nghiệp hướng tới. Nếu họ
chỉ biết nghĩ đến lợi ích của mình thì họ sẽ không thể tồn tại và phát triển
được mà phải biết quan tâm đến lợi ích của khách thể hoạt động kinh doanh.
Đó mới là điều kiện đủ của văn hóa doanh nghiệp. Đối với nhân viên trong
doanh nghiệp cũng vậy, bên cạnh đời sống vật chất, họ còn đời sống tinh thần
phong phú và tiền đôi khi không thể sánh được.
Như vậy, ta có thể thấy, đội ngũ nhân viên đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo nên hình ảnh của doanh nghiệp, họ là người trực tiếp phục vụ
khách hàng, trực tiếp tạo ra những sản phẩm theo yêu cầu khách hàng, cho
nên họ sẽ quyết định hình ảnh doanh nghiệp trong con mắt của người tiêu
dùng và toàn xã hội. Để tạo ra hình ảnh đẹp về doanh nghiệp thì tự bản thân
doanh nghiệp phải có những nhân viên có trình độ cao, ý thức được vai trò
của mình, có trách nhiệm trong công việc, nhận thức được mục tiêu phát triển
ổn định của doanh nghiệp. Để có được những nhân viên như thế, lãnh đạo
doanh nghiệp phải quan tâm đến việc nâng cao trình độ và biết cách khuyến
khích sự sáng tạo, biết tạo cho nhân viên mình tinh thần tự giác làm việc hăng
say vì mục tiêu mà công ty đặt ra. Tất nhiên, đối với mỗi doanh nghiệp lại có
những cách khác nhau để xây dựng được một đội ngũ nhân viên tốt.
61
1.2.4. Định hướng về công việc và cơ cấu tổ chức cho nhiệm vụ mới
Doanh nghiệp phải có các can thiệp hướng vào luồng công việc và cơ
cấu của tổ chức để có sự phù hợp giữa giá trị và nhiệm vụ mới của tổ chức.
Trong thực tế không hiếm trường hợp người ta đưa ra những tuyên bố về
nhiệm vụ mới của tổ chức nhưng lại không đầu tư thích đáng cho việc rà soát
lại dòng chảy công việc, vào quản lý nhân sự và cơ cấu tổ chức. Thiếu sót này
khiến giá trị của tổ chức không hiện hữu được trong các hoạt động của doanh
nghiệp, dẫn đến xung đột giữa “văn hóa được đề xướng” với “văn hóa trong
thực tế”.
Ví dụ, trong tuyển dụng, việc đăng quảng cáo tuyển người của doanh
nghiệp cần thể hiện rõ ràng quan điểm, giá trị mà doanh nghiệp đòi hỏi. Nếu
bảng hỏi được thiết kế để đánh giá trong thi tuyển chỉ nhắm vào kiến thức, kỹ
năng là chưa đủ. Trong quy trình quản lý nhân sự nếu chuyển tải được giá trị,
mong đợi của doanh nghiệp vào khâu tuyển dụng thì các khâu sau đỡ phải xử lý.
Ngại động chạm vào bộ máy, xem nó là cái “nhất thành bất biến” cũng
là tâm lý có ở số đông người Việt Nam. Tình trạng tách nhập các tổ chức ở
nước ta trong thời gian trước đây và hiện nay thường ít đem lại kết quả cho
người đề xướng lẫn người trong cuộc, có nhiều nguyên nhân trong đó có
nguyên nhân ngại động chạm vào những thay đổi về cơ cấu, nhân sự.
Khi có sự định hướng lại các giá trị cơ bản thì doanh nghiệp cũng cần
rà soát lại các văn bản quy định. Các văn bản này phải thực tế, rõ ràng, khả
thi. Hơn nữa phải lôi kéo được sự tham gia của các thành viên vào việc xây
dựng văn bản này, khắc phục tính thụ động trông chờ vào cấp trên - tàn dư
của thời bao cấp. Điều này có ý nghĩa: giới hạn thói quen “tự điều chỉnh” của
cá nhân vào khuôn khổ chung của doanh nghiệp.
62
1.2.5. Xây dựng, quảng bá và phát triển thương hiệu
Xây dựng và quảng bá thương hiệu là một trong những yêu cầu cấp
thiết hiện nay để phát triển doanh nghiệp. Tuy nhiên, công việc này rất cần ý
chí và nghị lực của doanh nghiệp trong việc không ngừng nâng cao năng suất
chất lượng sản phẩm và dịch vụ, việc làm đó cần cả một quá trình phấn đấu,
cần có khả năng tài chính, không thể giải quyết một sớm, một chiều vì thương
hiệu tạo ra nhận thức và niềm tin của người tiêu dùng đối với sản phẩm, dịch
vụ mà doanh nghiệp cung ứng.
Thương hiệu có tác dụng rất lớn và là một phần có tính hệ thống của
văn hóa doanh nghiệp. Nó tạo sự khác biệt và độc đáo cho sản phẩm và dịch
vụ, nó khẳng định đẳng cấp trên thương trường của doanh nghiệp. Càng ngày
các doanh nghiệp càng nhận thấy rằng một trong những tài sản quý giá của
doanh nghiệp chính là thương hiệu. Khi định giá tài sản cho một doanh
nghiệp, thương hiệu là một yếu tố không thể bỏ qua. Giá trị của thương hiệu
là triển vọng lợi nhuận mà thương hiệu có thể mang lại cho doanh nghiệp
trong tương lai. Qua thực tiễn sản xuất- kinh doanh của các doanh nghiệp
thành công trên thị trường, có thể khẳng định rằng doanh nghiệp nào có ý
thức đầu tư xây dựng, quảng bá, phát triển thương hiệu thì uy tín, hình ảnh
sức hấp dẫn của họ trên thị trường sẽ được xác lập, củng cố nâng cao và do đó
tài sản vô hình của họ cũng tăng lên tương ứng.
2. Giải pháp cho doanh nghiệp FPT
2.1. Học hỏi những giá trị từ các doanh nghiệp khác, từ nền văn hóa khác
hay từ chính những thành viên trong công ty
Để tồn tại trong môi trường kinh doanh phức tạp, đa văn hóa, FPT
không thể duy trì văn hóa doanh nghiệp mình giống như những lãnh địa đóng
kín cửa mà phải mở cửa và phát triển giao lưu về văn hóa.
Việc phát triển văn hóa, giao lưu sẽ tạo điều kiện cho công ty học tập,
lựa chọn những khía cạnh tốt về văn hóa của các doanh nghiệp khác nhằm
63
phát triển mạnh nền văn hóa của doanh nghiệp mình và ngược lại. Vấn đề
giao lưu văn hóa đang ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn. Tuy
nhiên, tính hai mặt của vấn đề lại thể hiện rõ nét. Nếu tiếp nhận không có
chọn lọc thì sẽ ảnh hưởng tới văn hóa doanh nghiệp theo hướng tiêu cực. Do
vậy, khi mở cửa hay tiến hành giao lưu văn hóa cần phải có chọn lọc.
Để việc giao lưu văn hóa có chọn lọc có thể sử dụng kết quả của quá
trình nghiên cứu thị trường, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, của những chương
trình giao lưu giữa các doanh nghiệp trong một ngành, của những khóa đào
tạo mà doanh nghiệp này mở cho nhân viên ở doanh nghiệp khác tham gia.
Khi nền kinh tế hội nhập, mở cửa, giao lưu không những chỉ về kinh tế
mà ngay trong hoạt động kinh tế thì những yếu tố văn hóa cũng được giao
thoa. Quan hệ với đối tác để học hỏi phát triển kinh tế thu lợi nhuận tuy nhiên
đó cũng là sự gặp gỡ về văn hóa giữa các quốc gia, các doanh nghiệp. Và điều
hiển nhiên, doanh nghiệp sẽ được tiếp cận những yếu tố văn hóa tiến bộ, làm
cho văn hóa doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh.
Những giá trị văn hóa cũng có thể do một hay nhiều thành viên mới đến
mang lại. Việc tiếp nhận những giá trị này thường trải qua một thời gian dài,
một cách có ý thức hoặc vô thức. Ví dụ, một nhân viên trong doanh nghiệp
chưa có thói quen giải quyết khiếu nại của khách hàng trong vòng 24 giờ (thói
quen của nhân viên mới). Do thực hiện tốt công việc, nhân viên đó được
khách hàng gửi thư khen ngợi, được giám đốc khen thưởng. Các nhân viên
khác cũng noi gương theo, dẫn đến hình thành nên nét văn hóa mới trong
doanh nghiệp.
2.2. Hạn chế các xung đột văn hóa
FPT là một doanh nghiệp, một tập hợp nhiều cá nhân, nhiều bộ phận.
Và điều đương nhiên “Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”, tính cách của mỗi
người khác nhau, ngay anh em trong một nhà tính cách, quan điểm sống cũng
khác nhau. Như vậy, trong tổ chức thì không tổ chức nào thuần nhất các cá
64
nhân có cùng một loại hình văn hóa. Họ đến từ nhiều nơi khác nhau và mang
trong mình những nét văn hóa khác nhau. Ngay cả trình độ các thành viên
cũng khác nhau nên sự quan niệm về đạo đức, cách sống, lối cư xử cũng
không thể giống nhau. Những hành vi cử chỉ của các thành viên trong doanh
nghiệp một phần tạo nên văn hóa chung trong doanh nghiệp.
Bản thân văn hóa doanh nghiệp cũng vận động không ngừng. Sự vận
động này gắn với sự thay đổi của môi trường văn hóa. Do đó các quá trình
xung đột và dung hòa diễn ra thường xuyên trong nội bộ doanh nghiệp làm
thay đổi những chuẩn mực và giá trị về văn hóa, loại bỏ, đào thải những yếu
tố lạc hậu lỗi thời, không phù hợp và tiếp nhận các yếu tố tiến bộ.
Theo quy luật mâu thuẫn là động lực của sự phát triển thì ngay trong
lòng quá trình xung đột văn hóa, văn hóa sẽ có chiều hướng phát triển ngày
càng theo hướng tích cực, còn những yếu tố tiêu cực sẽ bị đào thải.
Ở FPT xung đột này có thể xảy ra giữa các nhóm, nguyên nhân thông
thường nhất là xung đột giữa các nhóm trong doanh nghiệp mà nguồn lực
khan hiếm, cần phải có thêm nguồn lực và nhu cầu này mở ra xung đột. Đôi
khi sự độc lập giữa các nhiệm vụ cũng tạo ra xung đột. Khi mục tiêu không
được chia một cách tương hỗ cho nhau thì xung đột có thể xảy ra.
Vậy để hạn chế các xung đột trước hết các nhà quản lý FPT cần giải
quyết ổn thỏa và hàn gắn các mối quan hệ, sau đó là xây dựng một môi trường
làm việc tốt, trong đó các cá nhân nhận ra được vai trò và trách nhiệm của
mình trước tập thể và trước doanh nghiệp. Từ đó làm cho người lao động
trong một tập thể, một trung tâm quan tâm, giúp đỡ nhau nhiều hơn, trao đổi
thông tin tốt hơn. FPT với đội ngũ những người lao động cần cù, sáng tạo và
họ luôn có những mối quan hệ tốt với nhau, ràng buộc không chỉ trong công
việc mà còn cả trong cuộc sống, vì vậy tạo ra mối quan hệ gần gũi giữa nhân
viên này với nhân viên khác, giữa nhân viên với các nhà quản trị sẽ rút ngắn
được khoảng cách về tâm lý và đều có ý nghĩa hơn là họ sẽ không cảm thấy bị
65
cô lập, mong muốn được hiểu biết, được trao đổi và xóa tan bầu không khí
làm việc căng thẳng, nặng nhọc.
Nhà quản trị phải quan tâm tới lợi ích của tập thể cũng như lợi ích cá
nhân người lao động, coi công ty thực sự là một gia đình lớn của mọi người.
Có như vậy, người lao động mới hướng vào các hoạt động và các mục tiêu
chung của công ty, của doanh nghiệp.
2.3. Xây dựng ý thức tổ chức kỷ luật
Với các doanh nghiệp điều quan trọng trong quá trình xây dựng bản
triết lý kinh doanh là đề cập đến quy tắc xử sự trong doanh nghiệp khi có
những vấn đề phát sinh và yếu tố không thể thiếu trong bản triết lý kinh doanh
đó là ý thức của người lao động. Xưa nay người lao động nước ta vẫn bị coi là
vô kỷ luật, không có tinh thần trách nhiệm dẫn đến ảnh hưởng xấu tới môi
trường chung của toàn bộ nền kinh tế. Chúng ta không còn cách nào khác là
phải cải thiện tình hình này bằng chính lòng quyết tâm muốn xây dựng nên
doanh nghiệp kiểu mẫu, những doanh nghiệp điển hình và bằng các phương
pháp khác nhau như đào tạo, giáo dục, thuyết phục tạo niềm tin cho họ và
giúp họ thấy được quyền hạn, quyền lợi và trách nhiệm của mình. Với truyền
thống của người phương Đông, coi trọng những giá trị đạo đức cao đẹp, lòng
nhân ái và đức tính bao dung, chúng ta phải khơi dậy cho họ biết họ đã và sẽ
có tất cả.
Đồng thời, muốn xây dựng niềm tin và ý thức làm việc tốt thì trong quá
trình hoạt động kinh doanh, phải quan tâm tới người lao động, kích thích và
tạo niềm tin, niềm say mê làm việc cho người lao động. Khi họ mắc lỗi phải
tận tình chỉ bảo và giúp họ nhận ra khuyết điểm của mình. Như vậy vừa tạo
cho họ bầu không khí thoải mái, vừa tạo sự gần gũi giữa người lao động và
các cấp quản trị trong doanh nghiệp.
Ngày nay, ý thức tổ chức kỷ luật không chỉ dừng lại ở những nguyên
tắc cứng nhắc mà nó còn dựa trên những nền tảng cơ bản đó là tính chất và
66
nhiệm vụ làm việc, khả năng và niềm tin mong muốn tôn trọng và được tôn
trọng… Do vậy doanh nghiệp cần tạo ra những cuộc gặp gỡ thoải mái chân
tình để trao đổi với người lao động nhiều hơn và qua đó sẽ thấy được họ cần
gì và thiếu gì.
Doanh nghiệp cũng cần nhận thức được vấn đề kỷ luật đối với những
nhân viên có suy nghĩ, hành động đi ngược lại với văn hóa, thuần phong mỹ
tục Việt Nam. Có thể những lời nói, hành động đó, trong một vài hoàn cảnh là
chấp nhận được nhưng trong một môi trường truyền bá rộng rãi và nhanh
chóng như doanh nghiệp FPT thì các nhà quản lý phải thực sự nghiêm khắc.
2.4. Tạo cơ hội thăng tiến phát triển nghề nghiệp
Những nhân viên giỏi thường có tinh thần cầu tiến. Họ luôn khao khát
tìm kiếm cơ hội thăng tiến phát triển nghề nghiệp của mình, vì họ quan niệm
rằng “không tiến ắt lùi‟. Nắm bắt tâm lý này, công ty nên vạch ra những nấc
thang vị trí nhảy vọt kế tiếp cho họ, đồng thời lên chương trình đào tạo phù
hợp đi kèm. Dĩ nhiên, giải pháp đào tạo bao giờ cũng tốn kém, công ty có thể
trăn trở liệu họ có ở lại với mình không sau khi mình đã đầu tư quá nhiều?
Vấn đề không phải là nên hay không nên đào tạo, mà là công ty phải biết chọn
đúng người để đầu tư, dựa vào quá trình cống hiến của họ, phẩm chất đạo
đức, và cam kết của cả hai bên sau khi đào tạo.
Điều quan trọng là công ty phải biết nhân viên của mình muốn gì, sau
đó xem có thể đáp ứng họ ở những vấn đề gì và ở mức độ nào, rồi từ đó chọn
lựa và đưa ra các phương án phù hợp nhằm “lèo lái” nhu cầu của cá nhân đi
cùng với mục tiêu phát triển của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải có chính
sách sử dụng, đãi ngộ nhân viên cho thích đáng. Nhân viên được trả lương
đúng với công sức mình bỏ ra thì họ mới tiếp tục làm việc và cống hiến cho
công ty. Ngoài ra, nhân viên cũng cần được tạo điều kiện để thỏa sức sáng
tạo, mang lại những ý tưởng mới lạ và có hiệu quả cho doanh nghiệp.
2.5. Tăng cƣờng sự đánh giá khen thƣởng, tuyên dƣơng của cấp trên
67
Việc đánh giá, xếp loại nhân viên không chỉ đơn thuần dựa vào mục
tiêu và thành tích đạt được. Một hệ thống khen thưởng tối ưu cần đáp ứng các
yếu tố bù đắp, phúc lợi, công nhận và tuyên dương nhân viên.
Trên thực tế, đánh giá quá trình làm việc của nhân viên tại doanh
nghiệp không chỉ đơn giản là đưa ra những nhận xét. Các chuyên gia về nhân
sự cho rằng, để việc đánh giá nhân viên đạt hiệu quả thiết thực, nhà quản lý
cần dự tính trước và xác định được giới hạn của phạm vi đánh giá, cũng như
thiết lập môi trường làm việc phù hợp để thực hiện quá trình đánh giá. Bên
cạnh đó, do phần lớn các công ty đều sử dụng một hình thức đánh giá chung
cho tất cả công việc trong nội bộ, nhà quản lý cần biết sử dụng những lời bình
luận và giải thích để mở rộng việc đánh giá, nhằm thay đổi hình thức đánh giá
theo từng công việc cụ thể.
Việc khen thưởng không chỉ nhằm mục đích đem lại… giá trị vật chất
cho nhân viên mà theo các chuyên gia về nhân sự thì một hệ thống khen
thưởng tối ưu cần đáp ứng các yếu tố bù đắp, phúc lợi, công nhận và tuyên
dương nhân viên. Vì thế, tiền bạc chưa hẳn là yếu tố chính tạo nên… xúc cảm
cho nhân viên khi nhận thưởng. Quan trọng hơn, theo các chuyên gia về nhân
sự, nhân viên cần được công nhận và đánh giá cao năng lực thể hiện, thành
tích đạt được… tại doanh nghiệp như một sự biết ơn. Cách làm xem ra cũng
không quá phức tạp: một bản nhận xét cá nhân được người quản lý gửi trực
tiếp đến nhân viên; công khai cảm ơn nhân viên này trước các đồng nghiệp vì
những hành động cụ thể đã làm, có tác động tích cực đến tổ chức…
68
KẾT LUẬN
Trong một doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp quy mô lớn,
là một tập hợp những con người khác nhau về trình độ chuyên môn, trình độ
văn hóa, mức độ nhận thức, quan hệ xã hội, vùng miền địa lý, tư tưởng văn
hóa,... chính sự khác nhau này tạo ra một môi trường làm việc đa dạng và
phức tạp thậm chí có những điều trái ngược nhau. Làm thế nào để thống nhất
những sự khác nhau đó ở bên trong một doanh nghiệp, cũng như dung hòa
những mâu thuẫn? Và câu trả lời chính là “văn hóa doanh nghiệp”.
Bên cạnh đó, với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của nền kinh tế thị
trường và xu hướng toàn cầu hóa, buộc các doanh nghiệp để tồn tại và phát
triển phải liên tục tìm tòi những cái mới, sáng tạo và thay đổi cho phù hợp với
thực tế. Muốn làm được những điều ấy, doanh nghiệp phải tạo cho mình một
nét văn hóa riêng, mang bản sắc, nét đặc thù của chính doanh nghiệp, mà ở đó
chứa đựng những tư tưởng, những triết lý kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng
thời văn hóa doanh nghiệp còn phải thể hiện được nếp suy nghĩ, hành động
của từng thành viên trong doanh nghiệp. Có như vậy, doanh nghiệp mới đứng
vững trên thị trường.
Thông qua “hiện tượng FPT” và “sự cố ARENA”, tác giả khóa luận
muốn chỉ ra một vài sai lầm mà các doanh nghiệp thường gặp phải khi xây
dựng cho mình một nền văn hóa doanh nghiệp riêng. Trong khóa luận, tác giả
cũng đưa ra một vài giải pháp cho doanh nghiệp nói chung cũng như một vài
giải pháp riêng cho doanh nghiệp FPT.
Cho dù muốn vượt lên, muốn khẳng định, muốn thể hiện bản thân thì
các thành viên trong doanh nghiệp cũng không nên vượt ra khỏi phạm vi văn
hóa của dân tộc, của môi trường mà doanh nghiệp đang hoạt động, đang tồn
tại. Đồng thời văn hóa doanh nghiệp cũng phải phù hợp với những nét văn
hóa truyền thống của vùng, miền đó. Có như vậy, văn hóa doanh nghiệp mới
thật sự trở thành động lực giúp các thành viên trong doanh nghiệp luôn phấn
đấu hết mình vì mục tiêu chung, vì sự trường tồn của doanh nghiệp.
69
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ môn Marketing trường Đại học Kinh tế Quốc dân (1991), Quảng
cáo- lý thuyết và thực hành, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân.
2. Trần Quốc Vượng (2007), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản giáo
dục.
3. Trần Văn Bạt (2005), Văn hóa và con người, Nhà xuất bản Hội nhà văn.
4. TS. Nguyễn Mạnh Quân (2004), Giáo trình Đạo đức kinh doanh và văn
hóa doanh nghiệp, Nhà xuất bản Lao động- Xã hội, Hà Nội.
Trang Web:
5. Diendandoanhnghiep Homepage:
cua-thanh-cong.htm, truy cập ngày 15/2/2009
6. Doanhnhan360 Homepage:
360/Chuc_nang_va_noi_dung_van_hoa_doanh_nghiep/, truy cập ngày
20/3/2009
360/Dao_duc_kinh_doanh_cua_thi_dan_Nhat_Ban/, truy cập ngày 20/3/2009
360/VHDN-tiep_can_hien_dai_ve_DN/, truy cập ngày 20/3/2009
7. FPT Homepage:
truy cập ngày 15/2/2009
8. Lanhdao Homepage:
truy cập ngày 15/2/2009
70
truy cập ngày
15/2/2009
9. Saga Homepage:
truy cập ngày 15/2/2009
truy cập ngày 15/2/2009
truy cập ngày 20/2/2009
10. Tapchicongsan Homepage:
, truy cập ngày 20/3/2009
truy cập ngày 30/3/2009
11. Thesaigontimes Homepage:
truy cập ngày
20/2/2009
truy cập
ngày 20/2/2009
12. Vietnamweek Homepage:
x.aspx, truy cập ngày 20/2/2009
13. VIDS Homepage:
truy cập ngày 30/3/2009
14. VTC Homepage:
truy cập
ngày 20/2/2009
71
arena/195634/index.htm, truy cập ngày 20/2/2009
khoa-than/191596/index.htm, truy cập ngày 20/2/2009
15. Wikipedia Homepage:
%87p, truy cập ngày 15/2/2009
truy cập ngày
15/2/2009
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4571_5947.pdf